Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.14 KB, 24 trang )

Tài liệu ôn thi
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Đề 1:
Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.

DÀN Ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG:
1. Đặt vấn đề:
- Giới thiệu truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”:
+ Xuất xứ.
+ Đặc điểm truyện.
- Giới thiệu nhân vật:
+ Cuộc đời.
+ Phẩm chất.
2. Giải quyết vấn đề :
a. Giới thiệu chung về nhân vật:
- Hiện thân cho mảng đời tăm tối cơ cực.
- Vẫn toát lên những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
- Nhân vật quan trọng trong tác phẩm.
b. Phân tích nhân vật:
* Ngoại hình:
- Từ nhỏ đã có ngoại hình xấu xí, sau đó có mang với một anh con trai hàng chài, gã
chồng hiện thời lúc đó cục tính nhưng hiền lành.
- Qua năm tháng lam lũ, vất vả, lo toan nên nét xấu xí càng được thể hiện rõ….
* Sức chịu đựng và sự hi sinh thầm lặng :
- Vừa ở dưới thuyền lội lên, chị đã bị chồng đánh tới tấp.
- Bị chồng đánh đập dã man, chị hoàn toàn cam chịu, nhẫn nhục.
* Lòng tự trọng:
- Bị chồng đánh đập tàn nhẫn, chỉ cắn răng chịu đựng.
- Khi biết chuyện mình bị Phác và Phùng chứng kiến, cảm thấy đau đớn, xấu hổ,


nhục nhã; không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương hại, không muốn con trai chứng
kiến cảnh dã man ấy.

Tài liệu ôn thi
* Vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn
- Khi ở toà án, chị đem đến cho Phùng, Đẩu và người đọc nhiều nhận thức mới mẻ:
+ Sự thay đổi ngôn ngữ và tâm thế: lúc đầu “thưa gởi”, xưng “con” và chắp tay
vái lia lịa van xin; nhưng khi lấy lại sự tự tin, tâm thế đã thay đổi, chuyển cách xưng hô
+ Qua những lời giãi bày, Đẩu, Phùng và người đọc đã “vỡ ra” nhiều điều: đằng
sau vẻ cam chịu, nhịn nhục, đáng thương là một tấm lòng vị tha, giàu đức hi sinh; chấp
nhận đau khổ vì đàn con; có cách ứng xử rất nhân bản.
+ Nhận ra được lí do chị không thể bỏ chồng: cần phải có người đàn ông để chèo
chống khi phong ba, nuôi nấng đặng một sấp con, trong đau khổ triền miên vẫn có được
những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi…
- Biểu tượng cho tình mẫu tử, khát vọng hạnh phúc gia đình.
3. Kết thúc vấn đề:
- Nguyễn Minh Châu đã khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người lao động
nghèo khổ.
- Tấm lòng nhân đạo của nhà văn: yêu thương, thông cảm, phát hiện và khẳng định
những phẩm chất cao đẹp, khao khát có một chỗ dựa tinh thần, một cuộc sống no ấm bình
yên, hạnh phúc gia đình bình dị.
- Quan điểm sáng tác của Nguyễn Minh Châu: rất sâu sắc, nhiều chiều về con người
và cuộc sống.
DÀN Ý CHI TIẾT:
1. Đặt vấn đề:
- “Chiếc thuyền ngoài xa” viết năm 1983, đây là những năm chuyển mình mạnh mẽ
của đất nước và của văn học.
+ Tác phẩm lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên
chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).
+ Truyện in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho

hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.
- Nhân vật để lại ấn tượng mạnh mẽ nhất trong truyện là người đàn bà hàng chài:
+ Một người phụ nữ nghèo khổ, lam lũ
+ Nhưng có đức hi sinh cao cả, bao dung, nhân hậu và rất trải đời.
2. Giải quyết vấn đề :
a. Giới thiệu chung về nhân vật:
- Nhân vật người đàn bà hàng chài là hiện thân cho mảng đời tăm tối cơ cực vẫn tồn

Tài liệu ôn thi
tại quanh cuộc sống của chúng ta.
- Dù cuộc sống riêng có phải chịu trăm nỗi cơ cực, tủi nhưng ở chị vẫn toát lên những
vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam: tấm lòng nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và
đức hi sinh.
- Người đàn bà ấy không tên, tác giả chỉ gọi là "người đàn bà" một cách phiếm định.
Đó là một con người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác. Nhưng dõi theo
mạch của cốt truyện, người đọc thấy được rằng: số phận của con người ấy được tác giả
tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất.
- Như thế, người đàn bà hàng chài là một nhân vật quan trọng trong tác phẩm.
+ Chị có vai trò khá quan trọng trong sự phát triển cốt truyện, mạch truyện, trong mối
quan hệ với các nhân vật khác như Phùng, Đẩu, người chồng và chị em thằng bé Phác.
+ Nếu không có hình tượng của nhân vật này, người đọc cũng không thể nhận ra quan
điểm nghệ thuật và tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu đối với con người và cuộc
sống.
b. Phân tích nhân vật:
* Ngoại hình:
- Vốn sinh ra trong một gia đình khá giả, nhà ở phố huyện sống bằng nghệ buôn bán
bả lưới, nhưng ngay từ nhỏ chị đã có một ngoại hình xấu xí “Từ nhỏ tuổi tôi đã là một
đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa”.
+ Cũng vì xấu xí, trong phố không ai lấy nên chị có mang với một anh con trai hàng
chài hay đến nhà chị mua bả về đan lưới.

+ Lúc ấy, gã chồng hiện thời của chị tuy cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ
đánh đập chị tàn nhẫn như bây giờ.
- Những nét xấu xí, thô kệch ấy, qua bao nhiêu năm tháng lam lũ, vất vả, lo toan vì
cuộc sống nghèo khổ nên càng được thể hiện rõ hơn:
+ Một người đàn bà “trạc ngoài bốn mươi” với những “đường nét thô kệch”, “rỗ
mặt”, “khuôn mặt mệt mỏi”,
+ “tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá”, “cặp mắt nhìn xuống chân”, tay “buông
thõng xuống” ra vẻ nhẫn nhục, cam chịu.
* Sức chịu đựng và sự hi sinh thầm lặng của người đàn bà hàng chài khiến cho
nhiều người phải ngỡ ngàng:
- Vừa ở dưới thuyền lội lên đến bên chiếc xe rà phá mìn, chị đã bị chồng dùng chiếc
thắt lưng, chẳng nói chẳng rằng quật tới tấp vào người. Hắn vừa đánh vừa nguyền rủa
bằng cái giọng đau đớn rên rỉ: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông

Tài liệu ôn thi
nhờ!”
- Chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng đánh đập dã man, nghệ sĩ Phùng tưởng chị
sẽ né tránh, bỏ chạy hay kêu van nhưng anh rất ngạc nhiên khi thấy chị hoàn toàn cam
chịu, nhẫn nhục.
* Người đàn bà ấy cũng rất tự trọng:
- Bị chồng đánh đập dã man tàn nhẫn nhưng chị chỉ cắn răng chịu đựng, không thề
kêu rên: “Không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn”.
+ Nhưng khi biết chuyện mình bị chồng đánh đã bị Phác và nghệ sĩ Phùng chứng kiến,
chị cảm thấy “vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”.
+ Chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương hại cho tình cảnh trớ trêu mà chị
đang chịu đựng, dù cho đó là đứa con trai của chị.
+ Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng chị không bận tâm, sẵn sàng
nhẫn nhục chịu đựng.
+ Và chị không muốn đứa con trai của mình chứng kiến cảnh cha nó đánh đập mẹ nó
tàn nhẫn như thế, huống hồ chi lại có sự chứng kiến của một người lạ mặt.

 Đó chính là lòng tự trọng, là nhân cách tốt đẹp của người phụ nữ đáng thương và
đáng quý này.
* Vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn của người đàn bà hàng chài:
- Chánh án Đẩu đã mời chị đến để thu xếp chuyện gia đình và đề nghị chị từ bỏ lão
chồng vũ phu. Khi ở toà án huyện, chính người phụ nữ ấy đã đem đến cho Phùng, Đẩu
và người đọc nhiều nhận thức thật mới mẻ.
- Được mời lên toà án để giải quyết việc gia đình, lúc đầu chị lúng túng, sợ sệt, rụt rè
nên “tìm đến một góc tường để ngồi”. Nhà văn đã dụng công nhấn mạnh vào sự thay đổi
ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà hàng chài.:
+ Với chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng, lúc đầu chị “thưa gởi”, xưng “con” và đã có
lúc chắp tay vái lia lịa van xin: “Con lạy quý toà (…). Quý toà bắt tội con cũng được,
phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.
+ Nhưng khi lấy lại được sự tự tin, tâm thế đã thay đổi, người đàn bà ấy đột ngột
chuyển cách xưng hô: “Chị cảm ơn các chú, lòng các chú tốt, nhưng các chú đa có phải
là người làm ăn … cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ,
khó nhọc.”
- Và qua những lời giãi bày rất chân tình, rất có sức thuyết phục của chị, Đẩu, Phùng
và người đọc đã “vỡ ra” nhiều điều mà trước đây họ chưa biết về chị.
+ Các anh đã nhận ra đằng sau cái vẻ cam chịu, nhịn nhục, đáng thương là cả một tấm

Tài liệu ôn thi
lòng vị tha và giàu đức hi sinh của chị.
. Chị nói: “đám đàn bà ở thuyền chúng tôi … phải sống cho con chứ không thể sống
cho mình”. Chị đã chấp nhận sự đau khổ để hi sinh cho cuộc sống của đàn con.
. Nếu những người đàn bà ở các thuyền chài khác chấp nhận người đàn ông uống
rượu, thì chị cũng chấp nhận bị đánh, có điều chị chỉ xin chồng đánh ở trên bờ để các con
đừng nhìn thấy.
 Đó là một cách ứng xử rất nhân bản. Chị không muốn gieo vào lòng các con thái
độ căm thù đối với cha của chúng.
+ Đẩu và Phùng cũng nhận ra được lí do chị không thể bỏ chồng.

Lời giải thích của chị thật có lí, điều đó chứng tỏ chị không phải là một người nhu
nhược, hèn nhát mà là một người phụ nữ sâu sắc và từng trải.
Chị đã cho các anh biết: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người
đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con mà
nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Chị nhận thức được cuộc sống trên biển: nghề biển
không thể thiếu đàn ông, gã đàn ông ấy là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời đi biển của
chị.
Hơn nữa, chị cũng cảm thông với những hành động của chồng. Chị kể: “Lão chồng
tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập
tôi”. “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn…”
Rõ ràng, đó là một người đàn bà thất học nhưng rất hiểu cuộc đời: hiểu thiên chức làm
mẹ, hiểu nỗi khốn khổ và sự bế tắc của người chồng.
+ Chị còn cho các anh biết thêm: Trong đau khổ triền miên, chị vẫn chắt lọc được
những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi. Chị nói: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng
nó được ăn no…”, “trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà
thuận, vui vẻ”
 Có thể nói người đàn bà hàng chài là biểu tượng cho tình mẫu tử, biểu tượng cho
khát vọng hạnh phúc gia đình.
 Với chị, gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên, cho dù trong gia
đình ấy còn nhiều cảnh ngang trái, khổ đau, nhưng chị vẫn nâng niu, trân trọng từng
niềm hạnh phúc thật nhỏ nhoi.
c. Bài học từ câu chuyện của người đàn bà hàng chài:
- Nếu chúng tả hiểu sự việc một cách đơn giản thì ta chỉ yêu cầu người đàn bà bỏ
chồng là xong. Nhưng nếu ta nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì ta sẽ thấy sự nhẫn nhục,
cam chịu của người đàn bà hàng chài thực chất có nguyên do chính đáng.

Tài liệu ôn thi
- Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, giản đơn trong
việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.
- Đặc biệt, người nghệ sĩ không có quyền nhìn nhận cuộc sống một cách giản đơn,

phải nhìn nhận từ mọi phía để phát hiện bản chất con người.
3. Kết thúc vấn đề:
- Xây dựng hình tượng người đà bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa,
một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thế sự của Nguyễn Minh Châu, ông đã khẳng
định những phẩm chất tốt đẹp của người lao động nghèo khổ.
Dù trong cảnh đói nghèo. Lạc hậu, người phụ nữ vùng biển vẫn bộc lộ một tấm lòng
và một tính cách đầy nữ tính.
- Qua hình tương nhân vật người đàn bà hàng chài này, ta cũng cảm nhận được tấm
lòng nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu:
+ Đó là cái nhìn yêu thương, thông cảm về số phận bất hạnh của con người;
+ Đó là việc phát hiện và khẳng định những phẩm chất cao đẹp của họ;
+ Đó còn là niềm khao khát có một chỗ dựa tinh thần, một cuộc sống no ấm bình yên,
môt niềm hạnh phúc gia đình bình dị.
- Cũng qua hình tượng nhân vật người đàn bà, ta nhận ra quan điểm sáng tác của
Nguyễn Minh Châu rất sâu sắc, nhiều chiều về con người và cuộc sống. Ông nhận thấy
cuộc sống này có cả ánh sáng và bóng tối, nước mặt và nụ cười, bề nổi và bề chìm.
- Cuộc đời người đàn bà hàng chài còn nhiều ngang trái, khổ đau nhưng ta vẫ cảm
nhận được cái nhìn thật nhân hậu của nhà văn đối với con người và cuộc sống.

Đề 2:
Phân tích sự biến đổi trong nhận thức của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng về
người đàn bà hàng chài để làm rõ quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn
Minh Châu trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.

1. Đặt vấn đề: Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trước và sau năm
1980:
- Nguyễn Minh Châu là nhà văn nổi tiếng thời chống Mĩ cứu nước.
+ Đề tài sáng tác chủ yếu của ông trước 1980 là đề tài về chiến tranh với nhân vật

Tài liệu ôn thi

trung tâm là hình tượng người lính thời chống Mĩ anh dũng hay những cô thanh niên
xung phong gan dạ, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì nhiệm vụ trên tuyến đường Trường
Sơn ác liệt.
+ Quan điểm sáng tác của ông thời kì này là ca ngợi con người Việt Nam thời chống
Mĩ cứu nước.
+ Điều này đã được thể hiện qua những tác phẩm mang đậm tính sử thi và cảm hứng
lãng mạn như tiểu thuyết “Cửa sông” (1967), “Dấu chân người lính” (1970), tập truyện
ngắn “Những vùng trời khác nhau” (1970).
- Từ thập niên tám mươi của thế kỉ XX cho đến lúc mất (1989):
+ Ông đã chuyển từ cảm hứng sử thi lãng mạn sang cảm hứng thế sự với những vấn
đề đạo đức và triết lí nhân sinh trong xã hội.
+ Nhân vật trung tâm của thời kì này là những con người đời thường trong hành trình
nhọc nhằn tìm kiếm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.
+ Những tác phẩm của ông thời kì này như các tập truyện ngắn “Bến quê” (1985).
“Chiếc thuyền ngoài xa” (1987), “Cỏ lau” (1989).
+ Trong số đó, đặc biệt là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện rõ quan điểm
sáng tác của ông: Nghệ thuật chân chính phải luôn gắn bó với cuộc đời và người nghệ sĩ
không thể nhìn đời một cách đơn giản, cần phải nhìn cuộc sống và con người một cách
đa dạng, nhiều chiều.
2. Giải quyết vấn đề: Phân tích nhân vật để làm rõ quan điểm sáng tác trên:
a. Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng:
* Phát hiện 1: Khung cảnh thiên nhiên vùng phá nước – một “cảnh đắt trời cho”
- Phùng – người chiến sĩ thời chống Mĩ cứu nước năm xưa- sau ngày thống nhất đất
nước, anh đã trở thành một người nghệ sĩ nhiếp ảnh.
+ Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, trưởng phòng đề nghị
Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh về đề tài này.
+ Sau cả tuần “phục kích” ngoài bờ biển, anh đã chụp được một bức ảnh thật ưng ý,
đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”.
- Đó là cảnh một chiếc thuyền lưới vó ngoài khơi đang tiến vào bờ trong một buổi
sáng mù sương có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào.

+ Vài bóng người lớn và trẻ em ngồi im phăng phắt như những pho tượng trên chiếc
mui khum khum.
+ Tất cả những hình ảnh ấy được nhìn qua những cái mắt lưới nằm giữa hai gọng vó
như một cánh dơi.

Tài liệu ôn thi
 Đó là một vẻ đẹp “trời cho”, một vẻ đẹp “thật đơn giản và toàn bích”
- Phát hiện ấy làm cho người nghệ sĩ cảm thấy thật xúc động
+ “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào” .
+ Anh chợt nhận ra đó là cái “khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.
+ Điều đó cho thấy: Người nghệ sĩ chân chính luôn gắn bó với cuộc đời để tìm vẻ đẹp
của nghệ thuật và khi phát hiện được một nét đẹp về nghệ thuật, họ cảm thấy hạnh phúc
tột đỉnh và cảm nhận được “bản thân của cái đẹp chính là đạo đức”, cái đẹp chân chính
có tác dụng thanh lọc tâm hồn.
b. Phát hiện thứ hai: Cuộc sống của gia đình hàng chài – một hiện thực nghiệt
ngã đến xót xa về số phận con người.
- Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ nhiếp ảnh thật bất ngờ và trớ trêu như một trò
đùa quái ác của cuộc sống.
- Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy lần lượt bước ra:
+ Một người đàn bà “trạc ngoài bốn mươi”, với những “đường nét thô kệch”, “rỗ
mặt”, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá”, “cặp mắt nhìn
xuống chân”, tay “buông thõng xuống” ra vẻ nhẫn nhục, cam chịu.
+ Một người đàn ông đi sau, “lưng rộng và cong như một chiếc thuyền”, “mái tóc tổ
quạ”, “chân đi chữ bát”, “hàng lông mày cháy nắng rủ xuống”, “hai con mắt đầy vẻ
độc dữ”.
+ Lão đàn ông đưa vợ lên bờ với dáng điệu “hùng hổ, mặt đỏ gay”, rồi “rút trong
người ra chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa” và “chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn
giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”,
vừa đánh “vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két” và nguyền rủa bằng cái
giọng rên rỉ, đau đớn “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.

- Trước tình cảnh ấy, nghệ sĩ Phùng có thái độ kinh ngạc đến sững sờ, “cứ há mồm ra
mà nhìn”, sau đó “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới” để cứu người đàn bà.
+ Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác đã lao tới để bảo vệ mẹ nó.
+ Nó giật chiếc thắt lưng từ tay người cha rồi đánh trả lại ông để bảo vệ mẹ nó.
+ Người cha đã dùng hết sức lực của mình tát nó “ngã dúi xuống cát” rồi lẳng lặng
trở về thuyền.
- Ba hôm sau, cảnh người đàn ông đánh vợ lại tái diễn.
+ Không thể kìm nén được nữa, Phùng đã xông ra buộc lão đàn ông phải chấm dứt
hành động ác độc.

Tài liệu ôn thi
+ Người đàn ông đã đánh Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của tòa án
huyện để điều trị.
c. Tại tòa án huyện, câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đem đến những
thay đổi trong nhận thức của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng:
- Theo quan điểm của Đẩu và Phùng, muốn giải quyết được những cảnh bạo hành
trong gia đình của người đàn bà hàng chài chỉ có một cách tốt nhất là chị phải bỏ người
chồng vũ phu tàn bạo ấy.
- Vì vậy, họ đã mời người đàn bà lên tòa án để giải quyết
+ Nhưng chánh án Đẩu đã tỏ ra giận dữ khi nghe người đàn bà yêu cầu: “Quý tòa bắt
tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.
+ Còn nghệ sĩ Phùng, khi nghe câu nói của người đàn bà, anh cảm thấy “ngột ngạt”,
khó thở vì quá bất ngờ trước quyết định của chị.
- Tuy nhiên, qua những lời giãi bày rất chân tình của người đàn bà hàng chài, Đẩu và
Phùng đã “vỡ ra” nhiều điều mà trước đây họ chưa hề biết về chị :
+ Các anh đã nhận ra đằng sau cái vẻ cam chịu, nhịn nhục, đáng thương của người đàn
bà hàng chài là cả một tấm lòng vị tha và giàu đức hi sinh của chị. Chị nói: “đàn bà ở
thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.
+ Các anh cũng nhận ra lí do chị không thể bỏ người chồng vũ phu và độc ác đó thật
có lí. Điều đó chứng tỏ chị là một người phụ nữ sâu sắc và từng trải: Chị đã cho các anh

biết:
“đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống
khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con mà nhà nào cũng trên dưới
chục đứa”
+ Chị còn cho các anh biết thêm: trong đau khổ triền miên chị vẫn có được những
niềm hạnh phúc nhỏ nhoi. Chị nói:
“Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”, “trên chiếc thuyền
cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”
- Sau buổi nói chuyện với người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện, nhận thức của Đẩu
và Phùng có nhiều thay đổi:
+ Với Đẩu, anh đã vỡ ra nhiều nghịch lí của cuộc sống: lòng tốt là đáng quý nhưng
chưa đủ, luật pháp là cần thiết nhưng phải đi vào đời sống, muốn con người thoát khỏi
cảnh đau khổ cần phải có những giải pháp thiết thực chứ không phải li dị.
+ Với Phùng, anh nhận ra một điều vô cùng thấm thía của một người nghệ sĩ làm nghệ
thuật, đó là:

Tài liệu ôn thi
* Đừng vì nghệ thuật mà quên đi cuộc đời, bởi “nghệ thuật chân chính luôn là cuộc
đời và vì cuộc đời”. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một
con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một
cuộc sống xứng đáng với con người. Chính vì vậy mà Phùng đã xông ra buộc người đàn
ông chấm dứt hành động độc ác với người vợ của hắn. Anh đã suy nghĩ rất nhiều về gia
đình người đàn bà hàng chài, đã cùng với Đẩu tìm cách giải quyết những bất công ngang
trái trong gia đình của chị.
* Người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách đơn giản, cần phải nhìn nhận cuộc sống
và con người trong mối quan hệ đa dạng, nhiều chiều thì mới phản ánh đúng về con
người và cuộc sống.
3. Kết thúc vấn đề:
- “Chiếc thuyền ngoài xa” là một hình ảnh ẩn dụ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và
cuộc đời: nghệ thuật phải gắn bó với cuộc đời, phải đi sâu vào cuộc đời chứ không thể

nhìn nó một cách hời hợt bên ngoài, hay nhìn nó “ngoài xa”. Ở xa thì nhìn thấy nó rất
đẹp, nhưng khi đến gần, hoặc đi sâu vào bên trong mới phát hiện biết bao điều oái oăm,
ngang trái.
- Từ đó, tác giả muốn gởi gắm quan điểm nghệ thuật của mình: người nghệ sĩ không
thể nhìn đời một cách đơn giản, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa
dạng, nhiều chiều.

Đề 3:
Giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh
Châu.
I. Đặt vấn đề:
- Một trong những ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm văn học là góp phần nhân đạo hóa con
người. Tác phẩm văn học chỉ thực sự có giá trị khi nó lên tiếng vì con người, bảo vệ và ca
ngợi con người, đấu tranh chống lại những cái xấu, cái ác, cái tiêu cực để cuộc sống con
người ngày được tốt đẹp và hạnh phúc.
- Với ý nghĩa đó, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu có giá
trị nhân đạo sâu sắc.
II. Giải quyết vấn đề:
1. Giải thích khái niệm:

Tài liệu ôn thi
- Nói đến giá trị nhân đạo là muốn nói đến:
+ Thái độ cảm thông của nhà văn đối với số phận con người, nhất là những con người
nghèo khổ, bất hạnh.
+ Đó còn là thái độ ca ngợi, khẳng định của nhà văn về những phẩm chất tốt đẹp của
người lao động;
+ Qua đó, nhà văn thể hiện những khao khát về một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc cho
con người.
2. Những biểu hiện:
a. Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” trước nhất thể

hiện ở thái độ cảm thông của nhà văn Nguyễn Minh Châu đối với cuộc sống của
những con người nghèo khổ nơi vùng biển.
- Nhà văn xót xa trước cảnh nghèo khổ, đông con của những gia đình hàng chài:
+ “nhà nào cũng trên dưới chục đứa” phải sống chen chúc nhau trong những chiếc
thuyền lưới vó chật hẹp.
+ Vào những vụ bắc, biển động hàng tháng, thuyền không ra biển được “cả nhà vợ
chồng con cái phải ăn toàn cây xương rồng luộc chấm muối”.
- Nguyễn Minh Châu hết sức cảm thông trước tình cảnh người đàn bà hàng chài
thường xuyên bị chồng đánh đập.
+ Nếu không cảm thông và xót xa cho cuộc đời bất hạnh của chị, tác giả không chú ý
kĩ từng nét ngoại hình lam lũ đáng thương ở người đàn bà hàng chài
+ “khuôn mặt mệt mỏi”, “tấm lưng áo bạc thếch và rách rưới”, “cặp mắt nhìn xuống
chân”, “tay buông thõng xuống”, ra vẻ người nhẫn nhục, cam chịu.
- Hơn thế nữa, nhà văn còn muốn bênh vực cho chị, không muốn chọ bị chồng đánh
đập tàn nhẫn.
+ Vì vậy, trong tác phẩm, ít nhất hai lần tác giả đã để cho Phùng xông ra bênh vực cho
chị đến nỗi anh phải bị thương.
+ Chúng ta có thể hiểu, nghệ sĩ Phùng cũng chính là hóa thân của nhà văn trong tác
phẩm, là nhân vật mà nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi gắm nhiều suy nghĩ và hành động
của mình.
- Nhà văn cũng cảm thông với tình cảnh của người chồng vũ phu:
+ Cũng chính vì cuộc sống quá nghèo khổ lại phải lao động vất vả để nuôi cả một gia
đình đông con nên “anh con trai cục tính những hiền lành”, không bao giờ biết đánh vợ
xưa kia, giờ đã trở thành một người chồng vũ phu thường xuyên đánh vợ tàn nhẫn “ba
ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.

Tài liệu ôn thi
+ Có thể nói người đàn ông hàng chài thô bạo ấy là nạn nhân của cuộc sống đói
nghèo, lam lũ. Lão lầm lì đánh vợ như một thói quen để giải tỏa tâm lí và nỗi khổ triền
miên của đời mình.

- Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã phê phán mạnh mẽ hành động vũ phu của
người chồng.
+ Ông muốn giúp người đọc thấy rõ tình trạng bạo lực trong gia đình như một mảng
tối còn tồn tại trong xã hội ta những năm tám mươi của thế kỉ hai mươi.
+ Thông qua hình ảnh người chồng thường xuyên đánh vợ tàn nhẫn, tác giả đã báo
động với mọi người về một hiện tượng nhức nhối của xã hội.
+ Đâu đó trong cuộc sống chung quanh ta vẫn còn sự lộng hành của cái xấu, cái ác.
+ Gióng lên một hồi chuông báo động về cái ác, Nguyễn Minh Châu muốn đấu
tranh cho cái thiện được tồn tại. Đó chính là một trong những biểu hiện về giá trị nhân
đạo của tác phẩm.
b. Nguyễn Minh Châu là nhà văn luôn đứng về cái đẹp, cái thiện. Đi tìm, phát
hiện, ca ngợi, khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của con người, đó là biểu hiện
sâu sắc của giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”.
- Trước năm 1975, trong bối cảnh lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, Nguyễn
Minh Châu xây dựng những vẻ đẹp lí tưởng, yêu nước, anh hùng của con người Việt
Nam thời chống Mĩ.
+ Họ là Lãm, là Nguyệt trong tác phẩm “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh
Châu.
+ Đó là những con người thật cao đẹp, họ biết hi sinh hạnh phúc cá nhân cho tình yêu
Tổ quốc, biết gác lại những tình cảm của cá nhân mình cho cuộc kháng chiến của toàn
dân tộc.
- Sau năm 1975, cuộc sống hiện ra nhiều chiều, nhiều mặt đối lập, Nguyễn Minh
Châu đã đi sâu vào hiện thực để nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa dạng,
nhiều chiều.
+ Có như vậy, ông mới phát hiện ra được những vẻ đẹp còn khuất lấp trong cái lấm láp
bụi bặm của đời thường.
+ Hình ảnh người đàn bà xấu xí nhẫn nhục vẫn lóe lên vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng
liêng, một vẻ đẹp đầy nữ tính, vị tha của người phụ nữ ở một miền biển còn đói nghèo,
lạc hậu.
- Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện một cái

nhìn rất nhân đạo về con người.

Tài liệu ôn thi
+ Ông đã phát hiện và khẳng định nhiều phẩm chất cao đẹp ở người phụ nữ có cái vẻ
bên ngoài xấu xí và cam chịu, nhẫn nhục này.
+ Bằng một cái nhìn đa dạng, nhiều chiều và sâu sắc, Nguyễn Minh Châu đã giúp ta
cảm nhận được một tấm lòng vị tha và giàu đức hi sinh của chị.
Đối với chồng, mặc dù bị ngược đãi, người vợ vẫn chịu đựng và cảm thông chứ
không hề trách móc hay lên án, tố cáo.
Chị hiểu rằng chồng đánh mình cũng vì những lẽ riêng rất đời thường. Đó là do phải
sống trong đói nghèo, lạc hậu, con cái nheo nhóc, không gian sống chật hẹp, tù đọng.
Chị hiểu chính cái môi trường đầy khó khăn ấy đã khiến một “anh con trai cục tính
nhưng hiền lành” biến thành một gã đàn ông thô bạo, dã man. Trước tòa, chị cố bênh vực
cho chồng, đó là một tấm lòng vị tha rất đáng trân trọng ở chị.
Đối với con, chị là người mẹ giàu đức hi sinh. Chị nói: “đàn bà ở thuyền chúng tôi
phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Chị đã chấp nhận sự khổ đau để hi
sinh cho cuộc sống của đàn con.
Chị chấp nhận bị chồng đánh, có điều chỉ xin chồng đánh ở trên bờ để các con đừng
nhìn thấy. Đó là một cách ứng xử rất nhân bản. Chị không muốn con chị chứng kiến
xấu có thể làm hủy hoại nhân cách của chúng và chị cũng không muốn gieo vào lòng các
con thái độ căm thù đối với cha của chúng.
- Tác giả còn giúp ta nhận ra lí do chị không thể bỏ chồng thật có lí, điều đó chứng tỏ
chị không phải là mọt con người phụ nữ nông nổi, thiếu nghĩ suy, nhu nhược, hèn nhát,
mà là người phụ nữ thật sâu sắc và từng trải, biết suy nghĩ, cân nhắc cho từng hành
động của mình.
+ Chị cho biết: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có một người đàn
ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con mà nhà
nào cũng trên dưới chục đứa”.
+ Nguyễn Minh Châu còn giúp ta cảm nhận được những khát vọng hạnh phúc trong
lòng người đàn bà hàng chài nghèo khổ này.

Trong đau khổ triền miên, chị hết sức trân trọng những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi.
Phải yêu thương con người lắm nhà văn mới chú ý đến từng chuyển biến nhỏ trên
gương mặt của chị khi nói về hạnh phúc. Nhà văn cho ta biết, khi nói về hạnh phúc, “lần
đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí” của chị “chợt ửng sáng lên như một nụ cười”.
Chị nói: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” và “cũng có lúc
vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.
- Có thể nói người đàn bà hàng chài là biểu tượng cho tình mẫu tử, biểu tượng cho

Tài liệu ôn thi
khát vọng hạnh phúc gia đình.
+ Thông qua suy nghĩ của chị về gia đình và hạnh phúc, tác giả đã giúp ta hiểu ra được
một gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên, cho dù trong gia đình ấy còn
nhiều cảnh ngang trái, khổ đau, nhưng chị vẫn nâng niu trân trọng từng chút hạnh phúc
nhỏ nhoi mà mình có được.
+ Đó là thái độ cảm thông, cái nhìn hết sức nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu
đối với con người.
c. Giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” còn thể hiện ngay
trong quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu: “Nghệ thuật chân chính phải
gắn với cuộc và vì cuộc đời, vì con người”.
- Cách kết thúc tác phẩm đã gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Là tấm ảnh đen trắng
nhưng mỗi lần nhìn vào Phùng đều thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương
mai” và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi
tấm ảnh”.
+ Vậy thì, đây đâu chỉ là ảnh nghệ thuật mà chính là hiện thực cuộc đời. Nếu chỉ đơn
thuần là ảnh nghệ thuật trắng đen thì sao lại có được “cái màu hồng hồng của ánh sương
mai” do ánh mặt trời của ánh bình minh buổi sáng phản chiếu?
+ Và nếu chỉ là ảnh thì người đàn bà hàng chài ấy làm sao “bước ra khỏi tấm ảnh” để
“bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám
đông”.
+ Đó chính là quan điểm nghệ thuật mà tác giả muốn gởi gắm với mọi người: Nghệ

thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời, nghệ thuật phải gắn bó với cuộc đời và vì
cuộc đời, vì con người.
+ Mỗi một nhà văn hãy đi vào cuộc sống, hãy sống gắn bó với con người và nhìn
nhận họ một cách đa dạng, nhiều chiều để phát hiện ra những hạt ngọc còn ẩn sâu
trong tâm hồn họ, dù rằng ngoại hình họ xấu xí và họ đang sống trong một hoàn cảnh
ngang trái, khổ đau.
- Qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đã đặt ra một vấn đề để mọi người cùng suy
nghĩ và giải quyết. Đó là vấn đề về số phận và hạnh phúc của con người.
+ Cái nhìn của Nguyễn Minh Châu thật đa dạng, nhiều chiều. Ông thấy trong cuộc
sống có cả ánh sáng và bóng tối, nước mắt và nụ cười, bề nổi và bề chìm, khổ đau và
hạnh phúc.
+ Nhưng điều quan trọng nhất là ông vẫn tin vào phẩm chất tốt đẹp của con người,
tin vào bản chất tốt đẹp của xã hội sẽ làm thay đổi số phận con người.

Tài liệu ôn thi
III. Kết thúc vấn đề:
- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu có một giá trị
nhân đạo sâu sắc. Giá trị nhân đạo ấy thể hiện trên nhiều phương diện.
+ Đó là cái nhìn yêu thương, cảm thông của nhà văn về số phận bất hạnh của con
người.
+ Đó là việc phát hiện và khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của những con người
lao động nghèo khổ.
+ Đó còn là thái độ lên án nạn bạo hành trong gia đình để mọi người cùng đấu tranh
chống lại hiện tượng tiêu cực này, cùng phấn đấu hướng tới việc xây dựng cuộc sống gia
đình hạnh phúc.
- Giá trị nhân đạo trong tác phẩm này còn thể hiện ngay trong quan điểm nghệ thuật
thật tiến bộ của ông: “Nghệ thuật chân chính phải gắn với cuộc và vì cuộc đời, vì con
người”.

Đề 4: Phân tích hình thượng người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc

thuyền ngoài xa”?
Mở bài:
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật
để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài - người phụ
nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh cao thượng mà khiến khi gấp
trang sách lại ta không thể nào quên.

Thân bài:
Để tạo nên hình tượng người đàn bà ấy nhà văn đã tạo ra tình huống truyện độc
đáo và từ tình huống độc đáo này mà nhân vật dần hé lộ số phận: Truyện được kể
lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến
tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp
một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát
hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “Trước mặt tôi là một bức tranh
mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu

Tài liệu ôn thi
sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum
khum, đang hướng mặt vào bờ”. Cảnh đẹp đến nỗi Phùng có cảm giác bối rối, trái
tim như bị bóp thắt vào. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là
một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà
bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng
đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ. Xuyên
suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của
người đàn bà tội nghiệp ấy, NMC đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người
đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta Không phải nhà văn "nghèo"
ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì Chị cũng giống như
hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: CHỊ LÀ NGƯỜI VÔ DANH.


Lần đầu chị xuất hiện: Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen
thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt.
Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang
buồn ngủ. Chị bị chồng hành hạ một cách tàn nhẫn: Lão đàn ông lập tức trở lên
hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày
xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng
lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng
người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi
nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi cho
ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!". Kì lạ thay chị vẫn lặng im chịu
đựng, vẫn lặng yên như một sự cam chịu ”Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy
nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn
chạy”.

Chị là ai ?

+ Trước đây Chị vốn là con của một gia đình khá giả nhưng số phận đã không may
mắn với chị. Chị mắc bệnh đậu mùa. Di chứng để lại đó là Cái xấu, cái xấu xí thô
kệch đã đeo đuổi chị như một định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ cho đến tận bây giờ.

Tài liệu ôn thi
+ Vì xấu xí không ai lấy nên chị trót có mang với một anh hàng chài nhà ở giữa
phá vẫn hay đến nhà chị mua bả về đan lưới. Thế rồi thành vợ thành chồng. Chị
xuống ở luôn dưới thuyền. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ,
bấp bênh: “có nhiều tháng biển động phải ăn cây xương rồng luộc chấm muối”.
Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,
+ Vì túng quẫn, đói nghèo, thất học, lạc hậu. Lão chồng của chị từ một anh con trai
“hiền lành nhưng cục tính” đã trở thành một kẻ vũ phu lỗ mãng. Hắn đã lấy
phương pháp đánh vợ để giải tỏa những bế tắc cuộc sống. Bị chồng thường xuyên
đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão

thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh 1 con thú, với lời
lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". “Mày”
ở đây là vợ ông ta. “Chúng mày” là vợ con của ông ta. Họ là những đồng loại rất
gần gũi với ông ta. Cay đắng thay cho số phận của chị.

+ Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy
trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Thậm chí chị còn yêu cầu hắn “ Muốn đánh
chị thì đưa chị lên bờ để đánh vì chị không muốn để những đứa con nhìn thấy cảnh
bố hành hạ mẹ”. - Vì đâu chị lại chịu đựng và cam chịu như vậy ?

+ Chị coi việc mình bị đánh đó như 1 phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình,
chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Vì chị rất thấu hiểu lẽ đời. Chị
hiểu cơ cực của cuộc sống mưu sinh trên biển không có người đàn ông. trong cuộc
mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết
nghề “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền
chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi
nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người
đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái
khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình
như ở trên đất được!”.

+ Chị cũng hiểu và thông cảm cho chồng: chị thừa nhận chồng chị trước kia là anh
con trai hiền lành nhưng cục tính, chẳng qua vì đói nghèo, thất học, túng quẫn lão

Tài liệu ôn thi
chồng mới sinh ra vậy. Đây chính là sự hiểu đời, sự thông cảm và vị tha của chị.
Chị không hề oán trách chồng mà ngược lại chị rất cảm thông và vị tha. Chị là
người có đức hi sinh cao thượng.
Không chỉ vậy, nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô
bờ bến của chị. Tình mẫu tử của chị đã vút lên trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực,

ngang trái, đau đớn đầy xót xa . Vì thương con chị đã luôn miệng xin quý tòa đừng
bắt con bỏ nó. Chị hiểu như thế nào là nỗi đau của những trẻ thơ sống trong cảnh
bố mẹ ly dị. Chị không muốn nhìn cảnh các con thấy bộ mẹ chia tay. Cũng vì
thương con chị đã yêu cầu lão đàn ông vũ phu mang chị lên bờ mà đánh vì sợ con
nhìn thấy. Vì thương con mà chỉ đưa thằng Phác lên bờ để sống. Vì thương con mà
chị đã đau đớn nhìn cảnh thằng Phác vì thương mẹ mà đã chống trả lại bố đẻ của
mình. Trong đau khổ chị vẫn luôn chắt lọc những niềm vui ví như khi nhìn các con
được ăn no, được nô đùa hay có lúc chị và chồng chị cũng có những giây phút đầm
ấm, hòa thuận. Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một
tấm lòng yêu thương mê muội, đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ,
chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm
trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng
dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi
sinh.

+ Phùng và Đẩu là hai cán bộ cách mạng vừa bước ra khỏi chiến tranh. Mới đầu
các anh căng thẳng, các anh không hiểu nhưng sau đó, qua câu chuyện của người
đàn bà ở tòa án, Phùng và Đẩu đã vỡ lẽ. Qua câu chuyện của người đàn bà, họ càng
thấy rõ: Không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng
của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc
sống mà phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phổ quát thì mới hiểu được những
sắc cạnh của cuộc đời. Vì “con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”. Đây cũng là
nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà NMC chính là vị "khai quốc công thần
của triều đại văn học mới".

Nghệ thuật: Sử dụng biện pháp đối lập (giữa hình thức và tâm hồn), đặt nhân vật
trong tình huống nhận thức độc đáo, Nguyễn Minh Châu giúp người đọc khám phá

Tài liệu ôn thi
“….ẩn dấu” trong “bể sâu tâm hồn” người đàn bà hàng chài.

Đề5: Quan hệ giữa nghệ thuật và đời thường trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài
xa”?
Từ những năm 60 của thế kỷ trước, công chúng đã biết đến Nguyễn Minh Châu qua
những tiểu thuyết như: Cửa sông, Dấu chân người lính cùng khá nhiều truyện ngắn được đánh
giá là những thành công của văn xuôi chống Mĩ. Hồi ấy, chắc không ít người từng nghĩ rằng: ông
như con tằm đã nhả hết tơ trong thời chiến nên chuyển sang thời bình tất yếu sẽ "giảm phong
độ".
Nhưng những tác phẩm được viết từ sau 1975 và nhất là từ thời kỳ đổi mới của Nguyễn
Minh Châu đã chứng tỏ ở ông vẫn còn một vốn viết rất sung mãn. Ông đã đem đến cho văn đàn
sau chiến tranh những khám mới về con người, những suy tư về thế sự và đó hình như mới đúng
là Nguyễn Minh Châu. Không phải vô cớ mà Nguyên Ngọc coi ông là "người mở đường tinh anh
và tài năng" thời kỳ đổi mới. Chỉ cần viện dẫn truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa cũng đủ thấy
Nguyên Ngọc không quá lời.
Khi được đưa vào chương trình ngữ văn 12 mới, thay thế cho Mảnh trăng cuối rừng,
nhiều giáo viên văn tỏ ra nuối tiếc thiên diễm tình lãng mạn giữa bom đạn Trường Sơn. Cùng với
tâm lí ấy là sự cảm thấy khó khăn khi thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của Chiếc thuyền ngoài
xa. Tác phẩm này quả thực không dễ dàng tiếp nhận vì nó là tiếng nói đa thanh, đa nghĩa; nó đặt
ra rất những vấn đề bức xúc, phức tạp của thế sự nhưng lại giải quyết trong vỏn vẹn khuôn khổ
một truyện ngắn. Để hiểu tác phẩm này, có thể bắt đầu từ tình huống truyện. Đó là tình huống
của những nghịch lí.
Nghịch lí thứ nhất là sự kiện nhân vật Phùng - nghệ sĩ nhiếp ảnh được trưởng phòng giao
nhiệm vụ chụp một bức ảnh về cảnh biển buổi sáng có sương mù để bổ sung xuất bản bộ lịch.
Phùng đến vùng biển từng là bãi chiến trường cũ thời chống Mĩ. Sau một tuần lễ kiên nhẫn chờ
đợi, người nghệ sĩ đã gặp "một cảnh "đắt" trời cho". Đó là tuyệt tác của tạo hóa đẹp như "một
bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ". Bằng con mắt nhạy cảm nhà nghề, Phùng phát
hiện ra một sự hài hòa, thơ mộng đến tuyệt diệu của cảnh biển buổi sáng. Trên cái phông nền mờ
nhòe của sương sớm có pha chút màu hồng dịu của bình minh, có những bóng người trên thuyền
im phắc được nhìn qua những mắt lưới. Phát hiện ra vẻ đẹp "thực đơn giản và toàn bích" đó, tâm
tư của Phùng không chỉ tràn đầy những rung cảm thẩm mĩ mà còn như được thanh lọc để trở nên
trong sáng hơn. Trong lúc tâm hồn thăng hoa bởi cái đẹp, anh nghiệm thấy đúng như ai đó đã

phát hiện ra "bản thân cái đẹp chính là đạo đức". Vì đứng trước thế giới ấy - thế giới mà Phùng
gọi là chân lí của sự toàn thiện, toàn mĩ, anh đã cảm nhận rất rõ "cái khoảnh khắc trong ngần của

Tài liệu ôn thi
tâm hồn". Như để làm dịu đi cơn khát, người nghệ sĩ đã dùng chiếc máy ảnh bấm liên thanh hết
một phần tư cuốn phim. Nhưng cũng trớ trêu thay, chính trong lúc ấy, Phùng lại bàng hoàng
chứng kiến cảnh tượng không có một chút "thơ" nào. Từ trong cảnh biển đẹp như mơ ấy lại xuất
hiện những con người xấu xí. Đó là người đàn bà cao lớn với những đường nét thô kệch, rỗ mặt,
dáng vẻ mệt mỏi, khuôn mặt tái ngắt. Đó là hình ảnh người đàn ông với tấm lưng rộng, mái tóc
tổ quạ, chân đi chữ bát, con mắt đầy vẻ độc dữ. Nếu trước đó, cảnh chiếc thuyền ngoài xa yên
tĩnh, thơ mộng thì cảnh bạo hành trong gia đình người dân chài lại vô cùng tàn nhẫn, dã man.
Hóa ra người đàn bà lặng lẽ theo chồng lên bờ là chỉ để hứng chịu những trận đòn vô lí. Chứng
kiến cảnh ấy Phùng đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Đầu tiên là sự bất ngờ có pha chút thất
vọng vì ngoại hình của cặp vợ chồng dân chài khiến người nghệ sĩ đang thăng hoa trong cảm xúc
bỗng mất hứng. Bất ngờ tiếp theo là người đàn ông không hiểu vì lí do gì, chẳng nói, chẳng rằng,
dùng chiếc thắt lưng "quật tới tấp vào người đàn bà". Lão ta đánh vợ như một sự giải tỏa, để trút
bỏ "cơn giận như lửa cháy". Người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn nhưng không hề kêu
khóc, van xin, cũng không hề phản kháng hay bỏ chạy. Cái thân hình vập vạp ấy như đã quen với
việc bị đánh, trở thành nơi để hứng chịu những trận đòn kỳ quặc của chồng. Nhưng có một chi
tiết chen ngang khiến chị ta không cầm nổi nước mắt - sự xuất hiện của thằng Phác - đứa con trai
mà chị ta hết mực yêu thương. Việc thằng Phác chứng kiến mẹ bị hành hạ, xông vào bênh vực
mẹ đã khiến người đàn bà vừa trước đó tỏ ra vô cảm, trơ lì với những trận đòn bỗng "chắp tay
vái lấy vái để" thằng bé rồi lại "ôm trầm lấy nó" mà khóc tức tưởi. Toàn bộ cảnh bạo hành gia
đình diễn ra trong một thời khắc ngắn ngủi "như trong một câu chuyện cổ đầy quái đản". Nó tác
động không nhỏ đến tâm lí hoài nghi của người nghệ sĩ.
Nghịch lí thứ hai là chuyện Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ và cảnh cô
chị gái cố đoạt lấy con dao găm trong tay thằng Phác khi nó định dùng để bảo vệ mẹ. Bản chất
của người lính năm xưa trỗi dậy, Phùng không nhẫn nhịn được nên đã can thiệp và bị thương.
Anh được đưa đến trạm y tế của tòa án huyện. Ở đây, Phùng có người bạn đồng ngũ là Đẩu - vị
chánh án tòa án được coi là "bao công của phố huyện". Với sự vô tư, trách nhiệm của một nhà

chấp pháp, Đẩu đã mời người đàn bà đến vì mục đích giải thoát cho chị ta. Nhưng cả Đẩu và
Phùng đều không ngờ rằng, người đàn bà từ chối một cách quyết liệt thiện chí giúp đỡ của Phùng
và Đẩu. Theo lời chị ta thì "quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được" nhưng "đừng
bắt con bỏ nó"!
Điều gì làm nên cách ứng xử ("lấy cam chịu làm đầu") của người đàn bà qua những
nghịch lí ấy?
Người đàn bà cam chịu anh chồng vũ phu thô bạo bởi chị ta hiểu chồng và ít nhiều có sự
biết ơn. Biết ơn bởi lúc nhỏ chị ta đã là một "đứa con gái xấu, lại rỗ mặt", "trong phố không ai
lấy" và vì thế việc gã đàn ông làng chài trở thành chồng đối với chị cũng là một sự hàm ơn.
Trong những lời kể về cuộc đời dằng dặc những nhọc nhằn của mình, người đàn bà không hề tỏ
ra oán chồng. Chị ta hiểu chồng mình bản chất không phải là kẻ độc ác. Trước kia anh ta "hiền

Tài liệu ôn thi
lành lắm" và không bao giờ đánh đập vợ. Chỉ khi đối mặt với sự nghèo túng, phải gánh cả một
gia đình đông con lão ta mới tha hóa. Nói về chồng mình, người đàn bà tỏ ra rất vị tha. Chị ta
cho rằng, việc người đàn ông đánh vợ không phải lỗi ở hắn mà là ở mình. Nghĩa là do "đẻ nhiều
quá" mà cuộc sống chật vật, căng thẳng khiến "cứ lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh".
Lí do thứ hai khiến người đàn bà cam chịu là tình thương với con cái. Vì thương con mà
chị ta tìm mọi cách nhằm vẫn chấp nhận để cho chồng giải tỏa bằng đánh đập mà vẫn không làm
tổn thương đến con. Bản tính người mẹ đã tạo cho người đàn bà một sự chịu đựng khủng khiếp.
Đọc chiếc thuyền ngoài xa, lắm lúc tôi cứ băn khoăn một lẽ, chẳng biết cái đức hi sinh, nhẫn
nhịn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam - Cái phẩm chất mà từ ca dao, đến ông Tú rồi biết
bao áng thơ văn hiện đại hết lời ca ngợi ấy là ưu hay nhược điểm? Là đáng tự hào hay không nên
quá tự hào? Vì không muốn để con biết là mình bị đánh nên chị ta chỉ dám cầu xin một "ân huệ"
- xin chồng đưa mình lên bờ để đánh. Trong những đứa con đông đúc của mình, chị ta thương
nhất thằng Phác nên đã gửi nó lên theo ông ngoại trên đất liền. Gửi thằng bé lên đó không chỉ vì
tránh cho tâm hồn non nớt của nó bị tổn thương mà quan trọng hơn là để nó khỏi làm điều gì dại
dột với bố. Thế nên, khi để thằng Phác chứng kiến mình bị đánh đập, khi thằng Phác bất chấp
tình cha con để bênh vực mẹ, người đàn bà đã không thể chịu đựng nổi nỗi đau. Tình thương con
đã biến chị từ chỗ tỏ ra không có cảm giác đau đớn thân xác đã trở nên yếu đuối đến thảm hại.

Cũng vì thương con mà chị ta không muốn cảnh gia đình tan vỡ. Phản ứng của người đàn
bà khiến tôi nhớ lại như in một ấn tượng từ tuổi thơ. Tôi đã từng chứng kiến những con gà mái
chống lại diều quạ để bào vệ đàn con. Bình thường chúng rất lành và nhút nhát nhưng hễ phải
bảo vệ đàn con là chúng rất dữ dằn. Tôi đã từng thấy cảnh con quạ chỉ dám bay vòng bên trên
chứ không dám sà xuống đám gà con đang quây quanh chân mẹ vì con gà mái mắt cứ long lên
chỉ chực lăn xả vào con quạ nếu nó đáp xuống. Đó chính là sức mạnh ở bản năng người mẹ mà
bình thường nó không thể có được để chống lại loài chim ăn thịt? Phản ứng của người đàn bà ở
tòa án huyện phải chăng cũng được miêu tả theo quy luật ấy? Khi mới đặt chân đến tòa án, mặc
dù không phải là lần đầu nhưng chị vẫn không khỏi sợ sệt, lúng túng khác hẳn lúc bị chồng đánh
giữa bãi xe tăng hỏng. Để tỏ ra là chỗ dựa tin cẩn cho người người mẹ đáng thương, chánh án
Đẩu đã bày tỏ sự sẵn lòng giúp đỡ để giải thoát cho chị ta, trừng trị lão đàn ông vũ phu. Trong
suy nghĩ đơn giản của Đẩu và Phùng, lẽ ra chị ta phải cảm thấy nhẹ người vì đã cởi bỏ được một
gánh nặng vẫn phải đeo đẳng bấy lâu. Nhưng người đàn bà lại trở nên sợ hãi. Chị ta "chắp tay lại
vái lia lịa", "con lạy quý tòa", chị ta chấp nhận "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng
được nhưng đừng bắt con bỏ nó ". Nói thế nghĩa là chị ta chấp nhận những hình phạt nặng nề
của pháp luật, thà là kẻ có tội trước pháp luật, bị bắt tội, bị đi tù còn hơn là phải li dị. Khi Phùng
xuất hiện, chị ta nghĩ rằng, tòa án bố trí sẵn nhân chứng để buộc mình phải li dị thì người đàn bà
- như con gà mái bảo vệ đàn con - bấy giờ mới trút bỏ cái vẻ bề ngoài tỏ ra u mê, nhút nhát. Sự
biến đổi này bắt đầu bằng thái độ gai góc hẳn lên. Từ lối xưng hô với Đẩu "con - quý tòa", chị ta
bỗng chuyển sang lối xưng hô "chị - các chú". "Vị bao công phố huyện" cùng người bạn đồng

Tài liệu ôn thi
ngũ của mình lúc đầu có ý định giảng giải cho chị ta lí do chính đáng để li dị nhưng rồi chính chị
ta lại dạy cho Đẩu và Phùng một bài học về cách nhìn cuộc sống. Đẩu và Phùng không hiểu nổi
những bí ẩn về người đàn bà này nhưng chị ta lại tỏ ra hiểu và thông cảm khi cho rằng "lòng các
chú tốt" nhưng "các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc". Trái
với vẻ nông nổi thiếu thực tế của Phùng và Đẩu, chị hiểu được vai trò của người đàn ông trên
thuyền để chống chọi với sóng gió, "dù hắn man rợ, tàn bạo".
Đúng là cái đức hi sinh từ ngàn đời của người phụ nữ Việt đã di truyền cho người đàn bà
này sức chịu đựng khủng khiếp và cùng với sự chịu đựng ấy là một nỗi khổ ải kỳ cục. Người

chồng cũng khổ nhưng còn được giải tỏa bằng việc đánh vợ. Thằng Phác cũng khổ nhưng còn
có chỗ che chở là ông ngoại. Người đàn bà dân chài này khổ còn vì không biết giải tỏa bằng cách
nào, không thể và không muốn chia sẻ cùng ai. Khổ đến mức, chỉ được chồng chiếu cố cho một
ân huệ là được lên bờ chịu đòn mà cũng như một cái ơn. Tất nhiên, không phải chị ta không hạnh
phúc nhưng đó là hạnh phúc tội nghiệp - hạnh phúc khi đôi lúc nhìn lũ con được ăn no. Như vậy,
người đàn bà vùng biển này cũng như cô Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng, đều là kiểu "hạt
ngọc ẩn" mà Nguyễn Minh Châu cả đời tìm kiếm. Có điều, cô Nguyệt trong Mảnh Trăng cuối
rừng là mẫu hình lí tưởng chỉ để mơ ước, để ngắm nhìn chứ không có thực còn người đàn bà
vùng biển trong tác phẩm này thì hiện lên từ những lấm lem bụi đời. Chị ta là "hạt ngọc ẩn" bởi
lẽ đằng sau cái vẻ ngỡ như thô vụng, thậm chí u tối, người đàn bà này không phải không có
những suy nghĩ sắc sảo, sâu xa. Và "hạt ngọc ẩn" ấy chỉ thực sự hiển lộ khi buộc phải bộc lộ
mình.
Hé mở dần bản chất của người đàn bà vùng biến, thiên truyện đã đặt ra những vấn đề có ý
nghĩa xã hội bức thiết. Ý nghĩa ấy trước hết được gửi vào Đầu. Anh là chánh án tòa án thông
hiểu luật pháp lại sẵn có lòng hào hiệp cứu người nhưng lại thiếu hiểu biết thực tế. Trong suy
nghĩ đơn giản của Đẩu chỉ cần giúp người đàn bà li hôn, trừng phạt lão đàn ông vũ phu kia là sẽ
đem lại lẽ công bằng. Nhưng nếu giả sử buộc phải li hôn, người đàn bà sẽ sống như thế nào với
sóng gió biển cả và nhất là phải nhìn cảnh lũ con bị chia sẻ "có bố thì không có mẹ, có mẹ thì
không có bố". Bài học đặt ra từ mâu thuẫn này là: muốn cải tạo cuộc sống phải căn cứ vào thực
tế cuộc sống làm cho cuộc sống "dễ thở" hơn chứ không phải chỉ đem sách vở mà áp đặt vào
cuộc sống. Nếu chỉ biết đem sách vở mà áp vào cuộc sống thì chánh án Đẩu có khác nào một thứ
Rôbốt, có khi vô tình trở thành kẻ hành động phản nhân văn mà chính mình không ý thức được.
Người đàn ông đánh vợ, về lí là có tội nhưng nếu xét từ hoàn cảnh sống thì chính anh ta cũng là
nạn nhân chứ không chỉ là phạm nhân. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả sáng tạo chi tiết Phùng
chứng kiến gã đàn ông đánh vợ bằng chiếc thắt lưng của lính Ngụy, ở nơi có chiếc xe tăng hỏng
của Mĩ Ngụy. Phùng và Đẩu đều là những người lính trở về thời bình với vinh quang chiến
thắng. Ở tác phẩm này, có lẽ Nguyễn Minh Châu muốn kí thác một điều, không phải hễ cứ đánh
đuổi được ngoại xâm, thống nhất đất nước là có thể đem lại hạnh phúc cho con người. Tàn dư
của xã hội cũ còn đó trong nạn bạo hành gia đình khiến những người lính Trường Sơn năm xưa


Tài liệu ôn thi
vẫn chưa yên lòng với vinh quang của quá khứ. Câu chuyện để lại một kết thúc bỏ lửng.
Chẳng biết sau này, cuộc sống của gia đình làng chài ấy sẽ tiếp diễn ra sao, liệu rằng cái bãi xe
tăng hỏng của Mĩ Ngụy có còn là nơi diễn ra nạn bạo hành? Liệu cái thắt lưng da của lính Nguy
có còn tác quái với gia đình làng chài ấy không? Và thằng Phác - cái thằng bé giống bố như lột
ấy rồi đây sẽ trở thành con người như thế nào? Nếu cuộc sống này còn tiếp diễn thì ai dám chắc
nó sẽ không trở thành kẻ tha hóa điên rồ như cha mình. Kết thúc bỏ lửng ấy không chỉ tránh
được công thức mà quan trọng hơn, nó nhấn sâu hơn bức thông điệp khắc khoải đau đáu về số
phận con người: cuộc chiến đấu với đói nghèo, lạc hậu còn diễn ra dai dẳng lâu dài. Nó cũng
khốc liệt chẳng kém gì cuộc chiến chống ngoại xâm vừa qua đi.
Thiên truyện còn đặt ra những vấn đề có ý nghĩa nghệ thuật với văn nghệ sĩ sau chiến
tranh. Ý nghĩa ấy chủ yếu được gửi vào nhân vật Phùng. Sự phát hiện những nghịch lí cuộc sống
giúp Phùng nhận thức rõ hơn bản chất mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Chiếc thuyền
trong sương sớm đẹp vì nó là viễn ảnh, được nhìn từ xa. Nó có thể thanh lọc tâm hồn người nghệ
sĩ nhưng vẫn vô nghĩa với những con người lam lũ ở phía sau vẻ đẹp ấy, những con người cơ cực
bởi gánh nặng mưu sinh. Bức ảnh của Phùng được trưởng phòng khen ngợi, có mặt trong nhiều
gia đình "sành nghệ thuật" nhưng chính tác giả của nó lại không bằng lòng vì đó là hình ảnh chỉ
để ngắm nhìn, đó còn là sản phẩm của cái nhìn dễ dãi về cuộc sống, chưa vươn tới được bản chất
cuộc đời, chưa cất lên được tiếng nói của những con người lam lũ nhọc nhằn. Sự phiến diện ấy
bắt nguồn từ chính Phùng. Anh thiết tha với cái đẹp, với nghệ thuật và cũng sẵn lòng hào hiệp
của người lính Trường Sơn nhưng cũng như Đẩu, Phùng còn thiếu hiểu biết thực tế thành ra vẫn
hời hợt trong cách nhìn đời, lúng túng không giải thích được những nghịch lí phức tạp của cuộc
sống. Sự phiến diện ấy còn bởi Phùng chỉ sáng tạo theo đơn đặt hàng. Nghĩa là theo sự giao việc
của trưởng phòng - mà như thế không thể gọi là sáng tạo. Bản thân từ sáng tạo đã bao hàm một
cái gì của riêng mình, từ chính mình, là chống lại công thức Trong hoàn cảnh thời đại, khi cái
nhìn giản đơn về con người và cuộc sống còn ngự trị trong sáng tác văn học thì tác phẩm này đặt
ra một vấn đề liên quan đến sự sống còn của nghệ thuật Việt Nam sau chiến tranh. Đó là cách
nhìn con người và cuộc đời. Người nghệ sĩ - theo nhà văn - phải nhìn cuộc đời bằng đôi mắt toàn
diện, phải thấy được những phức tạp của cuộc sống chứ không thể nhìn cuộc sống một cách dễ
dãi, xuôi chiều. Đó không chỉ là tâm nguyện của riêng Nguyễn Minh Châu mà là của cả một lớp

văn nghệ sĩ thời kỳ Đổi mới.
Còn nhớ hồi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nam Cao viết truyện ngắn Đôi mắt phê
phán lối sống ích kỉ, suy nghĩ lạc lõng của văn sĩ Hoàng, ca ngợi Độ, tức là ca ngợi mẫu hình văn
nghệ sĩ từ bỏ cái cao siêu, cá nhân trong nghệ thuật, tự nguyện dùng nghệ thuật để tuyên truyền,
vận động Cách mạng góp phần giải phóng dân tộc. Khi dùng nghệ thuật để tuyên truyền thì tất
yếu nghệ thuật phải tìm đến lối thể hiện đơn giản (vì lực lượng cách mạng chính là quần chúng
nhân dân trong những năm 40 -50 của thế kỷ trước). Tư tưởng ấy ngỡ mâu thuẫn mà lại thống
nhất với Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Thống nhất ở chỗ Nam Cao đặt ra vấn

Tài liệu ôn thi
đề "đôi mắt" của người nghệ sĩ trong thời chiến còn Nguyễn Minh Châu thì trăn trở về cách nhìn
con người và cuộc đời trong thời bình. Thời chiến, mọi vấn đề thuộc về cá nhân phải tạm gạt bỏ,
mọi nỗi đau phải nén lại để lấy tinh thần đánh giặc nhưng thời bình văn chương không thể không
quan tâm đến số phận cá nhân, không thể không thâm nhập đến tận cùng những góc tối, góc
khuất của con người và cuộc đời. Bởi có như vậy mới khơi dậy được ở con người những tình
cảm nhân văn và mới làm nên sự sống của nghệ thuật.

×