BÀI TẬP NHÓM SỐ 2 MÔN PHÁP LUẬT CỘNG ĐỒNG ASEAN
LỜI MỞ ĐẦU
I/ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA :
Tự do thương mại hay thương mại tự do là một kiểu thị trường lý tưởng,
thường được xem như là một mục tiêu chính trị, mà sự trao đổi hàng
hóa và dịch vụ giữa các nước được thực hiện không có sự kiểm soát bằng
những chính sách nhập khẩu.
Tự do thương mại về hàng hóa là một trong những nội dung của thương mại tự
do. Tự do hóa thương mại hàng hóa là quá trình xóa bỏ các biện pháp thuế quan
và phi thuế quan (tiền trợ cấp, quy định, hay luật…) mà các quốc gia sử dụng để
bảo hộ nền sản xuất hàng hóa trong nước.
Từ những thập niên 90, sau khi các nước ASEAN và các nước Đông
Dương không còn đối đầu xung quanh vấn đề Campuchia thì xu hướng tại các
nước ASEAN dần chuyển từ bảo hộ mậu dịch sang bảo hộ tự do. Khi đó các
hoạt động thương mại không còn thuần tuý được điều tiết bởi quan hệ cung cầu
trên thị trường quốc tế, mà còn chịu sự điều chỉnh của các chính sách của các
chính phủ. Như vậy tự do hoá thương mại chính là loại bỏ các biện pháp hạn
1
BÀI TẬP NHÓM SỐ 2 MÔN PHÁP LUẬT CỘNG ĐỒNG ASEAN
chế hay bảo hộ thương mại của các chính phủ. Nghĩa là sẽ giảm bớt việc sử
dụng các biện pháp như sử dụng thuế quan, đặt ra các tiêu chuẩn để bảo vệ
ngành sản xuất trong nước mà tăng cường bảo hộ tự do, dần dần dỡ bỏ các rào
cản thương mại và tiến hành các hoạt động thuận lợi hoá thương mại.
Sự tự do thương mại về hàng hóa là một trong những nội dung của thương mại
tự do.
II. NỘI DUNG VỀ TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA
1/ Các biện pháp thực hiện tự do hoá thương mại hàng hoá:
a. Dỡ bỏ các rào cản thương mại:
Với thương mại hàng hoá, có hai rào cản chính: Đó là thuế quan và các biện
pháp phi thuế quan.
- Thuế quan được hiểu là khoản thu của nhà nước đánh vào hàng hóa khi
hàng hóa đó di chuyển từ lãnh thổ hải quan này sang lãnh thổ hải quan
khác, có thể nhằm mục đích khác như ngăn chặn hàng nhập khẩu và bảo
vệ hàng hóa trong nước, trả đũa một quốc gia khác,... Tự do hóa thuế
quan được hiểu là quá trình thực hiện cắt giảm và xóa bỏ thuế quan của
các quốc gia.
- Các biện pháp phi thuế quan: Các biện pháp phi thuế quan là các biện
pháp ngoài thuế ảnh hưởng đến mức độ và hướng của các dòng hàng hóa
xuất nhập khẩu. Nếu thuế quan là biện pháp có tính chất kinh tế thì các
biện pháp phi thuế quan lại là các biện pháp hành chính, pháp lý, do đó có
tác động tiêu cực nhiều hơn đối với thương mại hàng hóa. Các biện pháp
phi thuế quan có thể kể đến: hạn chế định lượng (quota), cấp phép, định
giá hải quan, quy định về xuất xứ, kiểm tra hàng hóa trước khi xuống tàu,
các quy định về kỹ thuật, vệ sinh, nhãn mác, trợ cấp, chống bán phá giá…
b. Tiến hành các hoạt động thuận lợi hoá thương mại:
Bằng việc xây dựng và thực hiện các hoạt động, biện pháp, chính sách và
chương trình nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi, nhất quán, minh bạch và có
2
BÀI TẬP NHÓM SỐ 2 MÔN PHÁP LUẬT CỘNG ĐỒNG ASEAN
thể dự đoán được đối với trao đổi thương mại hàng hoá giữa các quốc gia thành
viên
2/ Công cụ pháp lý thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa
Kể từ năm 1992, Asean liên tục ban hành các văn bản pháp lý nhằm thúc đẩy
tiến trình tự do hóa thương mại trong AFTA. Cơ sở pháp lý của AFTA bao
gồm các văn bản sau:
- Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế Asean ký ngày 28/1/1992
tại Hội nghị cấp cao Asean lần thứ IV tại Singapore. Đây là hiệp định đầu
tiên và là hiệp định thành lập AFTA.
- Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung cho AFTA
(CEPT) ký ngày 28/1/1992.
- Các nghị định thư sửa đổi và bổ sung hai hiệp định trên.
- Hiệp định khung về hội nhập các ngành ưu tiên (APIS) ký ngày 29/11/2004
tại Viêng chăn, Lào.
- Hiệp định về thương mại hàng hóa Asean (ATIGA) ký ngày 26/2/2009 tại
Cha-am, Thái Lan.
3/ Phương thức tự do hoá thương mại hàng hóa.
Việc thực hiện tự do hóa thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hàng
hóa nói riêng là cả một quá trình, cần qua nhiều giai đoạn, do việc tự do hóa
thương mại sẽ gỡ bỏ những rào cản mà vốn là công cụ bảo hộ các ngành sản
xuất trong nước của quốc gia thành viên. Và vì vậy, để thực hiện tự do hóa
thương mại một cách hiệu quả, AEC thực hiện các công việc như sau:
• Thứ nhất, xây dựng một chương trình khung làm cơ sở pháp lí chung để
điều chỉnh quá trình tự do hóa thương mại. Chương trình khung để thực
hiện tự do hóa thương mại hàng hóa của AEC hiên nay là Hiệp định về
thương mại hàng hóa ASEAN 2009 (ATIGA). Đây là hiệp định toàn diện
3
BÀI TẬP NHÓM SỐ 2 MÔN PHÁP LUẬT CỘNG ĐỒNG ASEAN
đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ thương mại hàng hoá trong nội
khối và được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết đã được thống
nhất trong Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
cho AFTA 1992 (CEPT) cùng các hiệp định, nghị định thư có liên quan.
CEPT xây dưng chương trình cắt giảm và xóa bỏ thuế quan được tiến
hành trong vòng 10 năm nhằm giảm thuế quan trong nội bộ khối xuống
còn 0-5%, kể từ ngày 1/1/1993 đến ngày 1/1/2003, theo đó hàng hóa
được phân chia thành 4 danh mục cắt giảm thuế quan khác nhau với các
lộ trình cắt giảm và xóa bỏ thuế quan tương ứng. Linh hoạt hơn CEPT,
ATIGA quy định rõ số dòng thuế được lùi thời hạn xoá bỏ thuế quan đến
năm 2018 với nhóm 4 nước Campuchia, Lào, Mianma, Việt Nam
(CLMV), đồng thời, cho phép tạm ngừng hoặc điều chỉnh cam kết thực
hiện nghĩa vụ cắt giảm, xoá bỏ thuế quan giữa các nước trong khối
Asean. Ngoài mục tiêu xóa bỏ hàng rào thuế quan, ATIGA hướng nỗ lực
chung của ASEAN để xử lý tối đa các hàng rào phi thuế quan, hợp tác hải
quan và vệ sinh, kiểm dịch..v.v, đồng thời xác lập mục tiêu hài hòa chính
sách giữa các thành viên ASEAN trong bối cảnh xây dựng AEC.
• Thứ hai, trên cơ sở chương trình khung nói trên, từng quốc gia thành viên
của AEC sẽ xây dựng chương trình riêng của mình và được tổ chức chấp
thuận. Chương trình đó có thể bao gồm việc điều chỉnh các chính sách
kinh tế, pháp luật trong nước, xây dựng lộ trình cụ thể về cắt giảm thuế
quan… để phù hợp với lộ trình chung hay đáp ứng các cam kết, ràng
buộc với tổ chức…
• Thứ ba, việc tự do hóa thương mại hàng hóa còn được thúc đẩy thông qua
kết quả các vòng đàm phán.Cụ thể, ngoài các cuộc đàm phán nội khối
giúp cho việc hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), các
quốc gia ASEAN còn tiến hành đàm phán và ký kết, triển khai thực hiện
nhiều Hiệp định thương mại tự do với các quốc gia như: Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc…
4
BÀI TẬP NHÓM SỐ 2 MÔN PHÁP LUẬT CỘNG ĐỒNG ASEAN
III. SO SÁNH VỀ PHẠM VI VÀ MỨC ĐỘ TỰ DO HÓA TRONG AEC
VÀ WTO.
1. Phạm vi tự do hóa thương mại
a/ Điểm giống nhau:
Cả WTO và AEC đều áp dụng các biện pháp tăng cường tự do hóa thương mại
hàng hóa gồm: cắt giảm thuế quan, phi thuế quan.
b/ Điểm khác nhau:
So với WTO thì các biện pháp mà AEC áp dụng rộng hơn. Cụ thể theo CEPT và
ATIGA thì ngoài một số biện pháp được áp dụng nhằm thúc đẩy tự do hóa
thương mại hàng hóa trong khuôn khổ WTO thì AEC còn áp dụng các biện
pháp hạn chế bảo hộ thương mại bằng các biện pháp phi thuế quan :
- Dỡ bỏ chung các hạn chế về số lượng (quy định tại Điều 41 ATIGA);
- Xóa bỏ các biện pháp phi thuế quan khác. Việc xóa bỏ các biện pháp phi thuế
quan khác được thực hiện theo một trình tự cụ thể;
- Quy định về xuất xứ hàng hóa.
Ngoài ra, bên cạch việc xóa bỏ rào cản thuế quan, phi thuế quan AEC còn áp
dụng các hoạt động thuận lợi hóa thương mại bao gồm:
- Thủ tục hải quan;
- Tiêu chuẩn, quy định, kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự phù hợ
2/ Về mức độ tự do hoá thương mại:
a/ Điểm giống nhau
Do những tác động hạn chế tự do thương mại hàng hóa của các biện pháp
thuế quan và phi thuế quan nên cả AEC và WTO đều có xu hướng cắt giảm thuế
quan, thậm chí tiến tới xóa bỏ thuế quan, và các hàng rào phi thuế quan.
5