Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

luận văn full pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở việt nam thực trạng và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 123 trang )



1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




KHUẤT VĂN TRUNG



PHÁP LUẬT VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC,
THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI Ở VIỆT NAM –
THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Hà Nội – 2012



2




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


KHUẤT VĂN TRUNG

PHÁP LUẬT VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC,
THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI Ở VIỆT NAM –
THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN



Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Hoài Thu




Hà Nội – 2012


3

MỤC LỤC


LỜI CẢM ƠN
LỜI MỞ ĐẦU 7
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC, THỜI
GIỜ NGHỈ NGƠI VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỜI
GIỜ LÀM VIỆC, THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI 11
1.1. Khái quát chung về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi 11
1.1.1. Khái niệm thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi 11
1.1.2. Sự cần thiết phải có pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi 13
1.1.3. Ý nghĩa của việc điều chỉnh pháp luật đối với thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi 16
1.2. Sự điều chỉnh của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi 20
1.2.1. Các nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật về thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi 20
1.2.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi 22
1.3. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi 25
1.3.1. Trên thế giới 25
1.3.2. Ở Việt Nam 28
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC,
THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI 35
2.1. Thực trạng pháp luật về thời giờ làm việc 35
2.1.1. Thời giờ làm việc tiêu chuẩn 35
2.1.2. Thời giờ làm việc rút ngắn. 38
2.1.3. Thời giờ làm thêm 39
2.1.4. Thời giờ làm việc ban đêm 43



4
2.1.5. Thời giờ làm việc linh hoạt 45
2.2. Thực trạng pháp luật về thời giờ nghỉ ngơi 46
2.2.1. Thời giờ nghỉ có hưởng lương 46
2.2.2. Thời giờ nghỉ không hưởng lương 54
2.3. Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với những người làm công việc
có tính chất đặc biệt 57
2.3.1. Đối với các đối tượng là những người lao động làm công việc bức
xạ, hạt nhân 58
2.3.2. Đối với người lao động làm việc trong các trang trại 59
2.3.3. Đối với người lao động làm các công việc có tính thời vụ và gia
công hàng xuất khẩu theo đơn đặt hàng 60
2.3.4. Các đối tượng đặc biệt khác 62
2.4. Một số nhận xét về thực trạng áp dụng pháp luật về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi 72
2.4.1. Thực trạng pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi 72
2.4.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi 75
2.4.2.1. Trong các cơ quan, đơn vị thuộc Nhà nước 75
2.4.2.2. Đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế 79
CHƢƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC,
THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI 86
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi 86
3.1.1. Về mặt kinh tế - xã hội 86
3.1.2. Về chính trị 87
3.1.3. Về mặt pháp lý 89
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi 92
3.2.1. Tăng cường tính hoàn thiện của các quy định về thời giờ làm việc,

thời giờ nghỉ ngơi 92
3.2.2. Tăng cường đảm bảo việc thực thi các quy định pháp luật về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi 93


5
3.2.3. Tăng cường ý thức chấp hành tốt các quy định về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi 95
3.2.4. Tăng cường hợp tác quốc tế về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
97
3.3. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi 99
3.3.1. Về các quy định của pháp luật 99
3.3.2. Về quá trình tổ chức thực hiện 104
KẾT LUẬN 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO





6



7
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, nó không chỉ tạo ra

của cải vật chất nuôi sống con người, cải tạo xã hội mà nó còn mang lại những giá
trị tinh thần làm phong phú thêm cho đời sống con người. Tuy nhiên, để các sản
phẩm của lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao không phải là chuyện
dễ dàng. Sức lao động của con người không phải là vô tận, mà nó sẽ cạn kiệt nếu
không được kịp thời phục hồi. Vì thế, việc quy định một thời giờ làm việc hợp lý,
thời giờ nghỉ ngơi thích hợp sẽ có ý nghĩa rất quan trọng đối với chất lượng lao
động.
Quyền lao động và nghỉ ngơi là các quyền cơ bản củangười lao động được
các nước trên thế giới coi trọng. Ở Việt Nam, ngay sau khi dành được độc lập, Đảng
và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến quyền lợi của người lao động. Điều này được
thể hiện trong các bản Hiến pháp, Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi
hành.Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là một trong những quy định
quan trọng của pháp luật lao động, vì nó liên quan thiết thực đến đời sống và việc
làm của người lao động. Tuy nhiên, hiện nay, tình trạng vi phạm trong lĩnh vực này
ngày càng nhiều và phổ biến, các vi phạm về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
chủ yếu là vi phạm trong việc tăng thời giờ làm việc tiêu chuẩn, tăng số giờ làm
thêm vượt quá mức cho phép, giảm và cắt bớt thời gian nghỉ ngơi của người lao
động v.v.Các hành vi vi phạm về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi chủyếu tập
trung ở các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động như các doanh nghiệp may mặc,
thủy sản, da giày v.v. Các vi phạm này không những xâm hại nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe của người lao động mà còn tác động tới gia đình và một phần tới xã
hội nói chung. Theo thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thì từ năm
1995 đến năm 2006 trong cả nước đã xảy ra 1.250 cuộc đình công [42]; trong đó,
khu vực doanh nghiệp nhà nước xảy ra 67 cuộc, chiếm 7%; khu vực doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài xảy ra 838 cuộc, chiếm 67%; khu vực doanh nghiệp
ngoài quốc doanh trong nướcxảy ra 325 cuộc, chiếm 26%. Chỉ tính riêng năm 2009,


8
cả nước đã diễn ra 216 cuộc đình công, hầu hêt diễn ra tại các doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài với 157 cuộc, chiếm 72,6% [42]. Một trong những lý do chính
dẫn tới các cuộc đình công nói trên là việc người lao động bị yêu cầu làm việc tăng
ca, bị cắt bớt thời giờ nghỉ ngơi.
Từ thực tế nêu trên, để hạn chế và đẩy lùi các vi phạm pháp luật về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, làm giảm các cuộc đình công của người lao động và
nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi hợp pháp của người lao động, vấn đề đặt ra là phải
nghiên cứu sâu sắc các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại Việt
Nam, từ đó thấy được thực trạng và nguyên nhân của các hành vi vi phạm pháp luật
về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy
định đó. Vì những lý do đó, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi ở Việt Nam - Thực trạng và một số kiến nghị” làm luận văn thạc sĩ
của mình với mong muốn góp phần làm hoàn thiện thêm các quy định về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và đưa ra một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt các quy
định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi trên thực tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là một trong những quy
định quan trọng của pháp luật lao động, vì nó liên quan thiết thực đến đời sống và
việc làm của người lao động. Tuy nhiên, hiện nay, tình trạng vi phạm trong lĩnh vực
này ngày càng nhiều và phổ biến. Trong thời gian vừa qua, đã có một số đề tài,
công trình nghiên cứu về các quy định của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi như: Đặng Xuân Lợi (2000), Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi theo
Bộ luật lao động Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa luật – Đại học Quốc Gia Hà
Nội0; Nguyễn Thị Thanh (2010), Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,
thực trạng và một số kiến nghị, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội; Đỗ Thị
Hằng (2009), Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi - Quy định pháp luật và thực
tiễn thực hiện ở một số doanh nghiệp tại tỉnh Bắc Giang, Khóa luận tốt nghiệp, Đại
học Luật Hà Nội; và một số bài báo đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý….
Các công trình, bài viết và bài nghiên cứu trên mới chỉ đi sâu nghiên cứu các
quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi áp dụng cho một số đối
tượng lao động đặc biệt như lao động chưa thành niên, lao động nữ, người cao tuổi



9
hoặc chỉ tập trung vào liệt kê một phần nào đó các quy định cơ bản của pháp luật về
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, các hành vi vi phạm pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơimà không đề cập đến tổng thể các quy định pháp luật về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, thực trạng; đồng thời thiếu sự so sánh đối chiếu với
các quy định của pháp luật nước ngoài để từ đó có thể đưa ra một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ về vấn đề: “Pháp
luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở Việt Nam - Thực trạng và một số kiến
nghị” là việc làm mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Luận văn sẽ đi phân tích và làm sáng tỏ về mặt lý luận những quy định pháp
luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại Việt Nam và so sánh đối chiếu với
các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của một sốnước trong khu vực
và trên thế giới. Nêu ra thực trạng việc áp dụng pháp luật về thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi trên thực tế tại các doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốcmà chủ yếu
là các thành phố lớn, tập trung đông các doanh nghiệp và khu công nghiệp như Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh v.v và một số hạn chế, tồn tại trong các quy định hiện
hành của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Trên cơ sở đó, đề xuất
một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động.
Mục đích nghiên cứu của luận văn được cụ thể hóa ở những nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
- Khái quát chung về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
- Làm rõ thực trạng pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở Việt Nam.
- Đánh giá những ưu điển, nhược điểm của pháp luật về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi và việc thực hiện các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi ở Việt Nam.

- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi ở Việt Nam.


10
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi theo quy định của pháp luật hiện hành và các
quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi trong Dự thảo Bộ luật Lao động
đang được Quốc hội nước ta xem xét thông qua vàCác quy định cụ thể của pháp
luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi trong mối quan hệ so sánh với các quy
định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của các nước trong khu vực và trên thế
giới. Trên cơ sở đó, kết hợp với việc tham khảo tổng hợp thực trạng thực hiện các
quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi trên thực tế. Từ đó bước
đầu đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu về vấn đề này, Tác giả đã vận dụng những phương
pháp của chủ nghĩa Mác- Lênin như phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp
duy vật lịch sử, tư tương Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam về phát triển lực lượng lao động ở Việt Nam trong giai đoạn mới.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp diễn
giải và quy nạp.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 03 chương,cụ
thể như sau:
Chương 1: Khái quát chung về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và sự
điều chỉnh của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi

Chương 2: Thực trạng pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi


11

CHƢƠNG 1.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC, THỜI GIỜ
NGHỈ NGƠI VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỜI GIỜ LÀM
VIỆC, THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI

1.1. Khái quát chung về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
1.1.1. Khái niệm thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Trong quan hệ lao động, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi là hai khái niệm khác
nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một chế định độc lập và
không thể tách rời trong luật lao động. Trên thực tế, không có ai chỉ làm việc mà
không nghỉ ngơi và ngược lại, với những người không làm việc thì vấn đề nghỉ ngơi
cũng không đặt ra, nhất là trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của nền kinh tế, sự cạnh tranh khốc liệt của con người càng làm cho người lao động
làm việc với cường độ cao hơn. Do vậy nhu cầu làm việc và nghỉ ngơi ngày càng
trở nên cấp bách hơn.
Trong khoa học kinh tế - lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được
xem xét chủ yếu dưới góc độ của việc tổ chức quá trình lao động. Theo đó, thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi phải được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với năng suất,
chất lượng và hiệu quả lao động với mục tiêu: sử dụng ít nhất thời gian làm việc mà
vẫn đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Dưới góc độ này, thời giờ làm việc chính là
khoảng thời gian cần và đủ để năng suất lao động hoàn thành, thời giờ nghỉ ngơi là
khoảng thời gian cần thiết để người lao động tái sản xuất lại sức lao động đã hao phí
nhằm đảm bảo quá trình lao động diễn ra liên tục.
Dưới góc độ pháp lý, thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi được biểu hiện
dưới dạng quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật lao động.

Quan hệ này thể hiện sự ràng buộc trách nhiệm giữa người lao động và người sử
dụng lao động. Khi tham gia quan hệ này, người lao động phải trực tiếp hoàn thành
nghĩa vụ lao động của mình, phải tuân thủ những quy định nội bộ và có quyền được
hưởng những thành quả trong khoảng thời gian đó. Ngoài thời giờ làm việc là thời


12
giờ nghỉ ngơi, người lao động được tự do sử dụng khoảng thời gian đó theo ý muốn
của bản thân mình.
Như vậy, về mặt pháp lý có thể hiểu thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
như sau:
Thời giờ làm việc: là khoảng thời gian do pháp luật quy định hoặc do sự
thỏa thuận của các bên, trong thời gian đó người lao động phải có mặt tại địa điểm
để thực hiện những công việc, nhiệm vụ được giao phù hợp với các quy định của
pháp luật và sự thỏa thuận trong hợp đồng lao động.
Thời giờ nghỉ ngơi: là khoảng thời gian trong đó người lao động không phải
thực hiện những nghĩa vụ lao động và có quyền sử dụng thời gian đó theo ý muốn
của mình.
Trong khoa học luật lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Nó được coi là một trong những nguyên
tắc cần đảm bảo của luật lao động, hoặc một định mức lao động, hoặc một nội dung
của quan hệ pháp luật lao động, một chế định của luật lao động.
Với tư cách là một nguyên tắc cơ bản của luật lao động, thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi được coi là quyền và nghĩa vụ cơ bản của người lao động và
người sử dụng lao động mà các quy phạm pháp luật lao động cần phản ánh rõ tư
tưởng đó.
Nếu xem thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi với tư cách là một định mức
lao động thì chúng ta hiểu là một quỹ thời gian cần thiết cho người lao động để
hoàn thành công việc được giao và kịp thời tái tạo sức lao động cho quá trình lao
động.

Nếu xem thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là một nội dung của quan hệ
pháp luật lao động thì trong thời gian làm việc, người lao động phải có mặt tại địa
điểm làm việc và thực hiện nhiệm vụ được giao như đã thỏa thuận trong hợp đồng
lao động. Ngoài thời gian đó, người lao động được toàn quyền sử dụng thời gian
nghỉ ngơi theo ý muốn của mình.


13
Là một chế định pháp luật, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi bao gồm
tổng thể các quy định pháp luật quy định về thời gian người lao động phảỉ làm việc,
phải thực hiện nhiệm vụ được giao và những khoảng thời gian cần thiết để người
lao động được nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe và tái sản xuất sức lao động của mình.
Tóm lại, dù thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi có được nghiên cứu dưới
góc độ gì đi nữa thì mục đích chính của việc nghiên cứu đó cũng là để tìm ra một
thời giờ làm việc hợp lý, một thời gian nghỉ ngơi thích hợp nhằm tăng năng suất lao
động đồng thời bảo vệ sức khỏe cho người lao động.
1.1.2. Sự cần thiết phải có pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi
Năm 1986, Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam chủ trương chuyển
hướng phát triển kinh tế. Từ đó, quan hệ lao động và vị thế người lao động trong
quan hệ đó bắt đầu có sự thay đổi. Trước đây người lao động chủ yếu tham gia quan
hệ lao động trong khu vực Nhà nước. Khi phát triển kinh tế thị trường, họ có thể
được sử dụng trong tất cả các thành phần kinh tế. Trong cơ chế quản lý kinh tế tập
trung, pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đã được đưa vào nội dung
của luật lao động. Trong cơ chế kinh tế thị trường, pháp luật về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi ngoài những lý do truyền thống còn có lý do khác do cơ chế thị
trường mang đến.
1.1.2.1. Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi xuất phát từ yêu
cầu bảo vệ người lao động trong lĩnh vực lao động
Bảo vệ người lao động là nguyên tắc quan trọng nhất của pháp luật lao động.

ngay từ những năm đầu phát triển kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã xác
định động lực và mục tiêu chính của sự phát triển là “Vì con người, phát huy nhân
tố con người, trước hết là người lao động”. Tuy nhiên, trên thực tế người lao động
thường có vị thế bất bình đẳng so với người sử dụng lao động. Như chúng ta đã
biết, quan hệ lao động là quan hệ đặc biệt hướng tới đối tượng là con người và hoạt
động mua bán hàng hóa sức lao động, trong đó, người lao động luôn là bên yếu thế
hơn so với người sử dụng lao động. Về phương diện kinh tế, người sử dụng lao
động là người bỏ vốn, đầu tư cơ sở vật chất cho hoạt động kinh doanh, quyết định


14
về công nghệ, quy mô hoạt động…nên họ hoàn toàn chủ động về kế hoạch việc
làm, phân phối lợi nhuận cũng như sắp xếp, phân bổ thời gian làm việc, nghỉ ngơi
cho người lao động. Do vậy, về mặt pháp lý, người sử dụng lao động “có quyền
tuyển chọn lao động, bố trí, điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh”
(Điều 8 BLLĐ). Như vậy ở một mức độ nhất định, người lao động bị phụ thuộc vào
người sử dụng lao động về phương diện kinh tế cũng như về mặt pháp lý. Sự phụ
thuộc này vừa là bản chất cố hữu, vừa là đặc điểm riêng của quan hệ lao động,
không phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế hay chế độ chính trị trong mỗi quốc
gia. Đây không những là lý do chính để pháp luật lao động của các nước không chỉ
điều chỉnh thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi mà còn là căn cứ xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người lao động.
Bên cạnh đó, khi thiết lập quan hệ lao động, người lao động hướng tới tiền
lương, thu nhập, còn người sử dụng lao động hướng tới việc thu được lợi nhuận cao.
Trong khi đó, năng suất lao động của người lao động chủ yếu phụ thuộc vào tiền
lương, thu nhập của họ (đây là yếu tố quan trọng thúc đẩy năng suất lao động tăng
cao). Khi năng suất lao động của người lao động tăng cao thì người sử dụng lao
động cũng thu được lợi nhuận nhiều hơn. Điều đó cũng có nghĩa là để tiền lương và
thu nhập cao, người lao động sẽ bất chấp tính mạng, sức khỏe của mình làm thêm

giờ, làm ban đêm…Còn người sử dụng lao động vì mục đích tối đa hóa lợi nhuận,
họ có xu hướng tận dụng triệt để các biện pháp, các quy định pháp luật, các lợi thế
để khai thác sức lao động của người lao động trong đó có việc kéo dài thời gian làm
việc của người lao động.
Như vậy, từ các lý do trên, cần có sự điều chỉnh của pháp luật về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi để bảo vệ người lao động, tránh sự lạm dụng sức lao
động từ phía người sử dụng lao động.
1.1.2.2.Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi xuất phát từ sự tác
động của nền kinh tế thị trường
Khi nhận xét về kinh tế thị trường, người ta thường nói về tính hai mặt của
nó. Đó là những tác động tích cực không thể phủ nhận đối với sự phát triển kinh tế


15
và các tác động tiêu cực không thể không có đến đời sống mỗi quốc gia. Mặt tiêu
cực này thể hiện rất rõ trong quan hệ lao động vì bản thân lĩnh vực này vừa chứa
đựng các yếu tố kinh tế, vừa thể hiện các vấn đề xã hội sâu sắc. Mặt khác, sức lao
động còn được coi là một loại hàng hóa đặc biệt, không tách rời với bản thân người
lao động. Khi sức lao động của người lao động bị lạm dụng thì các quy định pháp
luật trở thành các chế tài bảo vệ người lao động tránh khỏi những tác động tiêu cực
của nền kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực lao động, kinh tế thị trường đã mở ra điều kiện thuận lợi để
phát huy các nguồn lực, tạo nhiều việc làm cho người lao động đồng thời thúc đẩy
năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Điều đó đã tạo ra một nền kinh tế đa
dạng, năng động, có tốc độ phát triển cao. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu linh hoạt
của thị trường, các nhà kinh doanh (người sử dụng lao động) thường xuyên phải hay
đổi kế hoạch, quy mô sản xuất…Đặc biệt khi mục đích cao nhất là lợi nhuận, người
sử dụng lao động thường có xu hướng kéo dài thời gian làm việc, giảm thời giờ
nghỉ ngơi. Điều đó không những ảnh hưởng tới sức khỏe, tới khả năng tái sản xuất
sức lao động mà còn ảnh hưởng đến các nhu cầu khác trong đời sống, ảnh hưởng

đến khả năng phát triển toàn diện của người lao động. Vì vậy, các quy định về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đã trở thành một trong những nội dung cơ bản trong
luật lao động ở các quốc gia, để sử dụng sức lao động hợp lý, làm cơ sở bảo vệ
người lao động trong những trường hợp cần thiết.
1.1.2.3. Pháp luật thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi xuất phát từ bản chất
nhà nước pháp quyền XHCN mà nước ta đang xây dựng
Trong nhiều văn kiện quan trọng, Đảng và Nhà nước ta khẳng định chủ
trương “phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa” [13]. Về mặt lý thuyết kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) được xác định với mục tiêu: “Thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến
lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, kỉ cương, xóa
bỏ áp lực, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc”
[15]. Tư tưởng của Nhà nước XHCN coi mục tiêu và động lực của sự phát triển là
“con người, phát huy nhân tố con người, trước hết là người lao động”. Về phân


16
phối trong nền kinh tế nói chung và trong quan hệ lao động nói riêng phải “lấy phân
phối theo kết quả lao động là chủ yếu kết hợp với hình thức phân phối khác như
phân phối theo vốn và tài sản”. Đó là cách thức phân phối thúc đẩy tăng cường kinh
tế đi đôi với đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên, kinh tế thị trường tự nó không
giải quyết các vấn đề xã hội một cách tổng thể, không đương nhiên đạt đến tiến bộ
xã hội trong lĩnh vực lao động mà không có sự can thiệp của Nhà nước bằng pháp
luật.
Thực tế cho thấy, Việt Nam chưa có kinh nghiệm quản lý kinh tế thị trường.
Hầu hết, người sử dụng lao động chưa nhận thức đầy đủ về người lao động trong
chiến lược đầu tư lâu dài. Phần lớn giới người sử dụng lao động ở Việt Nam là
những người làm ăn nhỏ, vốn ít, cần phải tranh thủ những cơ hội trước mặt. Nhiều
đơn vị tồn tại là nhờ những khoảng trống của cơ chế quản lý lợi dụng điều kiện
cung cầu mất cân đối, lợi dụng sự không hiểu biếu của người lao động đang tìm

việc mà giảm tiền lương, tăng thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Thêm nữa là
nhận thức về trình độ tổ chức tự thân của hai giới chủ, thợ còn thấp. Vì vậy, việc lựa
chọn kinh tế thị trường định hướng XHCN với những chỉ tiêu trên là hướng phát
triển phù hợp. Để đạt được mục tiêu đề ra, Nhà nước phải bằng pháp luật lao động
để bảo vệ người lao động. Có nghĩa là định hướng XHCN phải trên cơ sở luật pháp,
với tư cách là công cụ của Nhà nước pháp quyền. Các quyền và lợi ích của người
lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi phải được pháp luật hóa, đảm bảo
thực hiện trên các cơ sở của pháp luật
1.1.3. Ý nghĩa của việc điều chỉnh pháp luật đối với thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi
Quyền làm việc và quyền nghỉ ngơi là một trong những quyền rất cơ bản của
con người, trước hết là người lao động trong quan hệ lao động, phải được pháp luật
can thiệp, bảo vệ. Hiến pháp của các nước đều ghi nhận điều này trong đó có Hiến
pháp của nước ta. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp quốc năm 1948 cũng nghi
nhận quyền đó. Pháp luật lao động của các quốc gia quy định về thời giờ làm việc
và thời giờ nghỉ ngơi, tạo hành lang pháp lý nhằm bảo vệ sức khỏe người lao động
trong quan hệ lao động để làm việc được lâu dài, có lợi cho cả hai bên; đảm bảo có
một tỷ số hợp lý giữa hai loại thời giờ này, có tính đến lợi ích hợp pháp của người


17
sử dụng lao động, vừa không thiệt hại cho sản xuất kinh doanh, vừa không làm
giảm sút khả năng lao động, khả năng sáng tạo của người lao động, suy cho cùng là
nhằm bảo vệ việc làm, tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả của lao động, hướng
vào chiến lược con người.
Việc quy định chế độ về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi có ý nghĩa rất
quan trọng, cụ thể:
Đối với người lao động
Thứ nhất, việc quy định thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tạo điều kiện
cho người lao động thực hiện đầy đủ nghĩa vụ lao động trong quanhệ, đồng thời

giúp người lao động bố trí, sử dụng quỹ thời gian một cách hợp lý.
Quy định về thời giờ làm việc có ý nghĩa như một đại lượng thời gian cần
thiết để người lao động thực hiện nghĩa vụ lao động đã cam kết trong hợp đồng lao
động. Việc quy định khung tối đa thời giờ làm việc, cũng như việc quy định các loại
thời giờ nghỉ ngơi giúp người lao động có sự lựa chọn phù hợp với điều kiện cá
nhân, đảm bảo năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc, đồng thời quá trình lao
động cũng giúp người lao động hoàn thiện nhân cách. Do vậy với việc điều tiết thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của người lao động một cách hợp lý, pháp luật tạo
điều kiện cho người lao động được đảm bảo thực hiện các quyền khác của mình như
quyền tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp. Đồng thời, người lao động còn có
điều kiện chăm lo hạnh phúc gia đình, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, tay nghề và tham gia các hoạt động xã hội khác.
Ngoài ra, quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là căn
cứ để người lao động hưởng những quyền lợi như: tiền lương, tiền thưởng, các chế
độ trợ cấp…
Thứ hai, quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi có ý
nghĩa trong bảo hộ lao động, đảm bảo thời gian nghỉ ngơi cho người lao động
Quyền làm việc và quyền nghỉ ngơi là một trong những quyền cơ bản của
con người trước hết là người lao động trong mối quan hệ lao động. Trong “Tuyên bố
chung về quyền con người” năm 1948 có ghi: “Mỗi người đều có quyền nghỉ ngơi


18
và giải trí, kể cả quyền được có ngày làm việc được giới hạn một các hợp lý và
được nghỉ định kỳ có hưởng lương” (Điều 24). Như vậy, vấn đề thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi là một trong những nội dung thuộc quyền con người. Ở Việt
Nam, vấn đề này luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu, điều này thể
hiện trong Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và Điều 55 Hiến pháp 1992: “Lao động là
quyền và nghĩa vụ của công dân; Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ra ngày càng
nhiều việc làm cho người lao động”. Xuất phát từ quyền con người, vì mục tiêu dân

giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, Bộ luật Lao động đã có hẳn Chương
VII quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Các quy định này đã tạo ra
hành lang pháp lý nhằm bảo vệ sức khỏe của người lao động, có tính đến lợi ích
hợp pháp của người sử dụng lao động, vừa không thiệt hại cho sản xuất kinh doanh,
vừa không làm giảm sút khả năng lao động,khả năng sáng tạo của người lao động.
Suy cho cùng cũng là nhằm bảo vệ việc làm, năng suất, chất lượng, hiệu quả của
người lao động và người sử dụng lao động và hướng vào chiến lược con người.
Quy định pháp luật về mức thời gian làm việc tối đa, mức thời gian nghỉ ngơi
tối thiểu hoặc quy định về thời giờ làm việc rút ngắn… chính là căn cứ pháp lý đảm
bảo quyền được bảo vệ sức khỏe của người lao động, nhằm tránh sự lạm dụng của
người sử dụng lao động đối với người lao động, góp phần tạo điều kiện cho người
lao động tái sản xuất sức lao động, bệnh nghề nghiệp trong quá trình lao động, có
tác dụng tăng cường đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.
Đối với người sử dụng lao động
Thứ nhất, việc quy định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi giúp người sử
dụng lao động xây dựng kế hoạch tổ chức sản xuất kinh doanh khoa học và hợp lý, sử
dụng một cách tiết kiệm các nguồn tài nguyên trong doanh nghiệp nhằm hoàn thiện
tốt tất cả các mục tiêu đã đề ra. Căn cứ vào khối lượng công việc, tổng quỹ thời gian
cần thiết hoàn thành và số thời gian làm việc pháp luật quy định với mỗi người lao
động mà người sử dụng lao động định mức lao động, xác định được chi phí nhân
công và bố trí sử dụng lao động linh hoạt, hợp lý đảm bảo hiệu quả cao nhất.
Thứ hai, những quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là căn cứ
pháp lý cho việc người sử dụng lao động thực hiện quyền quản lý, điều hành, giám


19
sát lao động, đặc biệt trong xử lý kỷ luật lao động, từ đó tiến hành trả lương,
thưởng… khen thưởng và xử phạt người lao động.
Đối với Nhà nước
Quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi thể hiện rõ thái

độ của Nhà nước đối với lực lượng lao động - nguồn tài nguyên qúy giá nhất của
quốc gia, đồng thời tạo ra hành lang pháp lý để Nhà nước thực hiện chức năng quản
lý của mình. Bằng các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, Nhà nước
kiểm tra giám sát quan hệ lao động, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các mâu thuẫn,
bất đồng nảy sinh giữa các bên tham gia quan hệ lao động liên quan đến thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
Trong công tác thanh tra lao động và quản lý lao động, việc giám sát thực
hiện pháp luật lao động, hướng dẫn tổ chức lao động hợp lý, khoa học cho các nơi
sử dụng lao động và làm việc thường kỳ của các cơ quan Nhà nước. Xong, dựa vào
chế độ làm việc và nghỉ ngơi để thực hiện kiểm tra, kiểm soát là việc làm trước tiên
để nhận thấy mặt tốt và mặt chưa tốt trong quản lý lao động, từ đó để tổ chức lao
động khoa học hơn.
Chế độ thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi còn là một trong những nội
dung để tổ chức công đoàn tham gia xây dựng và đấu tranh quyền lợi cho người lao
động. Vì mục tiêu lợi nhuận tối đa, người sử dụng lao động rất dễ vi phạm chế độ
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Chính vì thế, công đoàn với tư cách là tổ chức
bảo vệ quyền lợi người lao động sẽ phải căn cứ vào các quy định về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi để đấu tranh với người sử dụng lao động, đem lại quyền lợi
chính đáng cho người lao động.
Ngoài ra, cùng với các quy định pháp luật về việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã
hội, bảo hộ lao động…quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
cũng phản ánh trình độ phát triển, điều kiện kinh tế của các quốc gia và tính ưu việt
của chế độ xã hội. Thông thường ở những nước nền kinh tế phát triển, trình độ khoa
học kĩ thuật tiên tiến, thời gian làm việc được rút ngắn hơn so với các nước khác.


20
1.2. Sự điều chỉnh của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
1.2.1. Các nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật về thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi

1.2.1.1. Nguyên tắc thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi do Nhà nước quy định
Với nguyên tắc ưu tiên bảo vệ người lao động nên việc quy định thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi gắn liền với yêu cầu bảo hộ lao động, hạn chế sự lạm dụng
sức lao động, đáp ứng nhu cầu của các bên trong quan hệ lao động.
Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ yêu cầu bảo vệ người lao động –đối
tượng luôn ở vị thế yếu hơn so với người sử dụng lao động. Nếu để người sử dụng
lao động toàn quyền quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi thì mục đích
vì lợi nhuận, họ sẽ khai thác tối đa nghĩa vụ của người lao động mà trước tiên là kéo
dài thời gian làm việc của ngườilao động. Nếu để cho hai bên tự do thỏa thuận thì sẽ
dẫn đến việc người sử dụng lao động lợi dụng vị thế của mình để gây áp lực buộc
người lao động phải chấp nhận mức thời gian do họ đưa ra.
Để thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình, Nhà nước có quyền quy
định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đã được ghi nhận trong Hiến pháp:
“Nhà nước quy định thời gian lao động…” (Điều 56, Hiến pháp 1992). Trên cơ sở
đó, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của người lao động được cụ thể hóa trong
các văn bản pháp luật.
Nội dung của nguyên tắc được biểu hiện ở chỗ: Nhà nước quy định khung
thời giờ làm việc ở mức tối đa, thời giờ nghỉ ngơi ở mức tối thiểu. Cụ thể, Nhà nước
đã quy định ngày làm việc tiêu chuẩn, tuần làm việc tiêu chuẩn, số giờ mà người sử
dụng lao động được phép huy động người lao động làm thêm trong một ngày, một
năm. Nhà nước cũng quy định những khoảng thời gian nghỉ ngơi xen kẽ với thời
giờ làm việc, nghỉ hàng tuần, nghỉ hàng năm…. Bằng cách đưa ra các cụm từ
“không quá”, “ít nhất” đã đảm bảo sự mềm dẻo, linh hoạt cho các bên tự do thỏa
thuận và áp dụng chế độ thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi phù hợp với điều kiện
cụ thể. Riêng với cơ quan Nhà nước, do đặc thù của quan hệ lao động mà việc áp
dụng quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là bắt buộc, không đơn vị
nào có quyền thỏa thuận hay tự ý thay đổi thời giờ làm việc đã được ấn định.


21

Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người lao động, đồng thời thể hiện sự quan tâm của Nhà nước tới đối
tượng lao động này. Trên cơ sở đó, Nhà nước thực hiện việc kiểm tra, thanh tra,
giám sát hoạt động của các doanh nghiệp trong việc bảo đảm thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi cho người lao động.
1.2.1.2. Nguyên tắc thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi do các bên trong
quan hệ lao động thỏa thuận
Để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các công dân, quyền chủ động trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, quyền tự định đoạt của người
lao động, pháp luật tôn trọng sự tự do thỏa thuận giữa các bên phù hợp với quy định
pháp luật. Trong đó, những thỏa thuận có lợi hơn cho người lao động được Nhà
nước khuyến khích.
Nội dung của nguyên tắc thể hiện rõ ở việc Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ
mô bằng việc quy định giới hạn lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,
làm thêm…Việc cụ thể hóa như thế nào sẽ tùy thuộc vào ý chí của chủ thể tham gia
trên cơ sở thỏa thuận, thương lượng phù hợp với điều kiện, đặc điểm riêng. Thông
thường các thỏa thuận này được ghi trong thỏa ước lao động tâp thể, hợp đồng lao
động và nội quy lao động. Khi đã thống nhất ý chí trên cơ sở phù hợp với pháp luật,
những thỏa thuận đó đã trở thành cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quan hệ lao động
và giải quyết tranh chấp lao động phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ.
Mặt khác nguyên tắc này còn thể hiện ở việc Nhà nước khuyến khích những
thỏa thuận về thời giờ làm việc có lợi hơn cho người lao động. Trong khả năng của
mình, người sử dụng lao động hoàn toàn có thể giảm giờ làm mà vẫn đảm bảo
quyền lợi cho người lao động.
Thực hiện nguyên tắc này vừa bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền chủ
động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, quyền tự định đoạt của người lao động,
vừa bảo vệ được quyền lợi của người lao động.
1.2.1.3. Nguyên tắc rút ngắn thời gian làm việc đối với các đối tượng đặc biệt hoặc
làm công việc nặng nhọc, độc hại



22
Xuất phát từ đặc điểm riêng của một số đối tượng lao động, một số ngành
nghề quan trọng mà việc bảo hộ một số đối tượng lao động đặc thù như lao động
nữ, lao động chưa thành niên, lao động là người tàn tật, người cao tuổi và những
người lao động làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm là vô cùng cần thiết.
Nghiên cứu tâm sinh học cho thấy, với lượng công việc như nhau thì mức hao phí
sức lao động bỏ ra của họ cao hơn so với bình thường và do vậy khả năng phục hồi,
tái tạo sức lao động cũng lâu hơn. Vì vậy, đòi hỏi phải có những quy định phù hợp
với đặc thù riêng của đối tượng nhằm đảm bảo sức khỏe và sự công bằng trong khai
thác lao động.
Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở việc quy định giảm số giờ làm việc
tối đa, tăng số giờ nghỉ ngơi tối thiểu so với thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
bình thường mà người lao động vẫn được đảm bảo quyền lợi. Ngoài ra các đối
tượng này cũng được bảo vệ bởi những quy định chặt chẽ trong các trường hợp làm
thêm giờ, làm đêm. Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa việc bảo hộ lao động đối với
các lao động đặc thù, có ý nghĩa trong việc đảm bảo tính mạng, sức khỏe, thể chất
cho người lao động yên tâm làm việc.
1.2.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi
Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là một trong những chế định quan trọng
trong pháp luật lao động của các nước trên thế giới. Ở mỗi quốc gia, do phong tục
tập quán, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội khác nhau nên pháp
luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi cũng có những nét riêng biệt, đặc trưng
của mỗi nước. Tuy nhiên, nhìn chung pháp luật các nước đều quy định cụ thể về
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi với việc giới hạn số giờ làm việc tối đa và số
giờ nghỉ ngơi tối thiểu. Ở Việt Nam, hệ thống pháp luật nuớc ta điều tiết thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi bằng ba loại quy định:
- Quy định pháp luật của Nhà nước: pháp luật quy định mức tối đa thời giờ
làm việc và mức tối thiểu thời giờ nghỉ ngơi mà không quy định cụ thể.

- Quy định chung trong nội bộ doanh nghiệp: dựa vào những quy định về
mức tối thiểu và mức tối đa của Nhà nước mà các doanh nghiệp có quy định cụ thể


23
(trong nội quy của doanh nghiệp) về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi thực hiện
với những người lao động trong doanh nghiệp. Những quy định đó phải phù hợp với
quy định của Nhà nước và điều kiện thực tế của doanh nghiệp cũng như thỏa ước
lao động tập thể của doanh nghiệp.
- Quy định cụ thể: Thông qua hợp đồng lao động, người lao động và người
sử dụng lao động thống nhất với nhau về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của
người lao động. Những thỏa thuận này phải phù hợp với quy định chung của Nhà
nước, với quy định nội bộ của doanh nghiệp và phù hợp với yêu cầu thực tế của các
bên trong quan hệ lao động.
Cũng như các nước trên thế giới, nội dung pháp luật về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi được chia làm hai phần: thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi
1.2.2.1. Quy định về thời giờ làm việc
Pháp luật Việt Nam quy định thời giờ làm việc bằng việc giới hạn khung tối
đa mà không được phép vượt qua hoặc phải đảm bảo hơn quyền lợi cho người lao
động. Trên cơ sở đó, pháp luật đưa ra khái niệm về thời giờ làm việc tiêu chuẩn.
Đây là loại thời giờ làm việc theo định mức của người lao động, theo thỏa thuận
trong hợp đồng lao động dựa trên quy định pháp luật. Thời giờ làm việc tiêu chuẩn
được quy định trên cơ sở tiêu chuẩn hóa thời giờ làm việc bằng việc quy định số giờ
làm việc trong một ngày đêm, một tuần lễ, hoặc số ngày làm việc trong một tháng,
một năm. Trong đó việc tiêu chuẩn hóa ngày làm việc, tuần làm việc là quan trọng
nhất, là cơ sở để dễ dàng trả công lao động và xác định tính hợp pháp của các thỏa
thuận về thời giờ làm việc. Ngày làm việc tiêu chuẩn chính là việc quy định độ dài
thời giờ làm việc của người lao động trong một ngày đêm (24 giờ) và tuần làm việc
tiêu chuẩn là số giờ hoặc ngày làm việc trong một tuần lễ 7 ngày. Thời giờ làm việc
tiêu chuẩn bao gồm: thời giờ làm việc bình thường và thời giờ làm việc rút ngắn.

Theo đó, với các đối tượng lao động đặc thù như lao động nữ, lao động chưa thành
niên, người tàn tật, người cao tuổi, người làm các công việc nặng nhọc, độc hại thì
thời giờ làm việc được rút ngắn hơn một hoặc hai giờ so với lao động bình thường.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng đưa ra khái niệm về thời giờ làm việc không
tiêu chuẩn. Thời giờ làm việc không tiêu chuẩn là loại thời giờ làm việc quy định


24
cho một số lao động nhất định, do tính chất công việc mà không thể xác định được
số giờ làm việc cụ thể. Loại thời giờ này khó kiểm soát, sẽ gây khó khăn cho các cơ
quan chức năng trong việc quản lý về thời giờ làm việc của người lao động.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định về thời giờ làm thêm, làm ban đêm và thời
giờ làm việc linh hoạt cho người lao động. Với việc giới hạn tối đa số giờ làm thêm,
làm ban đêm, các quy định pháp luật là hành lang pháp lý vững chắc bảo vệ quyền
lợi cho người lao động, tránh sự lạm dụng sức lao động từ phía người sử dụng lao
động. Đồng thời pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên, người lao động và
người sử dụng lao động có thể thỏa thuận làm thêm giờ, làm thêm ban đêm…phù
hợp với quy định pháp luật. Tùy theo thời giờ làm việc của người lao động mà
người lao động được hưởng các chế độ: lương, tiền thưởng, phụ cấp v.v.
1.2.2.2. Quy định về thời giờ nghỉ ngơi
Song song với việc quy định thời giờ làm việc ở mức tối đa, người lao động
còn được đảm bảo thời giờ nghỉ ngơi ở mức ít nhất bằng mức đã được pháp luật quy
định. Đó là các quy định về thời gian nghỉ giữa ca (ít nhất 30 phút, ca đêm ít nhất 45
phút), nghỉ hàng tuần (từ một đến hai ngày trong một tuần) (Điều 71,72 BLLĐ).
Khi được quy định, những nội dung này trở thành quyền chính đáng của người lao
động, giúp họ đỡ căng thẳng thần kinh, cơ bắp, phục hồi sức khỏe để tiếp tục làm
việc, có thể dưỡng sức lao động, dành thời gian cho các nhu cầu vật chất và tinh
thần khác…nên cần được pháp luật bảo vệ. Bên cạnh chế độ nghỉ trong quá trình
làm việc như nghỉ theo ca, nghỉ hàng tuần…, người lao động còn được nghỉ hàng
năm, nghỉ lễ (9 ngày/ năm), nghỉ việc riênghoặc nghỉ không hưởng lương (từ Điều

74 đến Điều 79 BLLĐ).
Có thể nói, các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đã góp phần
quan trọng trong việc bảo vệ người lao động trong trường hợp cần thiết và tạo thành
một chế định cần thiết và không thể thiếu được trong Bộ luật lao động. Xuất phát từ
đặc điểm của thị trường lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là điều
khoản cơ bản trong hợp đồng lao động và trong thỏa ước lao động tập thể. Mặt
khác, các chế định trong bộ luật lao động chẳng hạn như: Quy định chế độ bồi
thường, trợ cấp khi tai nạn lao động xảy ra v.v muốn thể hiện rõ cũng phải căn cứ
vào các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.


25
1.3. Sơ lƣợc về quá trình hình thành và phát triển pháp luật về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
1.3.1. Trên thế giới
Đầu thế kỷ XIX, khi năng suất lao động còn thấp, để thu được lợi nhuận tối
đa giai cấp tư sản thường bắt nô lệ, người làm thuê phải lao động quần quật mà
không tính đến giờ giấc. Hàng ngày họ phải làm từ 14 – 16 tiếng thậm chí 18 tiếng.
Tuy nhiên, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, giai cấp công nhân ngày càng
đông đảo và lớn mạnh, công nhân đã không ngừng đấu tranh đòi cải thiện điều kiện
lao động mà trước hết là cải thiện chế độ thời giờ làm việc.
Năm 1833, Vương quốc Anh công bố Luật công xưởng mà nội dung của nó
là các quy định ngày làm việc 15 giờ đối với lao động người lớn, 12 giờ đối với lao
động từ 13 – 18 tuổi và 8 giờ đối với lao động từ 9 – 12 tuổi đồng thời cấm sử dụng
lao động dưới 18 tuổi làm đêm.
Năm 1866, tại Đại hội Đại biểu Đệ nhất Quốc tế họp ở Giơnevơ, lần đầu tiên
C. Mác đề xướng khẩu hiệu “Ngày làm 8 giờ”. Tiếp đó năm 1884, ở Mỹ và Canada, 8
tổ chức quyết định công nhân thị ủy vào ngày 1 tháng 5 năm 1886 và bắt đầu làm
việc 8 giờ. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, dưới áp lực của phong trào công
nhân quốc tế, giai cấp tư sản phải nhượng bộ và ở các nước đã lần lượt thực hiện chế

độ ngày làm việc 8 giờ. Cùng thời gian này, tại hội nghị toàn thể của hội nghị hòa
bình, họp tại Paris ngày 25 tháng 1 năm 1919 theo để nghị của Anh, một Ủy ban pháp
luật quốc tế về lao động đã được thành lập để chuẩn bị mọi điều kiện cho việc thành
lập Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Ngày 11 tháng 4 năm 1919 tại phiên họp toàn
thể của hội nghị hòa bình Paris đã chính thức tuyên bố thành lập ILO và thông qua
điều lệ của tổ chức này. Với tôn chỉ mục đích và nhiệm vụ là khẩn chương cai thiện
điều kiện làm việc, nâng cao mức sống của người lao động bằng các biện pháp quốc
tế, ILO đã góp một phần không nhỏ trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động nhất
là trong lĩnh vực thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
Vào khoảng những năm đầu thế kỉ XIX, người lao động phải làm việc từ 14
giờ đến 16 giờ có khi phải làm 18 giờ/ngày. Tại thời điểm đó, chưa có một văn bản
pháp luật nào bảo vệ quyền lợi cho người lao động về thời giờ làm việc, thời giờ

×