Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Xuất khẩu thủy sản của việt nam sang thị trường liên minh châu Âu(EU) trong giai đoạn năm 2010 – quý i 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.86 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Nhiều năm qua, thị trường EU không chỉ là thị trường lớn cho các mặt hàng nói
chung mà còn là thị trường tiêu thụ thủy sản lớn của Việt Nam. Từ vị trí hết sức
khiêm tốn, các mặt hàng thủy sản Việt Nam đã từng bước thâm nhập và tạo được
chỗ đứng trên thị trường EU nói chung và từng thành viên EU nói riêng.
Bên cạnh những thành công thì việc XK thủy sản của Việt Nam sang thị trường
EU vẫn còn nhiều yếu tố bất định và thiếu tính bền vững.
Để biết được và hiểu được những vấn đề xoay quanh XK thủy sản của Việt Nam
sang EU thì chúng ta cùng đi tìm hiểu đề tài:
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Liên minh Châu Âu(EU)
trong giai đoạn năm 2010 – quý I 2015
I. Khái quát chung về thị trường thủy sản EU
1. Thông tin chung về EU
- Quá trình hình thành:
EU là một tổ chức kinh tế, chính trị hùng mạnh. EU được hình thành và
hoạt động trên cơ sở các hiệp ước chủ yếu sau:
+ Hiệp ước thành lập Cộng đồng Than thép Châu Âu(CECA) ký năm
1951, gồm 6 nước: Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan và Lucxambua.
+ Hiệp ước thành lập Cộng đồng nguyên tử Châu Âu(EURATUM), ký
năm 1957.
+ Hiệp ước thành lập Cộng đồng Kinh tế Châu Âu(EEC), ký cùng ngày
với hiệp ước EURATUM.
+ Hiệp ước thành lập Cộng đồng Châu Âu(EC), ký năm 1967.
+ Hiệp ước Maastricht về thành lập Liên minh Châu Âu(EU) ký năm
1992, gồm 12 nước thành viên EC lập ra.
Cơ cấu tổ chức, mọi công việc của EU do 5 cơ quan chủ yếu thực hiện:
Hội đồng Châu Âu(EC), ủy ban Châu Âu, Hội đồng Bộ trưởng, Nghị
viện Châu Âu, Tòa án Châu Âu.
- Các thành viên của Liên minh Châu Âu
Mỗi nước thành viên của Liên minh Châu Âu là một quốc gia có chủ
quyền đã gia nhập Liên minh Châu Âu(EU).


Từ 6 nước thành viên sáng lập ban đầu, đến ngày nay EU có 28 nước
thành viên, đã có 6 lần mở rộng liên tiếp, trong đó đợt mở rộng lớn nhất
diễn ra ngày 1/5/2004, khi 10 nước được gia nhập. Hiện nay Liên minh
Châu Âu gồm 21 nước cộng hòa, 6 vương quốc và một đại công quốc.
Croatia là hội viên mới nhất, gia nhập ngày 1.07.2013. Các cuộc thương
thuyết cũng đang diễn ra với một số nước khác.
Trước khi được phép gia nhập Liên minh Châu Âu, một nước phải
hoàn tất các điều kiện chính trị và kinh tế, thường được gọi là các tiêu
chuẩn Copenhagen. Các yêu cầu cơ bản này mà một nước ứng viên phải
có là một chế độ dân chủ thế tục, cùng với các quyền tự do và thể chế
tương ứng, cũng như tôn trọng luật pháp. Trong điều kiện của hiệp ước
Maastricht việc mở rộng Liên minh phụ thuộc vào sự đồng ý của mỗi
quốc gia hội viên cũng như được Nghị viện Châu Âu chấp thuận.
2. Đặc điểm chung về thị trường thủy sản EU
- Đặc điểm chung về thị trường EU
Thị trường chung EU là một không gian lớn gồm 28 nước thành viên
mà ở đó hàng hóa, sức lao động, vốn và dịch vụ được lưu chuyển hoàn
toàn tự do. Thị trường chung gắn với chính sách thương mại chung. Nó
điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu và lưu thông hàng hóa, dịch vụ trong
nội khối.
Do vị trí địa lý và khí hậu khắc nhiệt, cộng thêm nguồn thủy sản của EU
đang nằm dưới giới hạn an toàn sinh học, buộc EU phải áp dụng biện
pháp hạn chế khai thác và đánh bắt thủy sản trong khi nhu cầu tiêu dùng
thủy sản của EU vẫn tăng nhanh. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong khối, EU buộc phải nhập khẩu thủy sản từ các quốc gia châu MỸ,
châu Á trong đó có Việt Nam.
EU là một trong những thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế giới
với giá trị nhập khẩu thủy sản hằng năm vượt 5,52 tỷ Euro. Phần lớn sản
phẩm thủy sản được nhập khẩu từ sác nước nội bộ trong khối. Tuy
nhiên, để bổ sung một số sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ (chủ yếu là

các sản phẩm thủy sản nước ấm) EU cũng nhập khẩu thủy sản từ hơn
180 quốc gia trên thế giới.
- Đặc điểm thị trường nhập khẩu của EU
EU thống nhất các qui định về chất lượng, sức khoẻ và an toàn vệ sinh
thực phẩm áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ Châu Âu. Thậm chí, Pháp và Ý
áp dụng quy định khắt khe hơn quy định của EU. Vì vậy, nhập khẩu
thủy sản vào Pháp, Ý có thể vẫn bị từ chối mặc dù đã tuân thủ đầy đủ
các điều kiện của EU. Đặc điểm then chốt các quy định của EU là hàng
thủy sản nhập khẩu vào EU từ các nước thành viên thứ 3 (không thuộc
EU) cần phải được chế biến, đóng gói và bảo quản tại các cơ quan mà
EU cho phép hoạt động.
Năm 2006, EU đưa ra luật mới đối với mặt hàng thủy sản nhập khẩu.
Luật mới được xem là nhất thể hóa qui định của EU. Luật mới về nhập
khẩu thủy sản vào EU là sự hợp nhất các qui định và chính sách đã được
hài hòa theo qui chuẩn của liên minh. Luật mới không nhằm gây khó
khăn hay giúp đỡ bất kỳ nước xuất khẩu nào cũng không phải để hạn
chế mặt hàng thủy sản vào EU mà nhằm mục đích bảo vệ người tiêu
dùng hiệu quả hơn. Bộ luật mới về nhập khẩu thủy sản được thể hiện
trong bốn hệ thống luật của EU với luật 178/2002 là chủ đạo và bốn luật
khác bổ sung bao gồm 852/2004, 853/2004, 882/2004 và 854/2004.
Luật nhập khẩu thủy sản được hài hòa và thống nhất là cơ hội cho các
nước xuất khẩu vì theo nguyên tắc chỉ cần đáp ứng tiêu chuẩn chung
của Cộng đồng châu Âu (EC), hàng thủy sản có thể vào bất kỳ thị
trường thành viên nào trong EU, thay vì phải điều chỉnh theo từng thị
trường như trước đây.
Muốn nhập khẩu được vào thị trường EU thì phải vượt qua được rào cản
kỹ thuật của EU. "Rào cản kỹ thuật" là biện pháp chủ yếu để bảo hộ sản
xuất và tiêu dùng nội địa hiện nay vì thuế nhập khẩu vào EU đang giảm
dần. Bởi vậy, yếu tố có tính quyết định để thâm nhập được vào thị
trường EU chính là vượt qua được rào cản kỹ thuật của EU. Rào cản kỹ

thuật chính là qui chế nhập khẩu chung được cụ thể hoá ở 5 tiêu chuẩn
của sản phẩm: chất lượng, vệ sinh thực phẩm, an toàn cho người sử
dụng, bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về lao động.
- Thực trạng nhập khẩu thủy sản của thị trường EU
Thị trường thủy sản của EU được chia làm 3 khu vực chính:
Đầu tiên là thị trường Bắc Âu( bao gồm Vương quốc Anh, các nước
vùng Scandinavi và Hà Lan). Các nước Bắc Âu đều có biển, nguồn hải
sản tương đối phong phú, có nghề đánh bắt truyền thống nên có thế
mạnh về xuất khẩu hải sản (trong đó có tôm, nhất là các loại tôm nước
lạnh). Nhập khẩu tôm cuả nước này chủ yếu có tính chất bổ sung chủng
loại cho nhau giữa các nước trong khu vực. Nhập khẩu từ khu vực châu
Á không lớn do sức tiêu thụ của các nước này khá thấp (do dân số ít,
khách du lịch đến Bắc Âu không đông và người dân không có tập quán
ăn nhiều hải sản). người tiêu dùng Bắc Âu ưa dùng các loại cá nước
lạnh như cá trích, cá thu, cá minh thái,…và cá hồi nước ngọt.
Thứ 2 là thị trường Trung Âu( bao gồm Đức, Áo, Ba Lan, và cộng hòa
Séc). Các nước khu vực Trung Âu này ít có truyền thống ăn cá do
những nước này có đất liền bao quanh và đường bờ biển ngắn hơn so
với diện tích đất liền.
Cuối cùng là các nước thuộc khu vực Địa Trung Hải tiêu thụ nhiều các
loại cá như cá mực và nhiều loại động vật thân mềm (sò, trai).
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho tổng kim ngạch nhập
khẩu thủy sản của các nước EU giảm 5,85% (năm 2009) tương đương
với 12,2 tỉ Euro. Khối lượng nhập khẩu giảm ) 0,6% tương đương với
4,045 triệu tấn sản phẩm. Tây Ban Nha, Hà Lan, Đan Mạch, Italia và
Pháp là những nhà nhập khẩu với khối lượng kim ngạch lớn. Tuy nhiên,
trong 8 tháng đầu năm 2010, nhập khẩu thủy sản của EU từ Việt Nam
đã được khôi phục, tăng gần 6,5%. Hà Lan là nước nhập khẩu khối
lượng lớn nhất trong các thành viên của EU, chiếm gần 14,87% giá trị
nhập khẩu, đứng ở vị trí số 1; tiếp theo Đan Mạch (13,53%); Tây Ban

Nha (13,23%); Đức (10,66%).
Cá fillet là nhóm sản phẩm thủy sản nhập khẩu lớn nhất xét về giá trị.
Nhập khẩu cá tươi ướp lạnh, các loài giáp xác và cá được chế biến hoặc
bảo quản qua chế biến cũng tăng, trong khi nhập khẩu động vật thân
mềm (sò, trai) giảm 0,8% năm 2009.
Cá fillet ( chủ yếu là cá hồi, cá ngừ) vẫn là loại thủy sản được ưa
chuộng ở tất cả các thị trường EU, tiếp theo là cá tươi, cá ướp lạnh.
Đứuc là nước nhập khẩu lớn nhất sản phẩm cá fillet và thịt cá, hoạt
động nhập khẩu đã tăng trong những năm gần đây. Tây Ban Nha, Italia
và Pháp là những nước nhập khẩu hàng đầu đọng vật thân mềm (sò, trai,
mực) chiếm hơn 50% tổng kim ngạch nhập khẩu của EU.
Năm 2009, tống giá trị nhập khẩu cá tươi và ướp lạnh tăng 7,54%, đạt
2,511 triệu Euro. Cá tươi và cá ướp lạnh là loại sản phẩm được các nước
thành viên EU nhập khẩu tương đối lớn về mặt giá trị chiếm 12,9% tổng
giá trị thủy sản của EU. Extonia, Đan Mạch và Đức là những nước nhập
khẩu cá hồi chính. Cả ba nuwosc này chiếm tới 80% tổng thị trường
nhập khẩu cá hồi của EU.
Thị trường nhập khẩu Tây Ban Nha: là thị trường tiêu thụ thủy sản lớn
nhất EU, với mức tiêu thụ khoảng 44kg/người/năm. Tây Ban Nha nhập
khẩu chủ yếu là các sản phẩm tôm đông lạnh, cá tươi và đông lạnh, cá
hun khói, cá đóng hộp. Tôm đông lạnh là sản phẩm chính với sản lượng
nhập khẩu hàng năm đạt trên 31 ngàn tấn. Tây Ban Nha là 1 trong số
những quốc gia có số lượng tàu đánh cá lớn nhất thế giới, với nghề đánh
bắt cá và chế biến truyền thống. Hàng năm, đánh bắt và chế biến thủy
sản của Tây Ban Nha đóng góp 250.000 tấn sản phẩm, trong đó 50%
dành cho xuất khẩu. Các mặt hàng thủy sản của Tây Ban Nha chủ yếu
xuất sang EU, gồm cá ngừ, cá trích và nhiều loại thân mềm, nhuyễn thể.
Cùng với tiêu dùng nội địa, Tây Ban Nha đang thực hiện nhiều dự án
đầu tư thủy sản vào các nước châu Phi và Nam Mỹ. Các thị trường nhập
khẩu chính của Tây Ban Nha là Trung Quốc, Achentina, Colombia, Ấn

Độ, ….
Thị trường nhập khẩu thủy sản của Pháp: là thị trường nhập khẩu thủy
sản lớn thứ 2 trong khu vực EU. Các sản phẩm tiêu thụ chủ yếu là cá
hồi, cá tuyết. Các sản phẩm mới cá ngừ, tôm cua cũng có xu hướng phát
triển mạnh tại Pháp. Trung bình, người dân Pháp tiêu thụ 24kg thủy
sản/năm (so với 21kg/năm của EU), chiếm 7% trong tổng giá trị nhập
khẩu thủy sản của toàn EU và 4% về sản lượng.
Thị trường nhập khẩu thủy sản Đức: Đức chiếm vị trí trung tâm của Tây
Âu, với cơ sở hạ tầng được thiết lập nối với các quốc gia ở phía Đong,
tiếp giáp với đường biên giới của 6 quốc gia thuộc EU và EFTA. Đức
nhập khẩu 1 khối lượng lớn sản phẩm hủy sản, nên cong nghiệp chế
biến thủy sản là 1 trong những ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
lớn nhất của Đức.
Mặc dù, mức tiêu dùng sản phẩm thủy sản trên đầu người của Đức
không cao, nhưng với dân số trên 80 triệu người và không có nền sản
xuất nội địa lớn, nên Đức là thị trường nhập khẩu khá nhiều thủy sản,
đứng thứ 3 ở châu Âu. Hằng năm, lượng tôm nhập khẩu vào Đức đáp
ứng khoảng 2/3 nhu cầu thị trường nội địa. nhập khẩu tôm nước ấm vào
Đức dưới dạng đông lạnh (không đầu, bóc vỏ hoặc cả vỏ) và các dạng
chế biến chín sẽ tiếp tục gia tăng do ngày càng có nhiều hộ gia đình ở
Đức ăn thủy sản và tôm.
Thị trường nhập khẩu thủy hải sản Anh: Anh có điều kiện thuận lợi
trong việc đánh bắt hải sản (chiếm tới 1/5 sản lượng hả sản của EU),
nhưng Anh vẫn phải nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu trong nước. Nhập
khẩu tôm của anh không lớn so với cá do thói quen tiêu dùng của người
Anh là thích ăn các loại cá đã qua chế biến (cá viên, cá rán, ), mặt hàng
tôm nhập khẩu chủ yếu để phục vụ cộng đồng người châu Á sinh sống ở
Anh.
Thị trường nhập khẩu thủy sản Italia: là thị trường nhập khẩu lướn thứ
5 của EU. Tổng sản lượng thủy sản của Italia chỉ vào khaorng 0,6 triệu

tấn/năm, tuy nhiên với hơn 57 triệu dân và hàng chục triệu khách du
lịch, hàng năm Italia phải nhập khẩu từ 0,9-1 triệu tấn thủy sản. Thị
trường nhập khẩu thủy sản của Italia hầu như ít biến động trong nhiều
năm qua. Các mặt hàng nhập khẩu chính của Italia là cá ngừ đóng hôp,
mực đông lạnh, tôm và cá jillet đông lạnh.
II. Thực trạng xuất khẩu thủy sản của VN sang thị trường EU trong thời gian
qua(từ năm 2010-quý I năm 2015)
1. Khái quát quan hệ thủy sản VN – EU
Sau 25 năm kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào tháng 11/1990, quan
hệ Việt Nam và EU đã có những bước phát triển nhanh chóng và vững chắc trên
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, hợp tác phát triển, cũng như
giáo dục, khoa học công nghệ Ngày nay, Liên minh châu Âu là đối tác quan
trọng của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực.
Trong thập kỷ qua, EU là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam.
Quan hệ thương mại song phương Việt Nam – EU trong những năm gần đây đã có
những bước phát triển đáng kể. Năm 1995, Việt Nam ký Hiệp định khung về hợp
tác và phát triển với EU. Tiếp đó là những kế hoạch và chương trình nhằm tăng
cường quan hệ hợp tác giữa hai bên. Đến năm 2010, Việt Nam và EU hoàn thành
đàm phán và ký tắt Hiệp định đối tác, hợp tác toàn diện (PCA).
Năm 2015, việc ký kết Hiệp định đối tác và hợp tác và đàm phán FTA là
những dấu hiệu tích cực của mối quan hệ đối tác song phương giữa Viet Nam và
EU.
EU là đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam sau Trung quốc, với kim ngạch
thương mại Việt Nam – EU đạt 27 tỷ euro trong năm 2013, Việt Nam là đối tác
thương mại lớn thứ 4 của EU tại Đông Nam Á và lớn thứ 30 trên thê giới.

Quan hệ thương mại thủy sản giữa EU và Việt Nam thể hiện sự hỗ trợ hàng thủy
sản qua câc dự án. Cụ thể:
- Năm 2002 , trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Aixơlen, ngoài
thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực thủy sản trị giá 100 triệu USD,

Aixơlen còn dành 30.000USD cho chương trình đào tạo nghề cá(FTP)
thuộc trường đại học Liên Hiệp Quốc tại Reykijavik để có thể tài trợ bổ
sung cho cán bộ thủy sản Việt Nam được tham gia chwong trình đào
tạo.
- Italia đã cung cấp cho ngành thủy sản Việt Nam một số dự án vay vốn
với lãi suất thấp.
- Thụy Điển đã hộ trợ qua FAO và SEAFDEC, các dự án về phát triển
nguồn nhân lực thống kê thủy sản, tăng cường năng lực thu thập thông
tin phục vụ quản lý nghề cá.
….
2. Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU trong
giai đoạn 2010- quý I 2015.
Theo thống kê của Tổ chức Nông nghiệp và lương thực Thế giới(FAO)
hiện nay, Việt Nam được đánh giá là một trong 20 nước có sản lượng đánh bắt
thủy sản lớn và đứng thứ 21 trong số các nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất trên
thế giới. Trong khu vực, Việt Nam đứng vị trí thứ 4 về sản lượng xuất khẩu(sau
Thái Lan, Indonexia, Xingapo).
Trong những năm qua, ngành thủy sản đã không ngừng nỗ lực trong việc
tăng cường mở rộng thị trường xuất khẩu thủy sản. Từ chỗ Việt Nam chỉ xuất
khẩu qua 2 thị trường trung gian là Hồng Kông và Xingapo thì đến nay sản phẩm
thủy sản của Việt Nam đã có mặt tại hơn 163 quốc gia trên thế giới. Các thị trường
xuất khẩu thủy sản chính của Việt Nam là: thị trường EU, thị trường Mỹ, thị
trường Nhật Bản, thị trường Trung Quốc và Hồng Kông; và những nước khác.
EU không chỉ là thị trường tiêu thụ thủy sản lớn thế giới mà còn là thị
trường xuất khẩu thủy sản lớn của Việt Nam. Năm 2010, thị trường EU chiếm
23,5% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Năm 2011, theo số liệu
của Hải quan, EU chiếm 21,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của thủy sản Việt Nam.
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu thủy sản cảu Việt Nam sang EU ngày càng tăng và
chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, song
vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ 5,76% năm 2011 trong tổng giá trị nhập khẩu thủy sản

vào EU.
Biểu đồ 1.1 Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU giai
đoạn 2010- Q1 2015
Đơn vị: tỷ USD
Nguồn : Tổng cục hải quan
Trong năm 2010 và năm 2011, xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU khởi
sắc với mức kim ngạch là 1,204 tỷ USD và 1,360 tỷ USD. Số liệu Thống kê Hải
quan cho thấy trong năm 2012 xuất khẩu nhóm hàng này đạt 1,133 tỷ USD, giảm
nhẹ 16,7 % (tương ứng giảm 227 triệu USD về số tuyệt đối) so với năm 2011.
Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU có sự tăng
nhẹ từ 1,133 tỷ USD (2012) lên 1,182 tỷ USD (2013), tăng 4,32% so với năm
2012.
Trong năm 2014, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU đạt
1,4 tỷ USD, tăng 18,44%, tương ứng tăng 0,218 tỷ USD so với năm trước. Xuất
khẩu hàng thuỷ sản trong năm nay có mức tăng kim ngạch kỷ lục và cũng có tốc
độ tăng cao nhất so với năm trước trong vòng 3 năm trở lại đây.
Trong giai đoạn năm 2010 – quý I năm 2015, tình hình xuất khẩu thủy sản
sang thị trường EU có nhiều biến động, có tăng và có sự giảm nhẹ. Nhưng nói
chung, thị trường EU vẫn là một trong 4 thị trường nhập khẩu thủy sản đầy tiềm
năng đối với Việt Nam.
Cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU
Biểu đồ 1.2 Sản phẩm chính XK sang EU quý II/2013
Nguồn :
Nhìn chung các mặt hàng xuất khẩu vào EU là khá đa dạng với nhiều chủng loại.
hàng thủy sản Việt Nam hiện đã xuất khẩu tới 27 quốc gia EU, gồm các mặt hàng
sản phẩm cá, tôm, mực, bạch tuộc…
Tính đến giữa tháng 8/2013, XK thủy sản của Việt Nam sang EU ĐẠT 667,3 triệu
USD, giảm 4,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó XK cá tra giảm 12,8% đạt
237 triệu USD, XK tôm tăng 5.3% đạt 195 triệu USD….ước tính XK sang thị
trường này 8 tháng đầu năm sẽ đạt khoảng 720 triệu, giảm 4,6% so với cùng kỳ

năm ngoái. Mặc dù XK tôm và cá ngừ đã bắt đầu phục hồi từ quý II nhưng không
đủ bù đắp cho mức sụt giảm của XK cá tra, vì mặt hàng này chiếm trung bình 35-
40% giá trị XK thủy sản sang EU hàng tháng.
Bảng số liệu: Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm thủy sản sang thị trường EU quý
II/2013
Sản phẩm
thủy sản
Nhuyễn
thể
Cua ghẹ Cá biển
khác
Cá ngừ Cá tra Tôm
Kim
ngạch(triệu
USD)
32,941 3,716 25.400 35,733 95,931 81,381
Nguồn : />Theo báo cáo XK thủy sản Việt Nam quý II/2013 so với quý I, XK thủy sản sang EU
trong quý II cũng tăng nhưng không đáng kể 16% và so với cùng kỳ năm ngoái vẫn giảm
dần gần 7%.
- XK tôm:
Quý II/2013, XK tôm sang EU tăng 1,3% cho thấy sự cải thiện dần trong XK tôm
sang thị trường này. Qúy I/2013, XK tôm sang EU vẫn còn giảm 5,2% so với cùng
kỳ năm ngoái.
Năm 2012, suy thoái kinh tế tại nhiều nước Châu Âu khiến nhu cầu NK tôm vào
khu vực này giảm mạnh. Ngoài ra, giá tôm XK sang EU năm 2012 cũng giảm
nhiều so với năm 2011 do vậy, NK từ các nguồn cung chính đều giảm mạnh.
Giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam năm vừa qua giảm tới 24.5% so với năm 2011.
Mức giảm qua các thàng từ 13%-46%. Tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2013, thống kê
của Hải quan Việt Nam XK tôm sang thị trường này chỉ giảm 1,5% so với cùng
kỳ năm 2012. Trong đó, 3 tháng XK tôm sang EU tăng trưởng dương với mức

tăng từ 3,2% - 33,8%.
Mặc dù nhu cầu tiêu thụ tôm tại EU vẫn chưa cải thiện nhưng do nguồn cung từ
Thái Lan giảm mạnh đã giúp Việt Nam gia tăng XK tôm sang thị trường này.
- XK cá tra
XK cá tra quý II/2013 đạt 95,9 triệu USD, giảm 12,8% so với cùng kỳ năm 2012.
XK cá tra 6 tháng đầu năm đạt 191,3 triệu USD, giảm 14% so với cùng kỳ năm
2012.
+ XK sang Tây Ban Nha: XK cá tra sang Tây Ban Nha 6 tháng đầu năm đạt 39,8
triệu USD, giảm 17,8% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó XK cá tra sang Tây
Ban Nha quý II/2013 đạt 18,3 triệu USD, giảm gần 24% so với cùng kỳ năm 2012.
Mặc dù XK cá tra vào thị trường Tây Ban Nha liên tục sụt giảm nhưng đây vẫn
duy trì là nước NK nhiều cá tra nhất trong khối EU.
+ XK sang Đức: XK cá tra quý II/2013 đạt 10,009 triệu USD, giảm 22,3% so với
cùng kỳ năm 2012. XK 6 tháng đầu năm 2013 đạt 22,8 triệu USD, giảm 17,2% so
với cùng kỳ năm 2012. Đức tiếp tục là nhà NK cá tra ViệtNam lớn thứ 3 trong
khối EU và là thị trường tiêu thụ cá tra đơn lẻ lớn thứ 8 của Việt Nam. Tuy nhiên,
tiêu thụ cá tra tại thị trường này hiện vẫn chưa khởi sắc và sẽ khó có đột phá trong
tương lai gần. NK cá tra giảm trong 2 quý đầu năm nay một phần do nhu cầu tiêu
dùng chung tại thị trường Đức giảm, phần khác do nguồn cung một số loài cá thịt
trắng khác dồi dào và có giá rẻ hơn. Vốn nhạy cảm với giá cả nên khi giá một số
loài cá thịt trắng khác giảm, người tiêu dùng đã chuyển sang mua các sản phẩm
này. Ngoài ra, một phần của sự thay đổi cũng do các chiến dịch quảng bá cá thịt
trắng đang diễn ra khá mạnh.
+ XK sang Anh: XK cá tra quý II/2013 đạt 11,6 triệu USD, tăng 15,4% so với
cùng kỳ năm 2012. XK 6 tháng đầu năm đạt 19,4 triệu USD, tăng 5,6% so với
cùng kỳ năm 2012. Đây là nước duy nhất trong 4 nước NK lớn cá tra trong khối
EU tăng trưởng trong quý II và 6 tháng đầu năm 2013. Hiện nay nguồn cung cá
nội địa của Anh đã cạn kiệt và không đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ tại thị trường
này. Anh đang phải phụ thuộc vào cá tuyết NK và một số loài cá thịt trắng khác.
Với nguồn cung nội địa chỉ đáp ứng được gần 8 tháng trong năm, Anh buộc phải

NK ít nhất 30% cá từ ngoài EU để bù đắp nguồn cá tuyết truyền thống. Giá cả là
tiêu chí đầu tiên khiến người tiêu dùng quyết định tăng tiêu thụ thủy sản tại Anh.
Người Anh có xu hướng mua thủy sản đông lạnh.
- XK cá ngừ
Trong quý II/2013, EU là thị trường duy nhất trong 3 thị trường truyền thống NK
nhiều nhất cá ngừ của Việt Nam có sự tăng trưởng, đạt 35,77 triệu USD, tăng
25,9% so với quý II/2012. Mặc dù tốc độ tăng có chậm hơn so với Quý I/2013,
đây cũng là thị trường duy nhất trong 3 nước đứng đầu có sự tăng trưởng. Sáu
tháng đầu năm 2013, XK cá ngừ sang đây đạt 68,63 triệu USD, tăng 31% so với
cùng kỳ năm ngoái.
Tỷ trọng XK giữa các sản phẩm cá ngừ chế biến và tươi/sống/đông lạnh của
Việt Nam sang các nước trong khối EU gần tương đương nhau. Trong đó, giá trị
XK nhóm sản phẩm cá ngừ đóng hộp và chế biến khác tăng mạnh so với cùng kỳ
năm trước (78%). Giá trị XK cá ngừ tươi/sống/đông lạnh thì chỉ tăng nhẹ khoảng
4,5%. Tính đến hết tháng 6/2013, cá ngừ của Việt Nam đã xuất được sang 22 thị
trường trong khối EU. Hai tháng đầu quý II/2013, NK cá ngừ của thị trường lớn
thứ 2 trong khối – Italia, mặc đã có sự tăng trưởng trở lại nhưng nhìn chung vẫn
sụt giảm so với cùng kỳ năm ngoái.
III. Đánh giá
1. Đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế
Trong giai đoạn 2010 – 2014, kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản của Việt
Nam có tăng , đưa thủy sản lên vị trí dẫn đầu trong số các sản phẩm thực
phẩm xuất khẩu vào EU, đem lại cho đất nước một nguồn ngoại tệ lớn.
Xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU đã được kết quả đáng khích lệ. Chất
lượng thủy sản Việt Nam không ngừng tăng cao, hoạt động đầu tư nâng cấp
cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, luôn được đổi mới,
công nghệ chế biến thủy sản( theo tiêu chuẩn HACCP ) luôn được cải tiến.
Các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu của Việt Nam ngày càng đều có đủ
tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm và được EU châp nhận. Những
thành tựu và đổi mới đó đã tạo được uy tín trên thi trường EU.

Trong những năm qua, tỷ trọng hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang
EU liên tục tăng cả về mặt giá trị lẫn sản lượng.
Bên cạnh những thành tựu đó, trong những năm qua cũng đánh dấu những
kết quả đạt được trong việc vượt qua các dào cản thương mại của hành thủy
sản xuất khẩu của Việt Nam sang EU.
Về mặt thuế quan:
Do Việt Nam được hưởng chế độ GSP nên hàng thủy sản của Việt Nam
xuất khẩu sang EU cũng có nhiều lợi thế hơn so với các quốc gia được
hưởng GSP khác, do đó Việt Nam vẫn luôn nằm trong danh sách các quốc
gia được hưởng GSP, do đó Việt Nam vẫn luôn nằm trong danh sách các
quốc gia được hường GSP của EU.
Việc đáp ứng các tiêu chuẩn của EU về tiêu chuẩn kĩ thuật:
Mặc dù sự kiểm tra của cơ quan quản lí thực phẩm EU ngày càng khắt khe,
nhưng sản lượng xuất khẩu thủy sản của Viết Nam vẫn không ngừng tăng.
Điều đó cho thấy chất lượng các mặt hàng thủy sản luôn được đảm bảo, và
nâng cao. Nó thể hiện các điều kiện kỹ thuật về thủy sản của Việt Nam
ngày càng được cải tiến, các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng phục hồi
nuôi trồng, đánh bắt thủy sản luôn được đổi mới, công nghệ chế biến thủy
sản ( theo tiêu chuẩn HACCP) luôn được cải tiến. Các doanh nghiệp tham
gia xuất khẩu thủy sản đều có đủ tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm
và được EU chấp nhận. Những thành tự đổi mới đó đã tạo uy tín trên thị
trường EU. Chính vì vậy, các doanh nghiệp thủy sản đa tăng cường áp dụng
các hệ thống tiêu chuẩn kĩ thuật phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi khắt khe
của EU.
Vấn đề bán phá giá hàng thủy sản:
Hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường EU gặp rất ít và hầu như không có
vụ bán phá giá nào. Một phần là do nhu cầu nhập khẩu thủy sản của thị
trường EU lớn nên EU thường không dùng biện pháp chống banns phá giá
như một biện pháp trả đũa thương mại mang tính chính trị như Mỹ. Bên
cạnh đó hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sáng EU với mức giá hợp lí và

nhiều chủng loại có lợi thế cạnh tranh khá cai, đặc biệt là tôm cá. Hàng
thủy sản nhập khẩu từ Việt Nam hầu như không gây ảnh hưởng cho hàng
nội địa của EU nên thường không bị kiện bán phá giá. Đây cũng là một lợi
thế cho hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường EU.
Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn tồn lại một số những hạn chế
làm cản trở việc thúc đẩy xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường
EU.
Liên tiếp bị cảnh báo không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, thủy sản
Việt Nam đang đối diện nguy cơ mất thị trường EU, nếu không kịp thời có
biện pháp xử lý, khắc phục hậu quả.
Chỉ tính trong tháng 10/2014, thông qua hệ thống cảnh báo nhanh (RASFF)
của Tổng vụ Sức khỏe và Người tiêu dùng, Ủy ban châu Âu (EC),
NAFIQAD đã nhận được thông tin về 11 lô hàng cá tra bị cơ quan thẩm
quyền EU phát hiện dư lượng kháng sinh cấm sử dụng Nitrofurazone.
Gần đây nhất, ngày 10/12, Tổng vụ Sức khỏe và Người tiêu dùng - EC tiếp
tục thông báo tình hình các lô hàng thủy sản Việt Nam bị cảnh báo các chỉ
tiêu hóa chất kháng sinh khi xuất khẩu vào EU.
Đó là một trong những hạn chế hay nói một cách cụ thể thì là một vấn đề
rất nghiêm trọng hiện nay mà Việt Nam đang đối mặt.
Ngoài ra, còn có một số hạn chế khác như:
Công nghệ chế biến thủy sản của chúng ta vẫn lạc hậu cho nên thủy sản
Việt Nam xuất khẩu vào EU chủ yếu vẫn là hàng thô, sơ chế, những mặt
hàng chế biến sâu và giá trị gia tăng còn ít nên chưa vận dụng những ưu đãi
về thuế mà hiệp định khung đem lại. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa đa
dạng. Chất lượng hàng chưa cao, càng khó khăn hơn khi đầu năm 2010
thủy sản xuất khẩu vào EU phải đáp ứng điều kiện của IUU.
Sức cạnh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu còn thấp. Tuy hàng thủy sản
của Việt Nam có sức cạnh tranh trên thị trường EU nhưng vẫn thấp so với
đối thủ như: Hà Lan, Nauy, Maroc, Trung Quốc, có thể thấy điều này qua

thi phần của ta còn nhỏ so với các nước này. Sức cạnh tranh hàng thủy sản
tăng nhưng không ổn định, tốc độ tăng nhưng không ổn định, tốc độ tăng
còn chậm. Điểm yếu nhất của sức cạnh tranh hàng thủy sản của Việt Nam
là khả năng đáp ứng yêu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm
chưa cao.
Hoạt động thâm nhập thị trường của doanh nghiệp Việt Nam còn thụ động
phụ thuộc nhiều vào phía đối tác EU, công nghệ chế biến thủy sản đã được
đầu tư, tuy nhiên vẫn chưa cao.
2. Thách thức đối với doanh nghiệp XK thủy sản của Việt Nam vượt qua rào
cản thương mại EU.
-Các rào cản về quy trình và thủ tục nhập khẩu thủy sản của EU
-Các rào cản về kiểm tra, kiểm soát nhập khẩu thủy sản của các cơ quan
quản lý.
-Các rào cản về thuế của EU.
-Các rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm, bao gói và ghi nhận hàng thủy
sản nhập khẩu vào EU.
-Các rào cản liên quan đến xuất xứ, nguồn gốc sản phẩm thủy sản nhập
khẩu vào EU.
-Các rào cản của EU về bao gói, ghi nhãn sản phẩm thủy sản.
-Các rào cản quy định về môi trường của EU đối với hàng thủy sản.
3. Các giải pháp nhằm đẩy mạnh XK thủy sản sang thị trường EU
-Cần giám sát chặt, xử lý nghiêm cả phía nhà nước và phía doanh
nghiệp.
Sau khi EU cảnh báo đối với hàng thủy sản Việt Nam, ngày 17/12/2014
NAFIQAD đã có Công văn 2854/QLCL-CL1 yêu cầu 19 doanh nghiệp, cơ
sở chế biến xuất khẩu thủy sản có các lô hàng xuất khẩu vào EU bị cảnh
báo không đảm bảo an toàn thực phẩm, nghiêm túc điều tra, xác định
nguyên nhân và tổ chức khắc phục. Động thái này của NAFIQAD nhằm kịp
thời có được giải trình cụ thể từ phía doanh nghiệp để có câu trả lời sớm
nhất theo đề nghị từ EU. Đương nhiên, đối với 19 doanh nghiệp bị cảnh

báo, sau khi có "giải trình" về nguyên nhân và hướng khắc phục, cơ quan
chức năng cũng sẽ có biện pháp xử lý để tránh tình trạng lặp lại vi phạm,
ảnh hưởng tiêu cực đến ngành thủy sản cả nước. Tuy nhiên, nhiều ý kiến
cho rằng đó vẫn chỉ là giải pháp tình thế. Về lâu dài, chúng ta cần có chiến
lược tái cơ cấu toàn diện ngành thủy sản, từ khâu nuôi, chế biến, đến chiến
lược xuất khẩu ra các thị trường quốc tế.
Về phía doanh nghiệp
Gắn công nghệ nguồn với sản xuất, xuất khẩu thủy sản trong chiến
lược xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU. Chúng ta nên tăng cường nhập
khẩu các công nghệ tiên tiến từ EU ( dây chuyền máy móc, kho bãi, vận
chuyển ) để phục vụ quá trình sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU
sẽ làm tăng hiệu quả sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm. Do đó hàng
thủ sản sẽ thâm nhập thị trường EU dễ dàng hơn và có sức cạnh tranh so
với các quốc gia khác.
Nâng cao chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Các doanh nghiệp
sản xuất, chế biến cá phi lê đông lạnh phải nâng cao chất lượng sản phẩm
thông qua các phương pháp như: Xây dựng bộ tiêu chuẩn vệ sinh an toàn
thực phẩm, tuyên truyền đến những người trục tiếp sản xuất ra sản phẩm
cũng như người tiêu dùng, giáo dục cho họ ý nghĩa của việc nâng cao chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó cần xây dựng bộ máy quản
lí chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm từ trung ương đến địa phương để
thủy sản Việt Nam có thể đáp ứng được yêu cầu của những thị trường khó
tinh nhất.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Cần bồi
dưỡng nguồn nhân lực phục vụ cho các chương trình khai thác thủy sản xa
bờ, nuôi trồng thủy sản…
Thâm nhập kênh phân phối của thị trường EU. Để hiện thực hóa
được mục tiêu này đòi hỏi sản phẩm của chúng ta phải nắm bắt được những
yêu cầu như: nắm rõ thị hiếu khách hàng, đảm bảo nguồn hàng duy trì liên
tục, chất lượng sản phẩm an toàn. Qua đó, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy

sản Việt Nam có thể hợp tác với các doanh nghiệp địa phương, kết nối cộng
đồng người Việt tại châu Âu nhằm xúc tiến đầu tư vào thị trường này.
Các doanh nghiệp Việt Nam muốn tồn tại lâu dài và phát triển tại
thị trường EU cần phải tiến hành xây dựng, nâng cao và phát triển thương
hiệu.
Đẩy mạnh mô hình kinh doanh thương mại điện tử. Thương mại điện
tử mang lại một lợi ích vô cùng lớn cho doanh nghiệp. Với hệ thống
website, gian hàng trên sàn giao dịch thương mại điện tử B2B thì doanh
nghiệp hoàn toàn có thể tự tin rằng hàng hóa của họ có thể tiếp cận không
chỉ với khách hàng châu Âu mà còn trên toàn thế giới. Đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản nói
riêng thì nguồn nguyên liệu có ý nghĩa sống còn và cũng là một yếu tố tạo
dựng uy tín đối với khách hàng. Để tạo được sự chủ động trong xuất khẩu
thủy sản thì các doanh nghiệp cần chú ý tạo ra nhiều nguồn cung cấp thông
qua việc kí hợp đồng với nhiều nhà cung cấp ( không bao giờ phụ thuộc
vào một nhà cung cấp). Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng có thể góp
vốn đầu tư vào các trang trại nuôi trồng thủy sản để tạo sự chủ động cho
mình. Ngoài ra cũng có thể tìm kiếm nhà cung ứng nước ngoài nếu như các
doanh nghiệp trong nước không thể đáp ứng được( thời gian, số lượng, chất
lượng)
Về phía nhà nước
Hoàn thiện hệ thống pháp lí. Cần rà soát và thay đổi những qui định
không còn phù hợp với thời đại ngày nay như: Một số điều trong luật thủy
sản, luật đầu tư nước ngoài, luật khuyến khích đầu tư trong nước để tạo ra
các điều kiện thông thoáng hơn cho phát triển và thu hút vốn đầu tư nước
ngoài để phát triển ngành thủy sản. Bên cạnh đó cần đào tạo đội ngũ cán bộ
công chức đáp ứng đủ các tiêu chuẩn trong thời đại mới
Đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Đây
là một quyết định đúng đắn của nhà nước bởi lẽ điều này sẽ tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp có thể tự chủ trong quá trình hoạt động, xây dựng

phương án kinh doanh, hoạch định chiến lược cho tương lai.
Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sang thị
trường EU. Do hầu hết các doanh nghiệp thủy sản của Việt Nam là doanh
nghiệp vừa và nhỏ nên tiềm lực kinh tế cung như sức cạnh tranh là không
cao. Cho nên sự giúp đỡ của chính phủ thông qua hoạt động của hệ thông
ngân hàng thương mại là vô cùng cần thiết. Chính phủ sẽ sử dụng hiệu quả
quĩ hỗ trợ xuất khẩu để các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn với lãi
suất thấp để giải quyết vấn đề về vốn đầu tư đổi mới, đơn giản hóa thủ tục
vay vốn và các yêu cầu thế chấp khi vay vốn. Ngoài ra nhà nước cũng xúc
tiến thành lập các ngan hàng chuyên doanh của khu vực doanh nghiệp vừa
và nhỏ cũng như thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp lớn giúp đỡ các
doanh nghiệp đang gặp khó khăn để nâng cao cơ hội tiếp cận thị trường.
Thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại như đẩy mạnh phát
triển thị trường thông qua việc kí kết các hợp đồng song phương và đa
phương.
KẾT LUẬN
Tóm lại, thị trường EU vẫn là một trong 4 thị trường lớn nhập khẩu thủy sản của
Việt Nam. Với tình hình hiện nay, muốn giữ vững vị trí là nước XK thủy sản sang
EU thì nhà nước cần phải có những giải pháp phù hợp để vượt qua những rào cản
của thị trường EU nói chung, doanh nghiệp XK thủy sản của Việt Nam nói riêng.
Tài liệu tham khảo


/> /> />…
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường liên minh Châu Âu – Bộ công thương.

×