Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

BÁO CÁO THỰC TẬP-ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC SINH YẾU Ở PHÂN MÔN TIẾNG VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.89 KB, 28 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài
Phương pháp dạy học (PPDH) là gì? PPDH là hoạt động dạy của Thầy và
học của Trò trong sự phối hợp thống nhất, đồng thời có sự kết hợp của phương
tiện dạy học và hình thức tổ chức hoạt động của học sinh. Trên cơ sở nắm vững
nội dung, giáo viên có thể vận dụng linh hoạt các phương pháp một cách một
cách nhuẫn nhuyễn để kích thích mọi hoạt động của học sinh.
Quan niệm về đổi mới phương pháp dạy học: Đổi mới PPDH là đưa các
PPDH mới vào nhà trường trên cơ sở kế thừa và phát huy mặt tích cực của các
phương pháp truyền thống để nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả
đào tạo, góp phần đáp ứng những yêu cầu mới của mục tiêu giáo dục và đào tạo.
Vậy đổi mới phương pháp dạy học sinh yếu phân môn Tiếng Việt là đưa các
PPDH mới vào dạy học trên cơ sở kế thừa và phát huy mặt tích cực của các
phương pháp truyền thống để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học sinh yếu
kém, giúp các em học tập có hiệu quả nắm bắt được kiến thức, kĩ năng kịp với
chương trình, mục tiêu từng cấp học.
Trong khi học phân môn Tiếng Việt có rất nhiều em không có tiến bộ và trở
thành học sinh yếu kém. Nguyên do có thể là do học sinh không có ham thích
trong học tập. Có thể do các em bị mất kiến thức và không theo kịp bài, dẫn đến
càng học càng không biết gì. Một khi đã bị mất kiến thức dẫn đến không hiểu
bài thì học sinh không có hứng thú học tập, sẽ không có khả năng học tập tốt và
trở thành học sinh yếu kém.
Giúp đỡ cho học sinh yếu phân môn Tiếng Việt là giáo viên phải bổ xung
được những “lỗ hổng” kiến thức cho học sinh (chủ yếu là những kiến thức có
trong sách giáo khoa) để giành lại kiến thức mà các em chưa còn thiếu theo
1
TÊN SÁNG KIẾN: ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC SINH YẾU Ở PHÂN MÔN
TIẾNG VIỆT.
NGƯỜI VIẾT: NGUYỄN HỒNG HÀ
CHỨC VỤ: PHÓ HIỆU TRƯỞNG
ĐƠN VỊ: TRƯỜNG TIỂU HỌC KIM ĐỒNG, HUYỆN XUYÊN MỘC, BRVT


chương trình. Từ đó học sinh có thể hòa nhập theo kịp với các bạn trong tiết học
đang diễn ra trên lớp.
Giúp đỡ học sinh yếu kém học tập có tiến bộ hơn là giáo viên phải tạo được
sự hứng thú học tập ở các em.
Trong những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học ngày càng phổ biến.
Cấp học càng cao tỷ lệ học sinh bỏ học càng lớn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn
đến tình trạng học sinh bỏ học nhưng trong đó nguyên nhân chính là các em học
tập yếu kém nên không thích đi học, không thích đến trường.
Xã hội ngày càng phát triển, thì yêu cầu về giáo dục cũng được nâng cao.
Đòi hỏi trong xã hội ai cũng được học hành, được tiếp thu được kiến thức kĩ
năng, kĩ xảo từ nhà trường để phục vụ cuộc sống sau này. Chúng ta ngày đêm
đang ra sức phổ cập giáo dục ở các cấp học. Nhưng trên thực tế có biết bao
nhiêu học sinh bỏ học giữa chừng. Biết bao nhiêu trẻ em không biết đọc, biết
viết hoặc đọc viết không thông thạo mà đã nghỉ học. Tất cả đều là sản phẩm của
nhà trường, do không quan tâm đến học sinh, không có biện pháp để giúp đỡ
học sinh yếu kém mà đặc biệt là học sinh yếu phân môn Tiếng Việt.
Hiện nay ở một số trường đặc biệt là các trường vùng nông thôn và các
trường ở vùng sâu người làm công tác giáo dục còn bế tắc trong việc giúp đỡ
học sinh yếu kém phân môn Tiếng Việt. Có nhiều giáo viên vẫn biết một số
phương pháp giúp đỡ học sinh yếu kém học tập có tiến bộ nhưng lại thực hiện
không tới nơi tới chốn. Ban giám hiệu lại không quan tâm, vận động giáo viên
thực hiện, hoặc chỉ thực hiện trên lí thuyết. Cho nên nhiều gia đình có kinh tế
cao sẵn sàng tạo mọi điều kiện cho con mình đến trường, cho con mình học tới
nơi, tới chốn nhưng cũng bất lực nhìn con mình ngày ngày lêu lỏng ngoài
đường, vào tiệm internet, chơi với bạn xấu bị lôi cuốn dẫn đến học tập yếu kém
và bỏ học.
Qua nhiều năm công tác ở trường, và tìm hiểu ở các trường khác tôi thấy
rằng để học sinh học tập tốt phân môn Tiếng Việt thì cần có sự ham thích học
2
tập, ham thích đến trường. Khi đã ham thích việc học các em tiếp thu bài nhanh

hơn, vận dụng kiến thức đã học vào thực tế luôn linh động và sáng tạo.
Trong những năm gần đây ngành giáo dục tăng cường kỷ cương, nề nếp, thực
hiện nghiêm túc hiện cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và
bệnh thành tích trong giáo dục, nói không với vi phạm phẩm chất đạo đức nhà
giáo và việc học sinh không đủ tiêu chuẩn lên lớp”. Việc dạy thật, thi thật,
không chạy theo thành tích thực hiện không đúng cách đã đẩy cho nhiều học
sinh yếu phải bỏ học. Cũng là yếu tố thúc đẩy chúng ta cần tạo ra một trường
học không có học sinh yếu kém.
Qua những lý do trên tôi thấy việc Đổi mới phương pháp trong việc dạy học
sinh yếu kém phân môn Tiếng Việt trong nhà trường là điều nên bàn và nên làm
nhất trong tình hình hiện nay.
B : PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I : CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận :
+ Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học :
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học tâm sinh lý các em chưa ổn định, đang hình
thành và phát triển. Nên trong sự học tập, làm việc hàng ngày các em sẽ ít tập
trung chú ý, nhất là học tập phân môn Tiếng Việt với những bài tập làm văn khả
năng dùng từ, diễn ý chưa được tốt. Ở các em ý thức học tập chưa có, chưa hiểu
rõ mục đích của việc học. Các em đi học phần lớn là do sự bắt buộc của gia
đình, chỉ một phần nhỏ là ham thích đi học (vì đi học được cô khen, được điểm
10, được chơi cùng bạn vv…). Do đó ý thức tự giác học tập của các em chưa có
(với những em đi học vì sự bắt buộc của gia đình) nên các em thiếu sự cần cù,
sự cố gắng vượt qua khó khăn để học tập dễ sinh ra lười biếng, ham chơi và dẫn
đến học yếu, chán học và bỏ học…
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học tính tò mò phát triển, các em thường ham thích
cái mới, cái lạ. Dễ nhàm chán trong các hoạt động kéo dài, không thay đổi hình
3
thức. Nếu chúng ta những người làm công tác giáo dục biết quan tâm tạo sự ham
thích cho các em trong học tập, trong các hoạt động ở trường, lớp thì mới có

động lực thúc đẩy việc học, nâng cao được khả năng tiếp thu, và thực hành các
kĩ năng, kĩ xảo mà chúng ta cung cấp cho các em. Từ đó các em học tập có tiến
bộ.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học tâm sinh lý các em rất hiếu động, hay bắt chước,
dễ thích nghi với môi trường sinh hoạt ở trường, lớp. Đây là điều kiện tốt để
giáo viên tạo sự hứng thú cho các em. Nếu hàng ngày khi đến trường các em
được thầy cô ân cần chỉ bảo. Trong các tiết học Tiếng Việt các em được hoạt
động nhóm, được thảo luận, chơi các trò chơi học tập thì các em sẽ ham học hơn
từ đó các em sẽ học tập có tiến bộ hơn.
1. Cơ sở thực tiễn :
Hiện nay xu hướng của giáo dục là: “Dạy thật – Học thật” không chạy theo
thành tích. Muốn thế học sinh phải hiểu bài, làm được bài, tức là các em không
phải là học sinh yếu kém. Muốn vậy thầy cô phải có sự đổi mới không ngừng về
phương pháp cũng như hình thức dạy học. Giáo viên phải luôn làm mới mình
trước học sinh. Việc dạy học các phân môn Tiếng Việt hiện nay không phải
cung cấp kiến thức cho học sinh một cách rập khuôn nhàm chán, mà cung cấp
cho học sinh các phương pháp học tập để học sinh tự tìm ra kiến thức một cách
tích cực.
Đối với học sinh yếu phân môn Tiếng Việt thì việc học tập, tiếp thu kiến thức
của các em là vấn đề rất quan trọng. Do đó chúng ta phải làm như thế nào để các
em học cho có hiệu quả cao, phát huy hết năng lực vốn có của mình. Hiện nay
nhiều trường hay nhồi nhét kiến thức cho học sinh bằng các hình thức học thêm,
học hai buổi Đưa ra rất nhiều phương pháp giảng dạy mà quên đi việc bồi lấp
lỗ hổng kiến thức cho học sinh yếu.
Sự ham thích học tập ở học sinh chủ yếu hình thành thông qua các hoạt động
thực tế như hoạt động giao lưu, tập thể và nhóm ; Qua sự tác động của môi
4
trường cơ sở vật chất như trường, lớp, qua thái độ của thầy cô, bạn bè. Do đó
trong nhà trường cần có những biện pháp, những hoạt động, những cải tạo về
trường, lớp, về tác phong sư phạm của giáo viên nhằm tạo cho học sinh một môi

trường thân thiện, gần gũi từ đó giúp học sinh ham thích học tập, để học tập
càng có tiến bộ.
Tóm lại, việc giúp đỡ học sinh yếu kém phân môn Tiếng Việt học tập có tiến
bộ là một giải pháp rất chính đáng, thực sự cần thiết và cần được đổi mới
phương pháp, hình thức giảng dạy, cần mở rộng trong tất cả các môn học dưới
sự giúp đỡ của nhà trường và sự đồng tình ủng hộ của các giáo viên khác trong
và ngoài nhà trường.
CHƯƠNG II : ĐỀ XUẤT NHỮNG ĐIỀU CHỈNH NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu:
1. Mục đích :
- Nhằm đánh giá lại chất lượng giảng dạy học sinh yếu kém ở các trường tiểu
học trong những năm qua và hiện nay.
- Tìm ra những nguyên nhân tại sao việc hiện nay ở các trường còn có rất
nhiều học sinh yếu kém, và hiện tượng học sinh bỏ học vì học yếu vẫn còn.
- Đánh giá lại kết quả của việc cải tiến và đổi mới phương pháp phụ đạo giúp
đỡ học sinh yếu kém trong những năm gần đây. Việc phụ đạo giúp đỡ học sinh
yếu kém có tác dụng như thế nào trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy trong
nhà trường.
- Đưa ra một số giải pháp trong việc đổi mới phương pháp giúp đỡ học sinh
yếu kém học tập có tiến bộ hơn, giúp học sinh ham thích học tập. Nhằm nâng
cao chất lượng học tập của học sinh hơn nữa.
2. Phương pháp :
+ Phương pháp lấy tư liệu :
5
Trong quá trình nghiên cứu cần rất nhiều ý kiến, thông tin, tư liệu. Các ý kiến
từ giáo viên giáo viên chủ nhiệm, hiệu trưởng, phụ huynh học sinh vv…Trong
quá trình làm công tác giảng dạy nhiều năm đã đúc kết được một số kinh
nghiệm từ đồng nghiệp là nền tảng giúp tôi nghiên cứu đề tài này.
+ Phương pháp học mà chơi, chơi mà học :

Đây là phương pháp giúp học sinh tham gia nhiều vào các hoạt động nhóm
và tập thể, giúp các em có hứng thú trong học tập, từ đó bớt rụt rè, e thẹn và có
thêm tự tin.
+ Phương pháp đàm thoại :
Đây là phương pháp nhằm tiếp thu ý kiến của phụ huynh, học sinh, của giáo
viên chủ nhiệm. Đối với học sinh khi chúng ta trò chuyện trực tiếp với các em
tạo cho các em sự gần gũi, thương yêu, Từ đó các em nói lên tâm tư tình cảm
của mình về sự học tập, từ đó hiểu được nguyên nhân vì sao các em học yếu.
Sàng lọc học sinh thành nhiều cấp độ nhận thức và nắm bắt được cụ thể các học
sinh yếu kém.
+ Phương pháp xử lý thông tin :
Hàng ngày tôi kịp thời xử lý các thông tin, kết quả thu thập được trong quá
trình nghiên cứu nhằm loại bỏ các biện pháp không thích hợp, đi sâu các biện
pháp có tác dụng tích cực. Có được những hiểu biết sâu hơn về vấn đề đang
nghiên cứu.
+ Phương pháp thực nghiệm :
Đề xuất với giáo viên chủ nhiệm, với phụ huynh một số phương pháp đổi
mới nhằm nâng cao kết quả học tập cho học sinh yếu kém. Sau đó cùng nhau
tiến hành dạy thực nghiệm, cùng phối hợp đánh giá.
+ Phương pháp cải tiến :
Qua việc tìm ra nguyên nhân của vấn đề nghiên cứu từ đó đưa ra một số
phương pháp cải tiến để tìm ra giải pháp tốt nhất làm cơ sở nghiên cứu.
III. Giới hạn của đề tài:
6
1. Khách thể nghiên cứu bao gồm :
+ Không gian : Địa bàn chính xã Hòa Hội chủ yếu ở trường TH Kim
Đồng.
+ Thời gian : Năm học 2011 –2012 và năm học 2012-2013.
+ Học sinh các lớp thuộc trường tiểu học. Đội ngũ thầy, cô cùng thầy
tổng phụ trách. Phụ huynh học sinh ở xã Hòa Hội.

2. Đối tượng nghiên cứu bao gồm :
+ Các phương pháp, biện pháp giảng dạy giúp đỡ học sinh yếu kém ở lớp
học do giáo viên chủ nhiệm đảm nhiệm.
+ Cách thức tổ chức các hoạt động phong trào của trường, của chuyên
môn, của các tổ chức có liên quan nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
học sinh yếu kém.
+ Sự quan tâm, giáo dục của phụ huynh học sinh đối với việc giúp đỡ học
sinh học tập ở gia đình.
IV. Các giả thiết nghiên cứu:
+ Phải chăng trong công tác giáo dục hiện nay ở các trường tiểu học vùng
nông thôn giáo viên chưa quan tâm đến việc giảng dạy, giúp đỡ học sinh yếu
kém. Trong nhu cầu đổi mới đất nước với sự tiến bộ công nghệ thông tin khoa
học, mỗi cá thể sống và làm việc trong cộng đồng cần phải biết học và tự học
không ngừng, muốn vậy các em cần cố gắng trang bị cho mình những kiến thức,
kĩ năng, kĩ xảo để phục vụ cho cuộc sống sau này. Và phải chăng trường học là
môi trường giáo dục lý tưởng để giúp học sinh học tập tốt tiếp thu những kiến
thức trong học tập và muốn như vậy thì học sinh không thể là học sinh yếu kém.
+ Có phải chăng ở các trường tiểu học trường nào càng tổ chức nhiều phong
trào, những cuộc thi, vui chơi khi đó các em được tiếp xúc nhiều với môi trường
sinh hoạt tập thể, Giáo viên biết đổi mới hình thức, phương pháp dạy học, tỏ thái
độ quan tâm, gần gũi, thân thiện với học sinh thì học sinh trường đó ham thích
7
đến trường hơn, học tập tích cực hơn và việc học sinh bỏ học giữa chừng do học
yếu kém sẽ không có?
+ Có phải hiện nay đa số phụ huynh đều quan tâm đến sự phát triển toàn diện
của con em mình, luôn mong muốn con em mình hơn người, muốn con mình là
học sinh giỏi, khá nhưng làm thế nào để phát huy hết khả năng của con em họ?
Đặc biệt là làm sao cho con em mình không phải là học sinh yếu kém thì chưa
có kinh nghiệm! Do đó người làm công tác giáo dục cần biết truyền đạt kinh
nghiệm đến cho phụ huynh để cùng nhau phối hợp phát huy tối đa chất lượng

giáo dục. Và có phải đó là phương pháp chia sẽ gánh nặng giáo dục của nhà
trường cho phụ huynh, nhằm thực hiện tốt chủ trương “xã hội hoá giáo dục” tất
cả vì tương lai con em chúng ta?
Có phải việc học sinh học yếu kém phân môn Tiếng Việt là do những nguyên
nhân sau:
+ Do trường chưa ra trường, lớp chưa ra lớp, lớp không đủ ánh sáng, nóng
bức, bàn ghế không thích hợp, nhà vệ sinh hôi thối hoặc không có. Sân trường
không sạch sẽ, mưa sình lầy đọng nước, nắng bụi bay mất vệ sinh…Trường
thiếu cây xanh, bóng mát, thiếu chỗ học sinh vui chơi.
+ Do giáo viên ứng xử không sư phạm: Còn mắng chửi, đánh đập, dùng hình
phạt mà thiếu sự động viên khích lệ học sinh. Giáo viên chưa chăm lo đến học
sinh yếu kém, còn để các em bên lề lớp học
+ Do học sinh mất căn bản về kiên thức nên lên lớp không hiểu bài, giáo viên
không giảng dạy kiến thức vừa sức với các em, để các em yếu bên ngoài giờ
học.
+ Do hình thức, phương pháp dạy học của giáo viên không đổi mới. Giáo
viên vẫn dạy theo cách xưa kia thầy nói, trò nghe và ghi chép. Chỉ có tiết hội
giảng, dự giờ mới có đồ dùng dạy học, mới có học nhóm, trò chơi, dạy máy…
+ Do trường không có hoạt động, phong trào gì vui, hấp dẫn học sinh đến
trường chỉ có học và học. Sự học trở nên quá tải gây nhàm chán ở học sinh.
8
+ Do phụ huynh chưa quan tâm đến con cái, chưa tạo điều kiện tốt để con em
học tập, vui chơi. Chưa quản lý con em mình lúc ở nhà, việc chơi bạn bè xấu,
cưng chiều con cái.
Và việc khắc phục những nguyên nhân trên sẽ giúp học sinh học tập có tiến
bộ hơn.
V. Kế hoạch thực hiện :
Thời gian Nội dung
Người tham gia
thực hiện

Từ 20/08/2011 đến
30/09/2011
-Thống kê tình trạng học sinh yếu ở các
khối lớp.
Tác giả phối hợp với
BGH-GV trường
Từ 01/10/2011 đến
20/10/2011
-Tìm ra những nguyên nhân vì sao học sinh
lại học yếu kém.
Tác giả phối hợp với
BGH-GV trường
Từ 21/10/2011 đến
30/05/2012
-Đề ra những biện pháp khắc phục. Tiến
hành thực nghiệm những biện pháp đã đề
ra.
Tác giả phối hợp với
BGH-GV trường
Từ 01/06/2012 đến
30/07/2012
-Đánh giá lại quá trình thực hiện tim ra ưu,
khuyết trong những phương pháp rèn học
sinh yếu Tiếng Việt.
Tác giả phối hợp với
BGH-GV trường
Từ 01/08/2012 đến
30/09/2012
- Tiếp tục đề ra những phương pháp, biện
pháp dạy học mới. Tiến hành thực nghiệm

những phương pháp, biện pháp đã đã cải
tiến.
Tác giả phối hợp với
BGH-GV trường
Từ 01/10/2012 đến
20/10/2012
-Đánh giá kết quả của quá trình nghiên cứu.
Tác giả phối hợp với
- BGH
Từ 21/10/2012 đến
30/10/2012
-Rút ra bài học kinh nghiệm. Và viết đề tài. Tác giả
CHƯƠNG III : THỰC NGHIỆM NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng và những mâu thuẫn:
Trường tiểu học Kim Đồng cũng như một phần lớn các trường trong
huyện Xuyên Mộc, là trường thuộc vùng nông thôn, dân trí còn thấp, số hộ
nghèo còn nhiều, nhiều người dân còn mù chữ, học sinh dân tộc ít người lại
đông chiếm 10% số học sinh toàn trường. Trong cuộc sống hàng ngày các em
9
còn phải phụ giúp cha mẹ công việc gia đình, đi nương, rẫy…. Trình độ học sinh
trong một lớp không đồng đều : Số em giỏi thì rất ít, em yếu thì nhiều. Việc giáo
dục con cái phụ huynh thường khoán trắng cho nhà trường. Hoặc là giáo dục
không đúng phương pháp làm ảnh hưởng nhiều đến cách học của các em. Trong
nhiều năm qua có rất nhiều em trong trường học yếu kém phân môn Tiếng Việt
mà giáo viên cũng chưa có một phương pháp đúng để dạy các em. Nên tình
trạng học sinh yếu phân Môn Tiếng Việt vẫn tồn tại nhiều. Do học yếu kém nên
các em không thích đến trường, tới lớp (các em đi học vì sự bắt buộc của gia
đình, vì sợ bố mẹ cho ăn đòn nhiều hơn tự nguyện đến trường). Nhiều em rất run
sợ khi gặp thầy cô, thụ động trong giờ học, thiếu sự ham học, làm cho các em
không phát huy hết được khả năng học tập của mình.

Việc phụ đạo giúp đỡ học sinh yếu kém trong phân môn Tiếng Việt tuy đã
được giáo viên và nhà trường quan tâm nhưng sự tiến bộ của các em vẫn chưa
cao. Trong giảng dạy giáo viên chi tập trung giảng dạy theo chuẩn kiến thức kĩ
năng. Dạy chung cho cả lớp chưa có thời gian giúp đỡ học sinh yếu Tiếng Việt.
Còn để học sinh yếu bên lề lớp học, làm cho học sinh yếu càng yếu hơn.
Cơ sở vật chất nhà trường đã được bảo đảm chuẩn nhà trường, chưa có đầy
đủ đồ dùng dạy học. Việc sử dụng đồ dùng chưa thật sự có hiệu quả. Giáo viên
còn lo kinh tế gia đình thiếu thời gian chăm lo đến dạy học sinh yếu.
2. Các biện pháp giải quyết vấn đề :
Hiện nay việc học sinh học yếu phân môn Tiếng Việt yếu ở các trường rất
nhiều, cũng là hậu quả của việc chạy theo thành tích những năm trước. Vậy để
học sinh yếu phân môn Tiếng Việt tiến bộ thì trên lớp học sinh phải hiểu bài, và
làm bài được. Muốn vậy giáo viên phải cần phải nhận diện học sinh yếu kém,
phát hiện các nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém và tìm các biện
pháp giúp đỡ các em.
Những nguyên nhân học sinh có học lực yếu kém phân môn Tiếng Việt:
a. Về phía học sinh :
10
-Học sinh ham chơi : Chơi điện tử, game, các trò chơi khác… xao lãng việc
học.
-Tham gia vào các băng nhóm quậy phá có sẵn trong trường học và bên
ngoài từ đó ham chơi hơn ham học.
-Học sinh thích thể hiện cá tính của mình bằng cách chống đối : chống đối
trường lớp, thầy cô, cha mẹ và chống lại việc học.
-Bị mất kiến thức từ lớp dưới do bị bịnh … hoặc do một nguyên nhân nào đó
mà học sinh không đi học được… khi học những bài học sau không hiểu từ đó
sinh ra chán học, dẫn đến học tập yếu kém.
b. Do giáo viên:
- Còn một số giáo viên chưa nắm chắc những yêu cầu kiến thức của từng bài
dạy. Viêc dạy học còn dàn trải, còn nâng cao kiến thức một cách tùy tiện.

- Còn một số giáo viên chưa thực sự chú ý đúng mức đến đối tượng học sinh
yếu, kém. Chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu hiện sa sút của học
sinh.
- Tốc độ giảng dạy kiến thức mới và luyện tập còn nhanh khiến cho học sinh
yếu kém không theo kịp.
- Một số giáo viên chưa thật sự chịu khó, tâm quyết với nghề, chưa thật sự
“giúp đỡ” các em thoát khỏi yếu kém. Từ đó các em cam chịu, dần dần chấp
nhận với sự yếu kém của chính mình không tự vươn lên
- Một số giáo viên còn thiếu nghệ thuật cảm hoá học sinh yếu kém, không
gây hứng thú cho học sinh thích học Giáo viên thiếu tinh thần tự học, cập nhật
phương pháp mới, chưa sáng tạo trong việc dạy học phân môn Tiếng Việt…
c. Về phía phụ huynh:
- Do gia đình vì một lí do nào đó (về kinh tế, tình cảm vv ) không quan tâm
đến sự học hành của con cái. Phó mặc mọi việc cho nhà trường. Dẫn đến các em
không có ý thức tự giác trong học tập.
11
- Do trong gia đình có sự thay đổi lớn như: bố mẹ li dị, hay cãi vã đánh nhau,
gia đình tan vỡ vv… Làm cho trẻ bị thay đổi về tâm lí dẫn đến chán học…
- Một số cha mẹ quá nuông chìu con cái, quá tin tưởng vào chúng nên học
sinh lười học xin nghỉ để làm việc riêng (như đi chơi hay đi du lịch ) cha mẹ
cũng đồng ý cho phép nghỉ học, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh
lười học, mất dần căn bản và rồi yếu kém!
- Một số nguyên nhân khác…
Qua đó ta thấy nguyên nhân làm cho học sinh yếu kém phân môn Tiếng Việt
rất đa dạng. Nên việc giúp đỡ cho học sinh yếu kếm học tốt hơn cũng rất đa
dạng và đầy khó khăn…
Để đổi mới phương pháp dạy học sinh yếu kém phân môn Tiếng Việt thì việc
đầu tiên nhà trường luôn quan tâm đến việc tạo sự hứng thú cho học sinh trong
học tập, tạo sự ham thích trong học tập, ham thích được đi đến trường.
Và trong việc giúp đỡ học sinh yếu kém phân môn Tiếng Việt học tập có kết

quả giáo viên cần chú ý những phương pháp, biện pháp sau:
2.1 Xác định nguyên nhân, lập kế hoạch dạy học sinh yếu kém:
Ngay từ đầu năm học giáo viên phải thống kê được số lượng học sinh yếu
kém và có nguy cơ trở thành học sinh yếu kém phân môn Tiếng Việt ở lớp mình.
Phải tìm ra những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém đó ở học sinh. Phân loại học
sinh yếu kém theo những nguyên nhân chủ yếu và có kế hoạch giúp đỡ thích
hợp với từng loại. VD: Học sinh yếu kém vì mất kiến thức căn bản từ lớp dưới…
học sinh yếu kém vì ham chơi với bạn xấu, ham chơi game… học sinh học yếu vì
hoàn cảnh gia đình.
Từ đó giáo viên có kế hoạch giảng dạy thích hợp, giải quyết sự yếu kém của
học sinh từ những nguyên nhân trên. VD: Học sinh yếu vì mất kiến thức từ lớp
dưới thì tổ chức phụ đạo cho các em lấy lại kiến thức, học sinh yếu vì ham chơi
thì giáo viên và gia đình quản lí các em tốt hơn, tổ chức các hình thức dạy học
sinh động để các em ham thích học tập… học sinh học yếu vì hoàn cảnh gia
12
đình thì giáo viên phối hợp với phụ huynh để tìm biện pháp tháo gỡ… Giáo viên
cần xác định được mức độ học sinh yếu kém, như các em yếu môn gì ?… kiến
thức gì ?… Giáo viên cần làm hồ sơ để theo dõi từng em học sinh yếu phân môn
Tiếng Việt ở lớp mình… biện pháp đã đề ra cho từng học sinh, sự chuyển biến
của học sinh theo từng tháng, học kì, năm học…
2.2 Phương pháp dạy học bằng tình thương:
Đối với học sinh yếu kém phân môn Tiếng Việt thông thường giáo viên
luôn có “ác cảm” với các em : Vì các em mà giáo viên phải bỏ công sức nhiều
hơn, thành tích lớp bị hạ thấp, danh hiệu thi đua bị cắt… Cho nên khi kèm cặp
học sinh yếu tại lớp mình giáo viên thường bực bội có thái độ không tốt như la
mắng, nói nặng nói nhẹ thậm chí nhiều giáo viên còn gõ đầu, đánh đít, nhéo tai
các em… Với những hành động đó thì học sinh không thể nào học được, mỗi lần
thầy cô lại gần là sợ bị ăn đòn… nên học yếu lại càng học yếu…
Một số giáo viên hiện nay về phương pháp giáo dục còn mang ảnh hưởng
cách giáo dục xưa. Như còn dùng đòn roi, hình phạt, nhục mạ học sinh trước lớp

làm cho các em không có thiện cảm đối với giáo viên, với trường lớp, sinh ra
chán học. Để giúp đỡ học sinh yếu kém giáo viên phải biết sử dụng lời nói, cử
chỉ, tổ chức các hoạt động dẫn dắt các em vào bài học, giúp các em yêu mến bạn
bè, trường lớp, thầy cô Giáo viên muốn học sinh ham thích học thì trong tiết
dạy điều cần thiết là phải thể hiện được tác phong sư phạm mẫu mực, gần gũi,
ân cần với học sinh. Tôn trọng và đối xử công bằng với học sinh.
Trong giảng dạy giáo viên lưu ý lời nói phải nhẹ nhàng, giữa giáo viên và
học sinh luôn có sự ăn ý nhịp nhàng, khi giảng bài giáo viên phải luôn quan sát
học sinh trong lớp, đặc biệt những em học yếu hay nghịch ngợm. Mỗi lần học
sinh có ý kiến nếu trả lời sai thì phải giúp học sinh hiểu cái sai, không nên để
cho học sinh ngồi xuống mà không biết mình sai điểm nào, đừng để học sinh bị
mất mặt trước mặt bạn bè, làm trò cười cho lớp học. Không sử dụng thước làm
công cụ đánh đập học sinh, sử dụng thước nhẹ nhàng tránh việc gõ thước quá
13
mạnh làm học sinh giật mình. Biết động viên, khích lệ học sinh dù các em chưa
thật sự tiến bộ hay tiến bộ rất chậm. Giáo viên biết sử dụng năng khiếu của mình
làm tiết học thêm sinh động. Ví dụ: Tìm những câu truyện vui kể cho các em,
hay pha một vài câu hài hước để học sinh cảm thấy thoải mái Một tiết học mà
học sinh hoạt động vui vẻ, có tiếng cười sẽ có hiệu quả hơn những tiết học mà
học sinh quá nghiêm túc.
Để các em yếu mạnh dạn hơn thì giáo viên phải biết yêu thương, gần gũi, tạo
sự thân tình để các em hòa đồng vào môi trường học tập ở trường lớp. Để từ đó
các em có ấn tượng tốt với trường lớp, thầy cô mà ham thích học tập.
Giáo viên phải biết gần gũi tâm sự, với trò chuyện với những học sinh yếu
đặc biệt những em nhút nhát. Hỏi các em về chuyện gia đình, về chuyện học
hành, để các em cảm thấy thân thiện với giáo viên hơn và qua đó giáo viên sẽ
hiểu được nguyên nhân vì sao các em học yếu, hiểu về tâm tư tình cảm, hoàn
cảnh các em để có biện pháp dục tốt hơn.
Ví dụ : Nhà em ở đâu? Bố mẹ làm gì ? Hôm nay ai chở em đi học? Hôm nay
em có hiểu bài không? Có cần cô giúp gì không vv

- Nhiều khi chỉ một câu nói, một cử chỉ của thầy cô mà thay đổi cả cuộc đời
các em. Làm cho các em thấy thầy cô luôn quan tâm đến mình, không ghét bỏ
mình và các em thêm gần gũi, yêu mến thầy cô, tự tin vào bản thân mình (Như
một lời khen hay một lời khuyến kích, động viên, một cử chỉ thân mật). Đối với
những em còn thiếu tự tin thì giáo viên nên tìm lấy một ưu điểm nào đó của các
em để khen ngợi động viên. Hãy luôn khen học sinh, cố tìm ưu điểm dù nhỏ
nhất để khen.
Ví dụ : Như “Bài Tập làm văn của em hôm nay chữ viết đã tiến bộ nhiều!
Cần cố gắng hơn nữa!”. Hay “ Chà hôm nay bài từ ngữ em đã trình bày rất
tốt”. “Hôm nay em đọc bài í vấp hơn tuần trước rồi đó” Vừa tạo cho các em
sự cố gắng, nhưng lại tạo cho các em có thêm một chút tự tin vào bản thân
14
mình. Từ đó các em không còn ác cảm với trường lớp, thầy cô, với việc học
hành.
Ngoài ra cuối học kì cần phải tổ chức khen thưởng cho các em học yếu mà
học tập có tiến bộ. Nhằm động viên các em có thêm hứng thú trong học tập,
tránh tình trạng chỉ khen thưởng cho học sinh khá, giỏi
2.3 Phương pháp giúp học sinh yếu học tích cực ;
Chúng ta luôn biết học sinh yếu kém phân môn Tiếng Việt trước lớp hay rụt
rè nhút nhát, các em thường khó trả lời các câu hỏi của giáo viên dù câu hỏi rất
dễ. Vậy muốn học sinh học tập có tiến bộ trước hết giáo viên phải biết cách tổ
chức để học sinh ham thích học tập phân môn Tiếng Việt. Muốn học sinh ham
thích học thì phải tổ chức được tiết học tích cực cho học sinh. Ham thích học và
học tích cực là hai yếu tố tác động qua lại với nhau giúp cho học sinh học tập có
kết quả tốt, phát huy được khả năng học tập cao nhất.
- Giáo viên trong khi dạy, nên cố gắng làm sao trong giờ học, cho học sinh
yếu kém hoạt động càng nhiều càng tốt. Làm sao cho nhiều em được lên bảng,
được nói, được làm bài, được thực hành, được thể hiện mình. Trong tiết dạy
giáo viên nói nhiều thì kiến thức các em tiếp thu được sẽ chẳng bao nhiêu.
Nhưng khi cho các em lên bảng tự làm, tự thực hành thì các em mới khắc sâu

kiến thức qua đó cũng kích thích sự ham học ở học sinh. Kiến thức nào học sinh
yếu có thể làm được thì giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm, không nên để
học sinh khá giỏi làm hết.
VD: Trong tiết dạy môn Tập làm văn Bải tả người, giáo viên nên cho những
em yếu dàn ý chính bài văn, còn học sinh khá giỏi thì nói lên dàn ý chi tiết, hoặc
trình bày bài văn. Em yếu thì nói một câu văn để tả môt chí tiết nào đó “Tả đôi
mắt em bé” em giỏi thì tả nhiều chi tiết hơn vv…
- Như ta thấy ở tiểu học rất nhiều học sinh yếu khi làm việc một mình thì run
sợ nhưng khi có thêm bạn bè thì các em dạn dĩ hẳn lên và làm được bài. VD:
Như kêu một học sinh đọc yếu lên trước lớp đọc bài chẳng hạn thì em này không
15
thể đọc tốt được, hoặc đọc không trôi chảy, nhưng khi kêu thêm vài học sinh
khác lên đọc chung (mỗi em mỗi câu hay đoạn) thì em học sinh yếu thể hiện việc
đọc bài tốt hơn. Như vậy để tất cả các em trong một giờ học phân môn Tiếng
Việt đều tham gia tích cực đặc biệt những em học yếu, nhút nhát giáo viên cần
cho các em đó tham gia vào một hoạt động tập thể (học nhóm, thảo luận nhóm)
rồi dần dần cho các em thể hiện một mình. Hay cho một số em nào mạnh dạn, tự
tin lên trước rồi sao đó mới cho các em rụt rè, nhút nhát như lên sau. Có như vậy
các em yếu lên sau mới bình tĩnh được.
VD: Trong tiết học Từ ngữ lớp 4, 5 có phần tìm từ ngữ cùng một chủ đề. Nếu
ngay từ đầu ta gọi một em học yếu, lên bảng giới thiệu thì em đó lúng túng
không tìm được. Nhưng khi kêu một số em giỏi khá tìm từ trước và kêu những
em yếu lên sau thì gần như tất cả các em đều tìm và trả lời được.
2.4 Phương pháp giao việc cho học sinh yếu kém.
Để học sinh yếu kém phân môn Tiếng Việt học tập có kết quả chúng ta cần
cho học sinh thấy các em luôn được thầy cô tin tưởng, thương yêu, được làm
việc có ích cho trường, lớp thầy cô bằng cách giao việc cho các em làm.
Giáo viên thường xuyên tìm những việc nhỏ, thích hợp hàng ngày ở lớp để
giao các em làm. Đặc biệt những học sinh yếu lại có tính nhút nhát, rụt rè để các
em mạnh dạn, gần gũi thầy cô hơn. Và các em này sẽ rất vui, rất tự hào và cảm

thấy mình đã làm việc có ích và từ đó học tập được tốt hơn.
Ví dụ : Nhờ các em cắt dán khẩu hiệu trong những ngày đại hội, thông báo
họp sao đỏ…. Nhờ tưới cây, khiêng bàn ghế, chuyển thông báo vv…Làm cho
các em thêm gần gũi với thầy cô và cảm thấy mình được thầy cô tin tưởng giao
phó nhiệm vụ trước lớp từ đó các em có thêm chút tự tin vào bản thân mình, gần
gũi trường, lớp hơn. Ham học và cố gắng học tập hơn
Đặt biệt là những học sinh học yếu vì ham chơi, vì không chịu học thì chúng
ta cần làm cho các em này yêu thích trường lớp, rồi mới yêu thích học tập.
16
VD: Có một học sinh cá biệt lớp 4 : học lực yếu, đến trường lại hay đánh
bạn, nghịch ngợm là học sinh lưu ban nhiều năm. Giáo viên chủ nhiệm liền
phân cho em đó làm sao đỏ. (nói rằng đây là nhiệm vụ rất quan trọng muốn làm
tốt thì phải cố gắng thể mình thật tốt). Chỉ trong vòng vài ngày em đó không còn
nghịch phá nữa. Đến trường ăn mặc gọn gàng và làm công tác sao đỏ rất tích
cực. Và trong vòng một tháng học lực của em đó đã chuyển biến từ học yếu
chuyển lên trung bình và cuối năm đã trở thành học sinh khá. Đó là do khi được
phân công làm sao đỏ em đó thấy mình được tôn trọng và cố gắng xứng đáng
với sự tôn trọng đó, xứng đáng với nhiệm vụ được giao nên đã tự giác sửa mình
tốt hơn, cố gắng học tập tốt để các bạn, thầy cô tôn trọng mình hơn.
Trong giảng dạy ở lớp cũng vậy giáo viên cũng phải biết giao cho các em học
yếu bài tập ở lớp cũng như về nhà, (nhằm giúp các em lấy lại kiến thức đã mất)
lưu ý là ở mức độ vừa phải tránh ngay lúc đầu đưa ra một lượng kiến thức quá
lớn khiến các em thấy việc học quá nặng nề. Do đó giao bài về nhà cho các em
thì lần đầu bài tập nên ít và dễ sau đó nâng dần số lượng và độ khó lên. Khi giao
việc giáo viên phải biết được việc đó các em làm được không qua sức, và phải
kiểm tra thường xuyên việc thực hiện ở các em. Tránh các trường hợp học sinh
nhờ bố mẹ hay bạn bè làm giúp, phải khen ngợi khi em hoàn thành công
việc Phải luôn kiểm tra công việc đã giao
2.5 Phương pháp dạy học sinh yếu theo nhóm đối tượng
Để giúp đỡ học sinh yếu kém phân môn Tiếng Việt học tập tốt hơn thì giáo

viên cần phải dạy học theo nhóm đối tượng. Theo đó, giáo viên đứng lớp sẽ phải
phân loại lớp học thành các nhóm học sinh yếu, trung bình, khá, giỏi, để có
phương pháp hướng dẫn, giao bài tập và kiểm tra phù hợp. Giáo án không soạn
chung cho cả lớp mà kèm theo yêu cầu riêng cho từng nhóm học sinh.
Thông thường trong tiết dạy giáo viên cho học sinh hoạt động nhóm cố định
từ 6 - 8 em mà không theo đối tượng. Thì khi hoạt động chỉ có 1 - 2 em giỏi là
tích cực làm hết công việc, còn các em khác thì thụ động, không tham gia. Nên
17
không thể nắm được bài dẫn đến không hiểu bài được. Lâu dần các em này trở
nên thụ động, mất sự tự tin vào bản thân dẫn đến chán học. Bởi vậy yêu cầu giáo
trong tiết dạy phải chia nhóm theo từng đối tượng, có từng dạng câu hỏi phù hợp
cho từng nhóm đối tượng và quan tâm nhiều hơn các em yếu kém. Nên để các
em yếu kém có cơ hội thảo luận, được phát biểu, được thể hiện ý kiến mình,
trước bạn bè và trước lớp. Và khi phân nhóm theo đối tượng với yêu cầu phù
hợp thì các em thường ngày học yếu không dám thảo luận nay sẽ tự làm bài, tự
thực hành các kĩ năng, kĩ xảo từ đó giúp các em hoạt động tích cực hơn, ham
học hơn.
VD: Trong một tiết tập đọc khi tổ chức dạy hoạt động nhóm thì giáo viên
chọn 3 – 4 em đọc yếu cho ngồi thành một nhóm và đưa yêu cầu là tìm từ có
trong đoạn văn. Còn các nhóm khác có trình độ trung bình hay khá giỏi thì câu
hỏi khó hơn như dạng phải suy luận như tìm nội dung đoạn văn đó. Và như vậy
bắt buộc các em học yếu đó phải hoạt động để giải quyết những yêu cầu giáo
viên đề ra và các em không còn thụ động nữa…
- Trong các tiết rèn và ôn giáo viên bắt buộc phải dạy theo từng nhóm đối
tượng. Vì không làm như thế thì các em yếu sẽ không nắm được kiến thức bài và
giáo viên cần tập trung nhiều thời gian cho việc rèn học sinh yếu hơn, với
phương châm “Thà trường không có học sinh giỏi còn hơn có một học sinh yếu”
Trong khi dạy cần dành nhiều thời gian tới học sinh yếu để giúp các em hiểu bài,
nắm chắc kiến thức tại lớp, lấy lại kiến thức cũ…
2.6 Phương pháp giảm độ khó của câu hỏi phù hợp với học sinh yếu

- Trong lớp học những em học yếu kém thường hay rụt rè, nhút nhát. Trong
giờ học không dám giơ tay phát biểu bài. Trong tiết học chỉ có khoảng 4 đến 5
em khá giỏi thường xuyên giơ tay phát biểu còn lại đều thụ động ngồi im. Đó là
vì những câu hỏi giáo viên đưa ra quá khó, dạng phải suy luận nhiều khiến các
em không biết đáp án của mình đúng sai nên không dám trả lời. Từ đó các em
thành thói quen không giơ tay xây dựng bài nữa, đâm ra chán học và trở thành
18
học sinh yếu kém. Do đó yêu cầu giáo viên nên quan tâm đến các em yếu hay
nhút nhát, không dám xung phong lên bảng. Giáo viên phải tìm được câu hỏi dễ
để gọi các em trả lời và sau đó cho cả lớp tuyên dương để động viên các em.
Phải biết đặt câu hỏi theo từng đối tượng, đối với học sinh yếu tránh tình trạng
câu hỏi quá khó, các em khó xác định đúng, sai, suy luận nhiều. Làm cho các em
ngập ngừng không mạnh dạn phát biểu. Yêu cầu giáo viên trong một giờ học
nên đổi một số câu hỏi trong sách thành những câu hỏi dạng trắc nghiệm, hay
câu hỏi có gợi ý để các em yếu dễ dàng trả lời.
VD: Trong tiết tập đọc lớp 5 bài “Lớp học trên đường” ta có thể thay đổi
câu hỏi 3 “Tìm những chi tiết cho thấy Rê- mi là cậu bé rất hiếu học?” Bằng
câu hỏi dạng trắc nghiệm sau: “Các em hãy chọn đáp án a , b, c đúng với câu
hỏi sau: Chi tiết cho thấy Rê-mi là một cậu bé hiếu học là:
a. Lúc nào Rê-mi cũng đầy những miếng gỗ và không bao lâu đã thuộc tất cả
các chữ cái.
b. Rê-mi không dám sao nhãng một phút nào.
c. Cả hai ý trên đều đúng.
Hoặc câu hỏi: “Trong câu văn tác giả đã dùng biện pháp tu từ gì?” Thành
câu:“Trong câu văn tác giả đã dùng biện pháp tu từ nào sau đây: Nhân hóa
hay so sánh?”.
Với việc đổi câu hỏi như trên thì việc học sinh yếu sẽ trả lời dễ dàng hơn và
các em mạnh dạn xung phong trả lời từ đó các em bớt đi nhút nhát, rụt rè, ham
học và học có tiến bộ hơn.
- Ngoài ra đối với học sinh yếu giáo viên nên đưa ra những câu hỏi dạng tái

hiện lại kiến thức. Đó là những câu hỏi gồm những kiến thức đã học rồi học sinh
chỉ nhớ lại và trả lời. VD: Trong khi tìm hiểu bài mới có những lúc cần có kiến
thức cũ để tìm ra kiến thức mới thì giáo viên nên để học sinh yếu nhắc lại kiến
thức này…Phần suy luận thì để cho học sinh khá, giỏi. Hoặc để giúp học sinh
yếu tích cực trong học tập thì giáo viên nên hỏi những câu hỏi mà phần trả lời có
19
sẵn trên sách giáo khoa. VD: như tìm từ, tìm câu văn có trong bài… trong môn
tập đọc.
2.7 Phương pháp dạy theo trình độ của học sinh
Hiện nay trong một lớp, học sinh có rất nhiều trình độ khác nhau. Ví dụ: học
sinh lớp 5 học yếu toán (chỉ có khả năng làm toán ở lớp 3 hoặc lớp 4). Hoặc
yếu Tiếng Việt (mức độ đọc, hay viết văn ở mức lớp 3, 4). Đối với những em này
chúng ta không thể cho các em học lại lớp dưới. Nhưng nếu dạy theo chương
trình lớp 5 thì các em không hiểu bài, không làm được bài sinh ra chán học. Do
đó yêu cầu giáo viên khi dạy học ngoài chương trình chung của khối cần phải
dạy kiến thức lớp dưới cho từng em để các em hiểu bài dù đó là bài ở lớp dưới.
Ví dụ: Dạy bài “Chia một số cho số có hai chữ số” ở khối lớp 4. Thì với
những em học lực trung bình trở lên ta dạy bình thường còn đối với những em
yếu kém chưa thực hiện được phép chia một số cho số có một số chữ số chúng
ta hướng dẫn các em này “phép chia một số cho số có một số chữ số” (kiến
thức lớp 3). Khi các em thực hiện được rồi thì mới dạy chia cho số cho hai chữ
số.
Học sinh học yếu chủ yếu là do các em mất kiến thức dẫn đến không hiểu
bài. Dù giáo viên có tạo được sự ham thích học tập ở các em nhưng khi không
hiểu được bài thì niềm ham thích đó cũng không còn… Mà sự mất kiến thức của
các em không giống nhau trong từng lớp học. VD: em yếu môn đọc, em yếu môn
chính tả, em yếu môn toán… Trong những em yếu môn toán thì sự mất kiến thức
cũng không giống nhau, em yếu dạng toán đố, em yếu dạng toán hình… và mức
độ yếu cũng khác nhau… Vì vậy khi đã xác định được trình độ ở các em rồi thì
giáo viên nên có kế hoạch dạy theo trình độ từng em.

Ví dụ: Khi học sinh làm bài tập 35 x 8 = ? ở toán lớp 3, với bài này học sinh
làm không được thì chứng tỏ học sinh không thuộc bảng nhân 6. Vậy giáo viên
yêu cầu học sinh yếu có thể nhìn bảng nhân 8 để làm và sao đó yêu cầu em học
bảng nhân 8 sau cho thuộc. Nếu không làm vậy thì học sinh yếu không thể làm
20
bài được. Vì ở đây các em biết cách làm nhưng không làm được vì không thuộc
bảng nhân.
Để việc dạy theo trình độ từng em không ảnh hưởng chung cả lớp thì giáo
viên nên tiến hành vào tiết ôn hoặc tiết rèn. Hoặc khi giao bài về nhà cho các
em. Còn các tiết dạy học chính khóa thì giáo viên nên đến giúp đỡ từng em…
2.8 Phương pháp thư giản (vui chơi) trong các tiết học:
Trong học tập có rất nhiều môn học khô khan, nặng về kiến thức như toán,
tập làm văn, chính tả vv…Đối với học sinh thường không có hứng thú học
những môn này (trừ những em giỏi thì ham học vì có điểm cao). Như vậy để tạo
được sự hứng thú, ham thích việc học ở học sinh yếu giáo viên cần tăng cường
các trò chơi, hình thức học tập sinh động trong tiết học. Khi tổ chức một trò chơi
thì học sinh yếu sẽ tham gia hết mình và qua trò chơi giáo viên giúp học sinh
nắm được kiến thức, hiểu được bài hơn. Ngoài các trò chơi giáo viên cần tổ chức
các hình thức học tập sinh động khác để giúp học sinh yếu có hứng thú trong
học tập như đóng kịch, phỏng vấn… Trong các tiết ôn, tiết rèn giáo viên đều
phải tổ chức giờ học sinh động, vui tươi như vậy mới mang được hiệu quả cao.
Nhiều hình thức học tập sinh động khi tổ chức không nên cầu kì quá dẫn đến
mất thời gian, tốn kém… giáo viên nên chọn các hình thức học tập đơn giản
nhưng mang hiệu quả cao…
Trong thời gian chuyển tiết giữa các môn học giáo viên cần phải dành từ 5-7
phút cho học sinh vui chơi (chơi trò chơi, múa hát, kể chuyện, đóng kịch, thi
đố…). Để tạo cho học sinh những giây phút thư giãn giữa các tiết học, tạo cho
các em sự hưng phấn, thoải mái trở lại sau giờ học căng thẳng…
Để tổ chức trò chơi và các hình thức học tập sinh động khác giáo viên lưu ý
phải để cho học sinh yếu kém tham gia phải biết được trong hình thức học tập

đó học sinh yếu có thể tham gia ở phần nào.
2.9 Phương pháp tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp :
21
Để giúp đỡ học sinh yếu kém ngoài các tiết học chính khóa, giáo viên cần
thông qua các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp. Như tiết sinh hoạt lớp các hoạt
động ngoài trời…
Trong tiết sinh hoạt lớp giáo viên có thể tổ chức tuyên dương các em học
yếu (dù đó là những tiến bộ nhỏ nhất) nhằm làm cho các em có thêm hứng thú
trong học tập và để cho các em thấy mọi nổ lực các em luôn được giáo viên và
bạn bè đánh giá cao.
Giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp với tổng phụ trách đội tổ chức các hội
thi giữa các lớp để giúp các em lấy lại kiến thức… Chú ý nội dung thi chỉ dành
cho học sinh yếu và câu hỏi đơn giản các em có thể trả lời được. Tránh các cuộc
thi chỉ có các em giỏi tham gia. VD : Như thi về kiến thức tiểu học, an toàn giao
thông, phòng tránh bênh tật… Qua cuộc thi giúp các em ôn lại kiến thức và giúp
cho các em yếu ham học hơn. Phối hợp với tổng phụ trách tuyên dương các em
yếu kém có tiến bộ qua buổi chào cờ…
Hoặc giáo viên có thể tổ chức cho lớp mình hoạt động đọc lập. Giáo viên
có thể soạn một số câu hỏi (Nội dung câu hỏi là các kiến thức các em chưa nắm
bắt được) giao cho các em yếu đại diện cho các tổ về học và tìm hiểu để hôm
sau lên thi…Và khi nhận trách nhiệm này các em yếu sẽ cố gắng học để và tìm
hiểu để hôm sau lên thi đua với các bạn. Một khi có hình thức thi đua trong các
hoạt động sẽ luôn kích thích các em cố gắng và làm những việc hàng ngày các
em không làm được… VD: trong lớp 3 một số em chưa thuộc bảng nhân, giáo
viên giao cho các em đó về học để hôm sau thi với các tổ khác. Tất nhiên khi
được giao các em đó sẽ cố gắng về học để thi được tốt hơn…
2.10 Phối hợp với phụ huynh học sinh:
Học sinh học giỏi hay yếu trước hết phụ thuộc vào rất nhiều từ phía gia đình,
gia đình thiếu sự quan tâm trong việc giáo dục, chăm lo việc học hành của con
em mình. Thêm vào đó, những tác động xấu của môi trường xã hội đã lôi kéo

các em như ham chơi, đua đòi, nghe bạn bè xấu rủ rê, dẫn đến lơ là việc học
22
hành, không có kiến thức căn bản gây nên chán nản, bỏ học. Một gia đình êm
ấm, hòa thuận, cha mẹ biết chăm lo cho con cái, tạo điều kiện thuận lợi để con
em học hành, biết giáo dục con ích lợi của việc học thì học sinh sẽ học tốt hơn.
Ví dụ: Một học sinh làm hư viết, không có viết đến trường, học sinh đó sẽ sợ đi
học vì không có viết không chép bài, làm bài được, có thể sợ cô phạt. Nếu cha
mẹ kịp thời mua viết cho con, yêu cầu con cẩn thận hơn thì học sinh đó sẽ vui vẻ
đi học. Nếu bố mẹ la mắng hoặc không mua viết thì sẽ làm cho em đó đi học với
tâm trạng lo sợ thầy cô la và có thể trốn học. Từ đó trở thành học sinh yếu
kém
Vậy nhà trường cần biết phối hợp với phụ huynh trong việc tạo sự ham thích
cho học sinh khi đến trường. Hiện nay một số phụ huynh không biết cách giáo
dục con cái, thường đánh đập, la mắng khi con em mình mắc phải một lỗi lầm
nào đó ở trường lớp (như bị điểm kém, đánh nhau với bạn), làm cho các em sợ
sệt, ức chế khả năng học tập, lao động ở các em, giảm đi niềm ham thích học
tập. Do đó giáo viên chủ nhiệm cần trao đổi, hướng dẫn phụ huynh nên tạo điều
kiện tốt để cho để con em mình đến trường (bảo đảm thời gian đến trường, sắm
dụng cụ học tập, giúp con học ở nhà, cùng vui chơi học tập với con em mình,
nhắc nhở con cái giờ học…), khi giáo dục con em nên nhẹ nhàng, cần cho các
em hiểu việc đó đúng sai thay vì la mắng trừng phạt.
Việc quan tâm đến bạn bè của con em cũng rất quan trọng. Chơi với bạn xấu
trước sau gì các em cũng nhiễm thói xấu. Phụ huynh chú ý đến những thời gian
rảnh rỗi của con em mình, cần biết các em đi đâu, chơi chỗ nào. Đừng cho các
em quá nhiều thời gian tự do một mình mà cha mẹ không biết. Cần liên lạc với
giáo viên để biết tình hình của con em mình, như có đến trường không? Có đi
lao động không? Có hành vi gì cần sửa chữa vv
Khi học sinh yếu kém phụ huynh cần giúp con em lấy lại niềm tin học tập
nhận thức được học là một hoạt động đầy hứng thú. Cần có sự ham thích mới
học tốt được. Giúp con em thấy được từ những bài học trên lớp con sẽ học được

23
rất nhiều điều thú vị mà đều là những tri thức có lợi cho bản thân. Cần giúp trẻ
vượt qua khó khăn để lấy lại kiến thức đã mất, động viên con khi bị điểm kém
thì cũng không nên quá chán nản, mà nên tìm ra nguyên nhân để lần sau cố gắng
làm bài tốt hơn.
Giáo viên thường xuyên thông tin cho phụ huynh có con em học yếu kém để
phụ huynh biết. Trao đổi các biện pháp giúp học sinh học ở nhà.
III. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
Qua việc thực hiện các biện pháp trên để giúp đỡ học sinh yếu kém. Kết quả
cho thấy học sinh ham học hơn, học tập có tiến bộ, năng động trong học tập
cũng như sinh hoạt vui chơi. Số lượng học sinh bỏ học giữa chừng vì học yếu, vì
chán học không có. Từ đầu năm học số học sinh yếu kém môn tiếng việt là
17.2%, môn toán là 8.3% thì cuối học kì một vừa qua đã giảm xuống môn tiếng
việt còn 3.1%, môn toán 3.4%.
Trong công việc giúp đỡ học sinh học yếu kém học tập có tiến bộ muốn
thành công hay không thì khi tổ chức, nên thực hiện đến nơi, đến chốn. Không
nên đầu voi, đuôi chuột để rồi không có kết quả. Khi thực hiện Ban giám hiệu
phải thường xuyên theo dõi kiểm tra các các phong trào đưa ra, kiểm tra các
thành viên thực hiện để kịp thời điều chỉnh khi có sự chệch hướng.
Những gì viết trong bài này có thể ứng dụng riêng đối với từng cá nhân giáo
viên đứng lớp trong từng tiết dạy, cũng như giáo viên bộ môn. Đối với ban giám
hiệu có thể áp dụng nội dung bài viết trong nhà trường để thực hiện kế hoạch
xây dựng “Trường học không có học sinh yếu kém”, qua đó tạo sự ham thích
học tập, ham thích đến trường ở học sinh nhằm giảm thiểu số học sinh bỏ học
giữa chừng. Điều cần thiết là nên tổ chức thành buổi chuyên đề, hay tập huấn
cho giáo viên những nội dung trên để giáo viên định được hướng đi trong việc
giúp đỡ học sinh yếu kém. Tất nhiên nội dung bài viết chưa được sâu, và còn
nhiều mặt chưa được đề cập đến việc thực hiện với thời gian còn ngắn. Nên khi
24
vận dụng cần cố gắng rút thêm kinh nghiệm từ thực tế trường mình vì mỗi

trường có một điều kiện khác nhau để công việc đạt kết quả hơn.
C. KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác
Khi học sinh học yếu kém không những các em mất đi kiến thức mà các em
còn mất đi sự tự tin, tính năng động và điều này ảnh hưởng đến cả cuộc sống
sau này của các em. Nhiều em vì học yếu mà bỏ học sau này sẽ không có công
ăn việc làm tốt đẹp, năng suất lao động thấp kém ảnh hưởng đến đời sống gia
đình Do đó giúp đỡ học sinh yếu kém học tập có tiến bộ là một công việc rất
quan trọng ở nhà trường
Đổi mới phương pháp giáo dục học sinh yếu kém học tập có tiến bộ là một
trong những nhiệm vụ quan trong hiện nay. Nó đáp ứng được việc “học thật thi
thật”, việc “chạy theo thành tích” mà ngành giáo dục đang thực hiện.
Thật ra bất cứ hoạt động nào nhà trường cũng đều giáo dục cao, đều giúp cho
học sinh ham thích học tập và học tập có tiến bộ. Trong một tiết dạy, trong buổi
lao động, buổi nói chuyện, một phong trào hoạt động của đội, của nhà trường
đều cung cấp kiến thức cho học sinh, đều có thể giúp đỡ học sinh yếu kém tiến
bộ hơn. Điều quan trọng là giáo viên có biết cách áp dụng để giúp đỡ học sinh
yếu kém hay không? Theo tôi phương pháp hay nhất là chúng ta hãy làm việc
hết mình luôn quan tâm đến các em và tự đúc kết lại các kinh nghiệm cho bản
thân để năm sau làm tốt hơn năm trước. Việc giúp đõ học sinh kém học tập có
tiến bộ là một công việc lâu dài và tiến hành thường xuyên. Nếu chúng ta chú
trọng đến nó sẽ mạng lại lớp ích rất lớn cho công tác giáo dục.
II. Bài học kinh nghiệm hướng phát triển
Để việc giúp đỡ học sinh yếu kém có kết quả hơn, theo tôi, chúng ta cần phải
tiến hành một số công việc sau:
1. Ngay từ đầu năm học, sau khi tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm, giáo
viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn cần phối hợp phân tích, đánh giá kết quả
25

×