A. LỜI MỞ ĐẦU.
Trong một vài năm trở lại đây, Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi mới cơ chế kinh
tế với sự thừa nhận đa hình thức sở hữu, đa hình thức kinh doanh. Quá trình đổi mới kinh tế
ở nước ta hiện nay đã đạt được những thành tựu nổi bật. Nhưng quá trình đó càng đi vào
chiều sâu và bề rộng thì càng bộc lộ rõ những vấn đề mới cần giải quyết. Tự do, năng động,
sáng tạo, nhạy bén là thuộc tính khách quan và là yêu cầu của nền kinh tế thị trường, nhưng
gắn liền với nó là nguy cơ gian lận kinh doanh, thương mại… Hơn nữa, trong giai đoạn này
nước ta đã thực sự hội nhập vào nền kinh tế quốc tế (gia nhập WTO) thì càng cần thiết đòi
hỏi Nhà nước phải có một khung pháp lý Thương mại hoàn chỉnh để điều chỉnh các hoạt
động đó đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà
nước.
B. NỘI DUNG.
I. KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA.
Đứng trước yêu hội nhập của đất nước, ngày 14- 11- 2005 Quốc hội đã ban hành Luật
Thương mại (LTM) số 36/ 2005- QH 11 quy định về hoạt động thương mại( chính thức có
hiệu lực từ ngày 01/01/2006, thay thế LTM năm 1997) nhằm tạo thành một hành lang pháp
lý hoàn chỉnh cho các thương nhân trong hoạt động thương mại.
Cũng giống như LTM năm 1997, LTM năm 2005 cũng quy định khá đầy đủ và chi
tiết về mua bán hàng hoá cũng như HĐMBHH.
1.Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1. Khái niệm, đặc điểm.
Quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý là
HĐMBHH . HĐMBHH có bản chất pháp lý chung là hợp đồng, là sự thỏa thuận nhằm xác
1
lập,thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong mua bán. Dù LTM năm 2005 không
đưa ra định nghĩa về HĐMBHH, song có thể xác định bản chất pháp lý của HĐMBHH
trong thương mại dựa trên cơ sở của hợp đồng dân sự về hợp đồng mua bán tài sản. Nên có
thể khẳng định HĐMBHH trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài
sản. Do đó chúng ta có thể hiểu, HĐMBHH là hợp đồng được giao kết giữa các thương
nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với bên khác không phải là thương nhân trong việc
mua bán tất cả các động sản, kể cả động sản được hình thành tương lai và những vật gắn
liền với đất đai.
Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hóa, HĐMBHH có những
đặc điểm nhất định xuất phát từ bản chất thương mại của hành vi mua bán hàng hóa.
Thứ nhất: HĐMBHH được thiết lập chủ yếu giữa các thương nhân. Theo Khoản 1-
Điều 6-LTM năm 2005 “thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,
cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh”. Thương nhân có thể là thương nhân việt nam hoặc thương nhân nước ngoài. Ngoài
ra các tổ chức cá nhân không phải là thương nhân cũng co thể trở thµnh chñ thể của
HĐMBHH và khi chủ thể lựa chọn LTM để áp dụng thì hoạt động của các bªn chủ thể trong
quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo LTM.
Thứ hai: Về hình thức HĐMBHH có thể được thiết lập theo hình thức mà hai bªn thể
hiện sự thỏa thuận MBHH giữa các bên. HĐMBHH có thể được thể hiÖn dưới hình thức
bằng lời nói hoặc bằng văn bản hoặc bằng một hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong
trường hợp nhất định pháp luật bắt buộc các bên phải thiết lập HĐMBHH bằng hình thức
văn bản.
2
Thứ ba: Về đối tượng: HĐMBHH có đối tượng là hàng hóa. Theo LTM năm 2005,
thì hàng hóa bao gồm: “a, tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương
lai; b, Những vật gắn liền vớ đất đai” (Khoản 2- Điều 3- LTM năm 2005). Với cách hiểu
về hàng hóa như vậy, hàng hóa là đối tượng mua bán có thể là hàng hóa sẽ có trong tương
lai; hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động sản đươch phép lưu thông trong thương mại.
Thứ tư: Về nội dung, HĐMBHH thể hiện quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan
hệ mua bán, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên
mua và nhận tiền; còn bên mua có nghĩa vụ nhËn hàng hóa và trả tiền cho bên bán. Hành vi
của các bên trong quan hệ HĐMBHH có tính chất hành vi thương mại. Mục đích thông
thường của các bên là lợi nhuận.
1.2. Phân loại hợp đồng mua bán hàng hoá.
* Căn cứ vào phạm vi của hợp đồng có thể chia ra hai loại đó là:
- Hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước. Loại hợp đồng này đương nhiên sẽ chịu sự điều
chỉnh của pháp luật Việt Nam, cụ thể là LTM năm 2005 và các luật chuyên ngành khác.
- Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì các bên có thể thoả thuận áp dụng, có thể
là luật của Việt Nam hay luật của phía đối tác hay cũng có thể là luật của một nước thứ ba..
* Căn cứ vào cách thức thực hiện hợp đồng có thể chia ra hai loại:
- Hợp đồng mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá.
- Hợp đồng mua bán hàng hoá không qua sở giao dịch hàng hoá.
Cần lưu ý đối với loại hợp đồng mua bán qua cơ sở giao dịch hàng hoá rằng:
+ Thứ nhất hàng hoá giao dịch tại cơ sở giao dịch phải thuộc danh mục hàng hoá giao dịch
tại sở giao dịch hàng hoá do bộ trưởng bộ thương mại quyết định.
3
+ Thứ hai, theo Điều 69 của LTM năm 2005, thương nhân môi giới qua sở giao dịch về
hàng hoá chỉ được phép hoạt động tại sở giao dịch hàng hoá khi đáp ứng đủ các điều kiện
theo quy định của pháp luật; thương nhân mua bán qua sở giao dịch hàng hoá chỉ được phép
thực hiện các hoạt động mua giới mua bán qua sở giao dịch hàng hoá và không được phép
là một bên của HĐMBHH qua sở giao dịch hàng hoá.
+ Thứ ba, Điều 70 của LTM năm 2005, các hành vi bị cấm đối với thương nhân môi giới
hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá: Lôi kéo khách hàng ký kết hợp đồng bằng cách hứa
bồi thường toàn bộ hoặc một phần thiệt hại phát sinh hoặc đảm bảo lợi nhuận cho khách
hàng. Chào hàng hoặc mua giới mà khôn có hợp đồng với khác hàng . Sử dụng giá giả tạo
hoặc các biện pháp gian lận khác khi môi giới cho khách hàng. Từ chối hoặc tiến hành chậm
trễ một cách bất hợp lý việc môi giới các hợp đồng theo các nội dung đã thoả thuận với
khách hàng.
2. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá.
Nội dung của hợp đồng là tất cả những gì mà các bên thoả thuận và pháp luật quy
định đối với một hợp đồng. Mét H§MBHH sẽ có giá trị pháp lực khi thoả mãn tối thiểu
những điều kiện về nội dung mà pháp luật quy định. Khi thiếu một trong những nội dung đó
thì hợp đồng không thể phát sinh hiệu lực. Trong thực tế, hậu quả xấu đã xảy ra xuất phát từ
điểm các bên trong hợp đồng không quy định rõ ràng hoặc đầy đủ những nội dung của hợp
đồng dẫn tới có tranh chấp xảy ra các bên sẽ không có chứng cứ hoặc chứng cứ không rõ
ràng và những thiệt hại không cần thiết có thể xảy ra đối với tất cả các bên và không thể
lường trước được.
LTM năm 2005 đã không quy định về nội dung H§MBHH. Trên cơ sở việc xác lập
mối quan hệ với BLDS, khi xem xét vấn đề nội dung của HĐMBHH chúng ta có thể dựa
4
trên các quy định của BLDS, Theo đó trong HĐMBHH, các bên có thể thoả thuận về những
nội dung sau đây:
* Đối tượng của hợp đồng: Trong mua bán hàng hoá, đối tượng của hợp đồng là một
hàng hoá nhất định đây là điều khoán cơ bản của một HĐMBHH, mà khi thiếu nó
HĐMBHH không thể hình thành được do người ta không thể hình dung được các bên tham
gia hợp đồng nhằm mục đích gì, trao đổi cái gì. §ối tượng của HĐMBHH được xác định
thông qua tên gọi của hàng hoá. Trong HĐMBHH các bên có thể gi rõ tên hàng bằng tên
thông thường tên thương mại… để tránh có sự hiểu sai lệch về đối tượng hợp đồng.
* Số lượng hàng hoá: Điều khoản về số lượng hàng hoá xác định về mặt lượng đối
với đối tượng của hợp đồng. Các bên có thể thoả thuận và ghi trong hợp đồng về một số
lượng hàng hoá cụ thể hoặc số lượng được xác định bằng đơn vị đo lường theo tập quán
thương mại như chiếc, bộ, tá, mét, mét vuông, mét khối hay bằng một đơn vị nào khác tuỳ
theo tính chất của hàng hoá.
* Chất lượng hàng hoá: Chất lượng hàng hoá giúp xác định chính xác đối tượng của
hợp đồng, cái mà người mua biết tường tận với những yêu cầu được tính năng, tác dụng,
quy cách, kích thức, công suất, hiệu quả… xác định cụ thể chất lượng của sản phẩm thường
cũng là cơ sở để xác định giá cả một cách tốt nhất. Trách nhiệm của các bên thường khác
nhau tương ứng với mỗi phương pháp xác định chất lượng được thoả thuận. Thông thường
có các biện pháp xác định chất lượng như dựa vào mẫu hàng, dựa vào các tiêu chuẩn, dựa
vào mô tả tỉ mỷ, dựa vào nhãn hiệu hàng hoá hoặc điều kiện kỹ thuật…
* Giá cả hàng hoá: Các bên có quyền thoả thuận giá cả và phải được ghi cụ thể trong
hợp đồng hoặc nếu không ghi cụ thể thì phải xác định rõ phương hướng xác định giá, vì đây
là điều khoản quan trọng trong các cuộc thương lượng để đi đến ký đến hợp đồng. Để mang
5
lại lợi ích cho cả hai bên, các bên cũng có thể thoả thuận với nhau lựa chọn hình thức giảm
giá phù hợp gi trong hợp đồng.
* Phương thức thanh toán: Phương thức thanh toán là các cách thức mà bên mua
và bên bán thoả thuận, theo đó bên mua phải thanh toán cho bên bên bán tiền hàng đã mua
theo một phương thức nhất định. Có nhiều phương thức thanh toán nhưng việc lựa chọn
phương thức nào cũng xuất phát từ nhu cầu của người bán là thu tiền nhanh đầy đủ và yêu
cầu của người mua là nhận được hàng đúng số lượng, chất lượng, thời hạn như đã thoả
thuận và không có rủi ro trong thanh toán. Việc chọn phương thức thanh toán trong hợp
đồng hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên.
* Thời gian và địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng:
Thời gian thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian mà bên bán phải hoàn thành nghĩa
vụ giao hàng cho bên mua theo đúng đối tượng, đúng địa điểm đã thoả thuận trong hợp
đồng. Bên mua có nghĩa vụ và nhận hàng đúng thời gian, địa điểm và trả tiền cho bên bán.
Các bên có thể thoả thuận với nhau sao cho hợp lý căn cứ vào tình hình thực tiễn, khả năng
thực hiện của mỗi bên. Địa điểm giao hàng có thể do hai bên thoả thuận, phù hợp với điều
kiện thực tế, thuận tiện và có lợi cho cả hai bên. Trong mua bán hàng hoá, việc giao nhận
hàng hoá có thể được thực hiện trực tiếp đối với người mua hoặc thông qua người thứ ba. Vì
vậy các bên phải thoả thuận rõ thời hạn và địa điểm, từ đó xác định quyền và nghĩa vụ mỗi
bên cũng như xác định rủi ro mà mỗi bên phải gánh chịu.
II. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA.
1. Chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá.
a. Chủ thể là thương nhân. Để xác định một thoả thuận có phải là một HĐMBHH
hay không thì việc trước tiên là phải xác định một bên trong quan hệ hợp đồng đó có phải là
6
tư nhân hay không, sau đó mới xét đến đối tượng của hợp đồng. Thường nhân bao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách thường
xuyên, độc lập và có đăng ký kinh doanh.
LTM năm 2005 cũng thừa nhận thương nhân thông qua việc không đặt điều kiện
đăng ký kinh doanh là một trong những điều kiện bắt buộc để được công nhận nhưng đối
với trường hợp chưa đăng ký kinh doanh, thương nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi
hoạt động của mình. Quy định này đã được giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tế là
người không đăng ký kinh doanh nhưng có hành vi kinh doanh thì có được coi là thương
nhân không. Những quy định này lại có phần không rõ ràng vì nó không giới hạn trách
nhiệm của thương nhân trong phạm vi hoạt động thương mại. Vì vậy một tổ chức, cá nhân
trước khi đăng ký kinh doanh tiến hành các hành vi không nhằm mục đích sinh lợi vẫn có
thể phải chịu trách nhiệm như với thương nhân.
Thương nhân sẽ không bao gồm hộ gia đình, tổ hợp tác vì tuy được thừa nhận là chủ
thể của luật dân sự, có quyền hoạt động kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh, cá thể
song hộ gia đình, tổ hợp tác không phải tổ chức kinh tế, cũng chẳng phải là cá nhân.
Thương nhân gồm có thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài có thể là cá nhân,
pháp nhân hoặc chủ thể khác việc xác định tư cách thương nhân nước ngoài phải căn cứ
theo pháp luật của nước mà thương nhân đó mang quốc tịch. Thương nhân nước ngoài là
thương nhân được thành lập hoặc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước
ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận (Khoản 1, Điều 16- LTM năm 2005).
* Thương nhân là cá nhân. Để được công nhận là thương nhân thì một cá nhân phải
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và hoạt động thương mại
một cách độc lập, thường xuyên như một nghề nghiệp. Cá nhân cũng có thể trở thành tư
7
nhân ngay cả khi hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên như một nghề
nghiệp mà chưa ĐKKD.
Thương nhân là cá nhân sẽ bao gồm: Cá nhân kinh doanh; Doanh nghiệp tư nhân; Công ty
hợp doanh.
Trong lĩnh vực hoạt động thương mại do thương nhân phải chịu trách nhiệm đầy đủ
về hành vi thương mại của mình, vì vậy những người sau dây sẽ không được công nhận là
thương nhân: Người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, người đang phải chấp nhận hình phạt tù; Người đang trong thời gian bị toà án tước
quyền nghề vì các tội, buôn bán hàng cấm, kinh doanh trái phép… và các tội khác theo quy
định của pháp luật.
*Thương nhân là tổ chức. Trong thực tiễn hoạt động thương mại, thương nhân là tổ
chức, là chủ yếu của HĐMBHH. Tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp nhằm mục đích
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có ĐKKD sẽ được coi là thương
nhân. Một tổ chức được công nhân là pháp nhân khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều
84- BLDS năm 2005. Không phải tất cả những tổ chức được coi là pháp nhân đều có thể trở
thành thương nhân mà chỉ có pháp nhân nào là tổ chức kinh doanh được thành lập để hoạt
động thương mại mới trở thành thương nhân. Pháp nhân là tổ chức kinh tế gồm: Doanh
nghiệp Nhà nước; Hợp tác xã; Công ty trách nhiệm hữu hạn; Công ty cổ phần; Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Các tổ chức kinh tế khác có đủ điều kiện theo quy định là
thương nhân. Theo quy định của LTM năm 2005 hộ gia đình và tổ hợp tác không được xếp
là tổ chức hay cá nhân.
b. Chủ thể không phải là thương nhân.
8
Nếu căn cứ vào mục đích sinh lợi, thì trong rất nhiều trường hợp tổ chức, cá nhân
không phải là thương nhân cũng được coi là chủ thể của hợp đồng với thương nhân. Nghĩa
là một bên của hợp đồng là cá nhân, tổ chức hoạt động thương mại độc lập và thường
xuyên, còn bên kia là chủ thể không cần điều kiện nói trên khác với bên là thương nhân,
bên không phải là thương nhân có thể là mọi chủ thể có đủ năng lực vì hành vi để tham gia
giao kết và thực hiện HĐMBHH theo quy định của pháp luật. Đó có thể là cá nhân, cơ
quan, tổ chức có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, cũng có thể là hộ gia
đình, tổ hợp tác và không hoạt động thương mại độc lập và thường xuyên như một nghề.
2. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá.
Đối tượng của HĐMBHH là hàng hoá. Hàng hoá la những sản phẩm lao động của
con người, được tạo ra nhằm mục đích trao đổi để thoả mãn nhu cầu của con người. Hàng
hoá có thể là vật, là sức lao động của con người, là các quyền tài sản. Khoản 2- Điều 3 LTM
2005 đã mở rộng hàng hoá hơn. Theo đó hàng hoá bao gồm tất cả các động sản, kể cả động
sản hình thành trong tương lai, và các vật gắn liền với đất đai. Tuy nhiên, khái niệm về
hàng hoá vẫn còn sự hạn chế, chúng ta dễ dàng nhận thấy trong quy định này hàng hoá chỉ
bao gồm các loại tài sản hữu hình. Như vậy các loại tài sản vô hình khác như quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu trí tuệ… chưa được thừa nhận là hàng hoá.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu hàng hoá trong HĐMBHH bao gồm tất cả các động
sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai. Và các vật gắn liền với đất đai tuy nhiên, khi
các chủ thể giam gia vào quan hệ HĐMBHH cần phải xem hàng hoá mà mình định mua
hoặc bán là cái gì, nó có thuộc danh mục hàng cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh hoặc
hàng kinh doanh có điều kiện hay không?
9
Những hàng hoá cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện như: Vũ khí, đạn
dược, quân trang, quân dụng và phương tiện kỹ thuật chuyên dùng của các lực luợng vũ
trang; Chất ma tuý; Một số hoá chất có tính độc hại mạnh; Các hiện vật thuộc di tích lịch sử,
văn hoá, bảo tàng; Các sản phẩm văn hoá phản động, đồi truỵ, mê tín dị đoan hoặc có hại tới
giáo dục nhân cách;Thuốc lá điếu, sản xuất tại nước ngoài; Các loại pháo; Các loại thuốc
phòng bệnh, chữa bệnh cho người và gia súc thuốc bảo vệ thực vật và các trang thiết bị,
dụng cụ y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam... Những hàng hoá, dịch vụ thương mại
hạn chế kinh doanh như: Hàng hoá có chứa chất phóng xạ, thuốc bảo vệ thực vật thuộc
danh mục hạn chế sử dụng tại Việt Nam…
* Những hàng hoá, dịch vụ thương mại kinh doanh có điều kiện gồm các loại như: Hoá
chất độc hại và sản phẩm có hoá chất độc hại; Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh, các loại
vắc xin, sinh phẩm, trang thiết bị, dụng cụ y tế;…
Để biết thêm chi tiết về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh hạn chế kinh doanh và
kinh doanh có điều kiện chúng ta cần tìm hiểu Nghị định số 59/2006/NĐ - CP ngày
12/06/2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế
kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá.
Hình thức của HĐMBHH là cách thức thể hiện ý chí thoả thuận giữa các bên tham
gia quan hệ hợp đồng. Nó có thể thực hiện bằng lời nòi, bằng văn bản hoặc được xác định
bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại HĐMBHH mà pháp luật quy định phải được lập thành
văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Hình thức văn bản bao gồm cả điện báo, telex,
Fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác.
10