Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.92 KB, 4 trang )

I/ LỜI MỞ ĐẦU
Là doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân ( DNTN ) có đầy đủ các đặc điểm của
một doanh nghiệp nói chung. Ngoài ra, DNTN còn có những đặc điểm pháp lí của
DNTN, trong phạm vi bài này ta đi sâu tìm hiểu đặc điểm pháp lí thứ nhất : DNTN
là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ.
II/ NỘI DUNG
1. Doanh nghiệp tư nhân là gì ?
Để hiểu được khái niệm DNTN là gì, trước hết cần phải hiểu doanh nghiệp là
gì. Theo khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005 : “ Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh ”.
Điều 141 Luật doanh nghiệp 2005 : “ DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân
làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của
doanh nghiệp, DNTN không được phát hành bất kì một loại chứng khoán nào, mỗi
cá nhân chỉ được quyền thành lập một DNTN ”.
Ở Việt Nam đầu những năm 90 của thế kỷ XX, hình thức DNTN đã được
pháp luật thừa nhận.
2. Đặc điểm một chủ sở hữu của doanh nghiệp tư nhân
Vì DNTN có một chủ sở hữu, do vậy xét trong nội hàm tổ chức, DNTN có
những nét đặc trưng sau :
2.1. Về quan hệ sở hữu vốn trong doanh nghiệp
Toàn bộ nguồn vốn ban đầu ( tiền, tài sản ) của doanh nghiệp do một cá nhân
làm chủ, vốn thuộc sở hữu của cá nhân đó, vốn có thể bằng tiền Việt, ngoại tệ
chuyển đổi, tài sản hiện vật có thể là nhà cửa, đất đai… Phần vốn này sẽ do chủ
doanh nghiệp tự khai báo với cơ quan đăng kí kinh doanh ( gọi là vốn đầu tư của chủ
DNTN ) và được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán của doanh nghiệp. Nhưng trên thực
tế, hầu như không có giới hạn nào giữa phần vốn và tài sản đưa vào kinh doanh của
1
DNTN và phần tài sản còn lại thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp. Ranh giới giữa
phần tài sản, vốn đưa vào kinh doanh và phần tài sản còn lại của chủ doanh nghiệp
chỉ tồn tại một cách tạm thời.


Từ những phân tích trên, có thể đưa ra một số nhận xét sau:
- Nguồn vốn của DNTN chỉ tồn tại trên “ danh nghĩa ” hoạt động của DNTN.
Trong quá trình kinh doanh chủ DNTN có thể đưa thêm một số vốn nhất định trong
khối tài sản thuộc sở hữu cá nhân mình vào nguồn vốn của DNTN.
- Nguồn vốn của doanh nghiệp chủ yếu xuất phát từ tài sản của một cá nhân
duy nhất nên nguồn vốn hoạt động của đa số DNTN ở nước ta hiện nay khá thấp vì
vậy các DNTN phần lớn là nhỏ, tính liên kết thấp và do vậy không tận dụng được
những lợi thế theo quy tắc hiệu quả vì quy mô và trình độ công nghệ thường thấp
hơn do mức độ vốn thấp.
2.2 Quan hệ sở hữu quyết định quản lí
DNTN chỉ có một chủ đầu tư duy nhất vì vậy cá nhân duy nhất này có quyền
quyết định mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Chủ
DNTN có quyền trực tiếp quản lí, điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
hoặc thuê người quản lí, điều hành doanh nghiệp. Chủ DNTN là người đại diện theo
pháp luật của DNTN. Trong trường hợp thuê người quản lí chủ doanh nghiệp vẫn là
người phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Giới hạn trách nhiệm được phân giữa chủ doanh nghiệp và người được thuê
quản lí thông qua một hợp đồng.
Qua tìm hiểu một số DNTN ở Viêt Nam hiện nay, có thể đưa ra một số
nhận xét sau: phần nhiều DNTN chưa có điều kiện để hiện đại hóa về mặt quản trị.
Tính minh bạch trong quản lý và điều hành rất yếu. Chỉ có chủ doanh nghiệp hoặc
một vài nhân sự chủ chốt nhất nắm được thông tin “ thật ” của doanh nghiệp. Điều
này đem lại nhiều vấn đề đau đầu :
2
- Thông tin bị nhiễu khiến ngay cả những người ra quyết định cũng không
thực sự nắm bắt hết được toàn cảnh.
- Nhân sự cấp dưới hầu như chỉ thụ động làm việc theo chỉ đạo của cấp trên.
- Nhà đầu tư không muốn tham gia đầu tư vì các rủi ro không xác định được
từ việc thiếu minh bạch.
2.3 Về phân phối lợi nhuận

Toàn bộ lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của DNTN thuộc về một
mình chủ doanh nghiệp sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước và bên
thứ ba.
Việc một cá nhân duy nhất có quyền hưởng lợi nhuận cũng có nghĩa là cá
nhân duy nhất đó sẽ có nghĩa vụ chịu mọi rủi trong kinh doanh mà không thể yêu
cầu người khác gánh đỡ những rủi ro này. Đây là một điểm hạn chế lớn, là nguyên
nhân khiến cho không ít nhà đầu tư không muốn kinh doanh dưới hình thức DNTN.
3. Một số ưu điểm của DNTN
Xuất phát từ đặc điểm một chủ sở hữu, DNTN có những nhược điểm được
trình bày ở trên, ngoài ra DNTN còn có một số ưu điểm sau : DNTN tuy vốn ít
nhưng lại rất năng động và biết chớp thời cơ, xoay chuyển tình huống nhanh. Số
lượng nhân sự giỏi nằm trong các DNTN cũng rất nhiều, thể hiện ở thực trạng chất
xám chảy từ khối doanh nghiệp Nhà nước sang tư nhân đang ngày càng phổ biến. Ở
DNTN, nếu mọi người không chịu vận động để làm ăn sinh lãi thì tất cả cùng “ chết
”. Ở Việt Nam, điển hình cho sự thành công trong hoạt động của DNTN đó là hai
doanh nghiệp sản xuất ô tô lớn nhất Việt Nam hiện nay là Công ty cổ phần ô tô
Xuân Kiên ( Vinaxuki ) và Công ty cổ phần ô tô Trường Hải ( Thaco ).
III/ KẾT LUẬN
Kể từ khi thực hiện luật doanh nghiệp, khu vực doanh nghiệp tư nhân của Việt
Nam đã có những bước phát triển ngoạn mục, mặc dù còn nhiều điểm yếu trong hoạt
động nhưng hy vọng rằng với những chủ trương, chính sách của đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI trong công cuộc đổi mới đất nước tới năm 2020, khu vực doanh
nghiệp tư nhân sẽ trở thành đầu tàu phát triển của Việt Nam.
3


4

×