Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.46 KB, 93 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong xã hội hiện đại, các quốc gia, một mặt nỗ lực hướng vào và
phát huy mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế, nâng
cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra bước phát triển bền vững và
ngày càng phồn vinh cho đất nước; mặt khác, không ngừng hoàn thiện hệ
thống (an sinh xã hội) ASXH, trước hết là bảo hiểm xã hội (BHXH) để giúp
cho con người, người lao động có khả năng chống đỡ với các rủi ro xã hội,
đặc biệt là rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro xã hội khác. Kinh tế ngày
càng phát triển theo hướng thị trường, thì ASXH càng phải đảm bảo tốt hơn.
Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực
hiện các chính sách xã hội đối với người lao động. Chính vì vậy, ngay từ khi
thành lập nước, Chính phủ đã ban hành các đạo luật về BHXH. BHXH đã
không ngừng phát triển và trong từng thời kỳ nó đã đóng vai trò không nhỏ
trong việc đảm bảo ASXH cho đất nước.
Tuy nhiên, trải qua một thời gian dài BHXH cũng chỉ phục vụ đối
tượng người lao động thuộc các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước. Đến ngày 1
tháng 1 năm 1995, Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành, tại Điều 140 đã quy
định các loại hình BHXH bắt buộc hoặc tự nguyện được áp dụng đối với từng
loại đối tượng và từng loại doanh nghiệp để bảo đảm cho người lao động
được hưởng các chế độ bảo hiểm thích hợp.
Thi hành bộ luật này, ngày 26/01/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 12/CP quy định Điều lệ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước
và Nghị định 45/CP ngày 15/07/1995 đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ,
công nhân viên quốc phòng. Năm 2007, dân số cả nước có khoảng 85,2 triệu
người, lực lượng lao động có khoảng 46,6 triệu người. Lao động có việc làm
1
trong nền kinh tế quốc dân khoảng 45,6 triệu người, trong đó đối tượng tham
gia BHXH bắt buộc (lao động làm công ăn lương hay còn gọi là lao động khu
vực chính thức) có khoảng 12,3 triệu người (27% lực lượng lao động) [26].
Còn lại 33,3 triệu lao động (73%) làm việc trong nông nghiệp (nông dân), khu


vực phi nông nghiệp trong nông thôn, lao động tự do hành nghề (kể cả lao
động nhập cư), lao động trong hộ gia đình sản xuất kinh doanh có thể ở thành
thị…(lao động khu vực phi chính thức) trong lực lượng lao động chưa tham
gia BHXH. Như vậy, BHXH mới chỉ tập trung chủ yếu ở khu vực chính thức
còn BHXH khu vực khu vực phi chính thức phát triển chưa đáng kể cả về quy
mô và chất lượng. Đến 2009, dân số cả nước có khoảng 86,1 triệu người, lực
lượng lao động có khoảng 49,2 triệu người (57,4%). Lao động có việc làm
trong nền kinh tế quốc dân khoảng 47,7 triệu người, trong đó lao động làm
công ăn lương (khu vực chính thức) có khoảng 18.2 triệu người (38,2% lực
lượng lao động), còn lại 29,5 triệu lao động (61,8%) thuộc khu vực phi chính
thức [28]. Sau hai năm thực hiện BHXH tự nguyện theo Luật BHXH số 71, số
lượng người tham gia BHXH tự nguyện còn rất hạn chế chỉ chiếm khoảng
0,15% số lao động thuộc khu vực này.
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước hội nhập
sâu vào nền kinh tế thế giới, thì hệ thống ASXH, nhất là BHXH phải được
phát triển và hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của người lao động, của nhân dân,
là một trong những nhu cầu rất cơ bản của con người. Bảo đảm nhu cầu về
ASXH, trước hết là nhu cầu về BHXH, là một trong những mục tiêu rất quan
trọng, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng phù
hợp với xu thế chung của cộng đồng quốc tế hướng tới một xã hội phồn vinh,
công bằng và an toàn. Sự phát triển kinh tế thị trường đã mang lại cho đất
nước những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội. Kinh tế tăng trưởng nhanh,
cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thu nhập bình quân của người
lao động ngày càng cao, đời sống kinh tế và xã hội của nhân dân có sự cải
2
thiện rõ rệt. Vấn đề cải thiện và nâng cao mức sống của người lao động luôn
là mục tiêu trước mắt, cũng như lâu dài của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Bên cạnh việc ban hành các chính sách nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển, Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các chính sách xã
hội đối với người lao động. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX

của Đảng đã chỉ rõ: "Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm xã hội
và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội cho mọi người lao
động, mọi tầng lớp nhân dân". Vì vậy, việc phát triển BHXH tự nguyện đối
với người lao động khu vực phi chính thức là hết sức cần thiết.
Luật BHXH ra đời có hiệu lực thi hành từ năm 2007. Riêng chế độ
BHXH tự nguyện được áp dụng từ năm 2008. Đây là luật đầu tiên ở Việt Nam
đó thể chế hóa ở mức cao của một nhu cầu rất cơ bản về ASXH của con người
(bao gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp), trong đó
BHXH tự nguyện chủ yếu cho đối tượng là người lao động khu vực phi chính
thức tức là người lao động làm việc không thuộc phạm vi tham gia BHXH bắt
buộc. Như vậy, lần đầu tiên người lao động ở mọi khu vực có quyền tham gia
BHXH và được thụ hưởng lợi ích từ BHXH. Việc triển khai BHXH tự
nguyện mặc dù còn mới, nhưng do hệ thống BHXH đã phân cấp tổ chức bộ
máy hoạt động đến cấp huyện và có đại lý đến cấp xã, phường rất thuận lợi
cho người lao động tiếp cận để tham gia. Tuy nhiên, qua hai năm triển khai
thực hiện, số lượng người lao động tham gia BHXH tự nguyện ở khu vực phi
chính thức còn rất hạn chế (khoảng 41.000 người) chưa đáp ứng được nhu cầu
của người lao động khu vực phi chính thức, cũng như định hướng phát triển
của Đảng, Nhà nước.
Nguyên nhân số lượng người tham gia BHXH tự nguyện ở nước ta
còn ít là do: trình độ học vấn và nhận thức xã hội còn nhiều hạn chế; lao động
phần lớn chưa qua đào tạo; việc làm bấp bênh; thu nhập thấp là những vấn đề
ảnh hưởng lớn đến việc triển khai thực hiện BHXH tự nguyện cho người lao
3
động thuộc khu vực này. Vấn đề cần đặt ra là làm thế nào để người lao động
nhận thức được sự cần thiết tham gia BHXH; Giải pháp nào giải quyết việc
tham gia BHXH của người lao động khi thu nhập bấp bênh; Vấn đề thể chế và
tổ chức thực hiện, đội ngũ cán bộ quản lý. Xuất phát từ những lý do trên, tôi
đã chọn đề tài "Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức
ở Việt Nam" làm đề tài luận văn.

Luận văn nhằm bổ sung, hoàn thiện và góp phần tháo gỡ những vướng
mắc trong quá trình phát triển BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức ở
nước ta hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của luận văn
Ở nước ta, BHXH đã được hình thành ngay từ những năm đầu thành
lập nước, tuy nhiên chỉ áp dụng hình thức BHXH bắt buộc. Cùng với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đòi hỏi cần phải đổi mới và hoàn
thiện hệ thống BHXH theo cả hai hình thức bắt buộc và tự nguyện. Chính vì
vậy những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này, tuy
nhiên tập trung chủ yếu về lĩnh vực BHXH bắt buộc.
Đối với BHXH tự nguyện, các công trình nghiên cứu đã đề cập tới
phải kể đến là: "Cơ sở lý luận về việc thực hiện các loại hình bảo hiểm xã hội
tự nguyện ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Tiến Phú, đề tài cấp Bộ năm 2001,
trong đó tác giả mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, làm cơ
sở khoa học cho việc thực hiện loại hình BHXH tự nguyện ở Việt Nam, chứ
chưa nghiên cứu sâu về nội dụng, hình thức, tổ chức quản lý quá trình phát
triển loại hình BHXH tự nguyện; Hai công trình nghiên cứu tiếp theo là:
"Nghiên cứu mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đối với người lao
động tự tạo việc làm và thu nhập" của tác giả Bùi Văn Hồng, đề tài cấp Bộ
năm 2002; "Giải pháp mở rộng đối tượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội
khu vực kinh tế tư nhân theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước" của
tác giả Kiều Văn Minh, đề tài cấp Bộ năm 2003 tập trung nghiên cứu các giải
4
pháp mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, chưa đề cập đầy đủ mối
quan hệ lợi ích giữa người lao động khu vực phi chính thức và chế độ BHXH
tự nguyện; Đề tài "Cơ sở khoa học quản lý và tổ chức thu bảo hiểm xã hội tự
nguyện" của tác giả Nguyễn Anh Vũ, đề tài cấp Bộ năm 2003, mới chỉ đề cập
đến vấn đề thu BHXH tự nguyện; Công trình "Nghiên cứu xây dựng lộ trình
tiến tới thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động" của tác giả Nguyễn
Tiến Phú, đề tài cấp Bộ năm 2004, đã tập trung nghiên cứu lộ trình và các

bước tiến hành thực hiện BHXH tự nguyện, nhưng nghiên cứu này thực hiện
trong bối cảnh chưa có Luật BHXH; Đề tài "Mô hình thực hiện bảo hiểm xã
hội tự nguyện ở một số nước trên thế giới và những bài học kinh nghiệm có thể
vận dụng vào Việt Nam" của tác giả Đào Thị Hải Nguyệt, đề tài cấp Bộ năm
2007, tập trung nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài trong việc thực hiện
BHXH tự nguyện; Đề tài "Khảo sát về triển vọng tham gia bảo hiểm xã hội tự
nguyện cho khu vực phi chính thức ở Việt Nam: Kiến nghị chính sách", đề tài
cấp Bộ năm 2007 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Ngân hàng thế
giới, đề tài tập trung nghiên cứu và đưa ra cơ sở để triển khai Luật BHXH về
BHXH tự nguyện; Đề tài "Cơ sở khoa học của việc xây dựng, hoàn thiện hệ
thống chính sách an sinh xã hội ở nước ta giai đoạn 2007-2015", đề tài cấp bộ
của tác giả Mai Ngọc Cường - Trường Đại học Kinh tế quốc dân, đề tài này
nghiên cứu tổng thể hệ thống ASXH ở nước ta. Từ trước năm 2008 có đề cập
đến một số cơ sở để xây dựng chính sách về BHXH tự nguyện.
Nhìn chung, các nghiên cứu trên đã góp phần cung cấp cơ sở khoa học
cho việc xây dựng và thực hiện BHXH tự nguyện ở nước ta những năm qua,
nhưng vẫn mới là những nghiên cứu bước đầu, còn chưa đầy đủ, thiếu hệ thống,
đặc biệt chưa cập nhật được những xu hướng phát triển mới của hệ thống
BHXH tự nguyện, trong bối cảnh đất nước chuyển mạnh sang nền kinh tế thị
trường, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực và điểm cần nhấn
mạnh đó là các nghiên cứu trên thực hiện trong điều kiện Luật BHXH, về
BHXH tự nguyện chưa được thực thi.
5
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng việc tham gia BHXH và khả năng tham gia
BHXH tự nguyện của người lao động khu vực phi chính thức.
- Đề xuất các giải pháp phát triển BHXH tự nguyện ở Việt Nam trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn

- Làm rõ thêm cơ sở lý luận về BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức.
- Đánh giá kết quả thực hiện và nêu những vấn đề đang đặt ra cho quá
trình phát triển BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức ở nước ta.
- Dự báo khả năng, định hướng phát triển và giải pháp thực hiện
BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức ở nước ta đến 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên các phương pháp sau: phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp hệ thống, khái quát, đối chiếu
và so sánh, thống kê để phân tích, đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề nghiên
cứu. Đề tài nghiên cứu trên dựa trên các quan điểm, chính sách, định hướng
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và ASXH ở nước ta hiện nay.
5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lao động khu vực phi chính thức
và tình hình thực hiện BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi chính
thức ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Khu vực phi chính thức và BHXH tự nguyện áp dụng đối với lao động
khu vực phi chính thức ở Việt Nam giai đoạn 2007 đến 2015.
6
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm các vấn đề lý luận cơ bản về BHXH tự
nguyện; xác định vai trò của BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi
chính thức.
- Phân tích, đánh giá kết quả tổ chức thực hiện BHXH tự nguyện đối
với lao động khu vực phi chính thức ở Việt Nam đến cuối năm 2009.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển BHXH tự nguyện đối với lao
động khu vực phi chính thức ở Việt Nam đến năm 2015.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm 3 chương, 11 tiết.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI CHÍNH THỨC
1.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI CHÍNH THỨC Ở VIỆT NAM
1.1.1. Khu vực phi chính thức và vai trò của nó trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm
Trên thế giới, có nhiều khái niệm về khu vực phi chính thức, nhưng
theo ý nghĩa trong lĩnh vực nghiên cứu của đề tài này thì khu vực kinh tế phi
chính thức được hiểu theo một cách đơn giản nhất là các đơn vị sản xuất, kinh
doanh cá thể không có giấy phép kinh doanh, hoặc có đăng ký kinh doanh
nhưng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp. Còn khái
niệm khu vực phi chính thức được thông qua tại Hội nghị Quốc tế các nhà
Thống kê lao động (ICLS) lần thứ 15 như sau: Khu vực phi chính thức mang
những nét đặc trưng chủ yếu của những đơn vị tham gia vào quá trình sản xuất
ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ với mục tiêu ban đầu là tạo ra việc làm và
thu nhập cho những người có liên quan. Những đơn vị này thường được tổ
chức hoạt động ở mức thấp, sản xuất kinh doanh ở quy mô nhỏ, với không
hoặc rất ít sự phân chia giữa lao động và vốn là các yếu tố đầu vào của sản
xuất. Các mối liên hệ việc làm - nếu có - chủ yếu dựa trên sự tình cờ, quan hệ
họ hàng hoặc quan hệ cá nhân, sự quen biết hơn là dựa trên các thỏa thuận
hợp đồng với sự bảo đảm chính thức.
Như vậy chúng ta có thể hiểu khu vực phi chính thức là khu vực tự
làm, lao động tự do hành nghề và lao động làm thuê nhưng chưa được điều
chỉnh của Bộ luật lao động.
8
1.1.1.2. Vị trí, vai trò của khu vực phi chính thức

Ở nhiều nước đang phát triển trên thế giới, khu vực kinh tế phi chính
thức giúp 60% lao động tìm được cơ hội việc làm. Ở Việt Nam, những nghiên
cứu mới đây của Tổng cục Thống kê thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chỉ ra
rằng khu vực kinh tế chính thức chiếm khoảng gần 30% việc làm. Số còn lại
làm việc trong khu vực phi chính thức.
Lao động khu vực phi chính thức chiếm tỷ lệ lớn, bao gồm lao động
làm việc trong nông nghiệp, nông thôn, lao động tự do, lao động trong kinh
tế hộ gia đình, sản xuất kinh doanh cá thể…, chiếm trên 60% lực lượng lao
động của các nước; góp phần quan trọng vào an ninh lương thực quốc gia,
sản xuất các sản phẩm hàng hóa phục vụ dân sinh và cho xuất khẩu, tạo
nhiều việc làm cho người lao động, đóng góp khoảng 20% vào GDP của
quốc gia. Có thể nói khu vực kinh tế phi chính thức là một trong những khu
vực kinh tế năng động, nó không chỉ góp phần tạo ra sản phẩm, việc làm cho
người lao động, mà còn góp phần quan trọng trong quá trình chuyển đổi nền
kinh tế từ kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường. Rất nhiều doanh nghiệp phát
đạt của Việt Nam ngày nay có khởi nguồn từ khu vực kinh tế phi chính thức.
Khu vực này tuy không tạo nên những đột biến về kinh tế, nhưng đó để lại
những dấu ấn quan trọng trong quá trình chuyển đổi và phát triển của nền
kinh tế Việt Nam. Đây là khu vực kinh tế mở ra sớm nhất, mạnh nhất và với
tốc độ nhanh nhất khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới giữa thập niên
80 của thế kỷ trước. Đây cũng là khu vực kinh tế đóng vai trò quan trọng
đưa nền kinh tế Việt Nam vượt qua thời kỳ khó khăn đầu thập niên 90 của
thế kỷ trước. Khu vực này còn thu hút nhiều lao động bị dôi dư, khi các
doanh nghiệp Nhà nước tổ chức sắp xếp lại, đồng thời đó lấp được khoảng
trống thiếu hụt về việc làm và thu nhập đối với một bộ phận lớn lao động khi
nền kinh tế chuyển đổi. Với đặc thù là quy mô nhỏ, hoạt động linh hoạt, đòi
hỏi ít vốn và các nguồn lực khác nên khu vực kinh tế phi chính thức đã đóng
9
vai trò quan trọng trong những nỗ lực xóa đói, giảm nghèo ở nước ta. Đặc
biệt, gần đây nhất, khi nền kinh tế Việt Nam chịu tác động chung của cuộc

khủng hoảng kinh tế - tài chính của thế giới, thì khu vực kinh tế phi chính
thức đó chứng tỏ sự năng động của mình, thu hút hàng vạn lao động bị mất
việc làm từ khu vực chính thức và nhờ vậy mà đó không tạo nên cú sốc về
việc làm và thu nhập đối với xã hội.
Nhận thức được vai trò quan trọng của khu vực kinh tế phi chính thức
trong việc tạo việc làm, thu nhập và giảm nghèo nên trong những năm qua,
Việt Nam đó không ngừng bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính
sách hỗ trợ khu vực kinh tế phi chính thức cũng như bảo vệ quyền lợi cho lực
lượng lao động làm việc tại khu vực này. Với tỷ trọng lao động làm việc trong
khu vực kinh tế chính thức còn thấp như hiện nay thì trong những năm tới,
khu vực kinh tế phi chính thức sẽ tiếp tục là một bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế Việt Nam. Bởi vậy, Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục bổ
sung, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách tập trung vào những nội dung:
ASXH, học nghề, an toàn vệ sinh lao động, tiếp cận thị trường,.. cho lao động
làm việc ở khu vực kinh tế phi chính thức.
1.1.2. Khái niệm, bản chất bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.1.2.1 Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện
Bảo hiểm xã hội có lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu và sự tồn
tại của nó là tất yếu, có nhiều khái niệm về BHXH do có nhiều cách tiếp cận
BHXH khác nhau. Nhưng khái niệm được hiểu một cách chính xác nhất theo
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù
đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố
rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, bằng cách
hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của người
sử dụng lao động, người lao động và sự bảo trợ của Nhà nước, nhằm đảm bảo
10
an toàn đời sống cho người lao động và cho gia đình họ, gúp phần bảo đảm an
toàn xã hội.
Với tác dụng to lớn trong việc giảm gánh nặng ngân sách, cải thiện đời
sống cho đối tượng, bảo đảm ASXH bền vững, BHXH phát triển rộng rãi bảo

đảm cho mọi người lao động đều được tham gia, trong xã hội xuất hiện hình
thức BHXH tự nguyện. Hiện nay, trên thế giới tồn tại hai mô hình BHXH tự
nguyện: thứ nhất, BHXH tự nguyện áp dụng như là một hình thức BHXH bổ
sung cho BHXH bắt buộc; thứ hai, BHXH tự nguyện mở cho bất cứ người lao
động nào tự nguyện tham gia. Mặc dù mang tính chất tự nguyện nhưng chính
sách BHXH tự nguyện vẫn là chính sách do Nhà nước ban hành nhằm đảm
bảo quyền lợi cho các bên tham gia. Nhà nước quy định mức đóng góp để
hình thành Quỹ BHXH tự nguyện đủ lớn để chi trả cho người tham gia
BHXH tự nguyện và xây dựng các chế độ mà người tham gia BHXH được
hưởng (bao gồm điều kiện hưởng, mức hưởng) để bảo đảm bù đắp rủi ro cho
người tham gia BHXH tự nguyện. Dưới góc độ tiếp cận đó, có thể đưa ra khái
niệm về BHXH tự nguyện như sau:
Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại hình BHXH do Nhà nước ban
hành để đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao
động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao
động bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự tự
nguyện đóng góp một phần thu nhập của người lao động, người sử dụng lao
động, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và cho gia đình họ,
gúp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Như vậy, loại hình BHXH tự nguyện chỉ có thể được hình thành và
thực hiện trên cơ sở:
- Có nhiều người lao động tham gia và có thể cả người sử dụng lao
động tự nguyện tham gia với điều kiện: có nhu cầu thực sự về BHXH; Có khả
11
năng tài chính để đóng phí BHXH tự nguyện; có sự thống nhất với những quy
định cụ thể (mức đóng, mức hưởng, quy trình thực hiện, phương pháp quản
lý, sử dụng quỹ BHXH tự nguyện…) của loại hình BHXH tự nguyện.
- Có tổ chức, cơ quan đứng ra thực hiện BHXH tự nguyện.
- Được Nhà nước bảo hộ và hỗ trợ khi cần thiết.
1.1.2.2. Bản chất bảo hiểm xã hội tự nguyện

* Bản chất kinh tế của BHXH tự nguyện
Bản chất kinh tế của BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng
thể hiện ở chỗ những người tham gia cũng đóng góp một khoản tiền trích
trong thu nhập (khoản đóng góp này sau khi đó chi tiêu cho các nhu cầu tối
thiểu và các nhu cầu cần thiết và không ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản
xuất - kinh doanh của cá nhân) để lập một quỹ dự trữ. Mục đích của việc
hình thành quỹ này để trợ cấp cho những người tham gia BHXH tự nguyện
khi gặp rủi ro dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập. Như vậy BHXH cũng là quá
trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ
phận của GDP được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh
nhu cầu về BHXH như ốm đau, sinh đẻ, già yếu, chết... Xét trong nội tại
BHXH, sự phân phối của BHXH được thực hiện theo cả chiều dọc và chiều
ngang. Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối giữa chính bản thân
người lao động theo thời gian (giữa thời gian lao động và thời gian nghỉ
hưu). Phân phối theo chiều dọc là sự phân phối giữa những người khỏe
mạnh với người ốm đau; giữa người trẻ và người già; giữa người có thu
nhập cao với người có thu nhập thấp. Nhờ sự phân phối lại thu nhập mà đời
sống của người lao động và gia đình họ luôn được đảm bảo trước những bất
trắc và rủi ro xã hội.
Tóm lại, BHXH tự nguyện được đặc trưng bằng sự vận động của các
nguồn tài chính trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH tự nguyện
12
nhằm góp phần ổn định cuộc sống của người tham gia và gia đình họ khi gặp
rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng thu nhập từ lao động.
* Bản chất xã hội của BHXH tự nguyện
Bản chất xã hội của BHXH tự nguyện được thể hiện ngay trong mục
tiêu của nó. BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Mục tiêu của bất
kỳ hệ thống BHXH nào cũng là mục tiêu xã hội. Điều này được thể hiện
thông qua việc chi trả chế độ BHXH. Người tham gia BHXH tự nguyện sẽ
được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị giảm hoặc mất khả

lao động. Do có sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHXH tự
nguyện nên mặc dù chỉ đóng một phần nhỏ trong thu nhập của mình cho
Quỹ BHXH tự nguyện, nhưng có thể được bồi hoàn một khoản thu nhập đủ
lớn để giúp họ trang trải rủi ro. Ở đây, Quỹ BHXH tự nguyện đó thực hiện
nguyên tắc "lấy của số đông, bù cho số ít" và BHXH tự nguyện được hiểu
như một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi
thu nhập của họ bị giảm, bị mất. Trên góc độ vĩ mô, BHXH tự nguyện gúp
phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, gúp phần xóa đói
giảm nghèo.
Tóm lại, hoạt động BHXH tự nguyện không vì mục tiêu lợi nhuận, mà
hoạt động vì mục đích bảo đảm sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, góp
phần ổn định và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Điều này giải thích tại sao BHXH
được coi là một chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia.
Tuy nhiên bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHXH không tách
rời mà đan xen với nhau. Khi nói đến sự đảm bảo kinh tế cho người lao động
và gia đình họ là nói đến tính xã hội của BHXH. Ngược lại khi nói đến sự
đóng góp ít, nhưng lại được bù đắp đủ trang trải mọi rủi ro, thì cũng đã đề cập
đến tính kinh tế của BHXH.
13
1.2. NỘI DUNG CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
1.2.1. Đối tượng tham gia, mức đóng góp, các chế độ bảo hiểm xã
hội tự nguyện
Trong Công ước 102 (ILO, 1984) quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội
của Tổ chức lao động quốc tế quy định 9 chế độ BHXH, nhưng không bắt
buộc các quốc gia phải thực hiện cả 9 chế độ đó mà chỉ khuyến khích các
nước thành viên thực hiện ít nhất 3 chế độ (đặc biệt lưu ý chế độ 3, 4, 5, 8, 9).
1. Chăm sóc y tế
2. Phụ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già

5. Trợ cấp tai nạn lao động
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp thai sản
8. Trợ cấp tàn phế
9. Trợ cấp mất người nuôi dưỡng
Cơ sở để xác định thực thi mỗi chế độ BHXHTN là căn cứ vào trình
độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Điều đó cần phải được cụ thể
hóa xem xét trên các nội dung sau đây:
- Đối tượng tham gia: Về nguyên tắc mọi người lao động có nhu cầu
đều được tham gia BHXHTN. Tuy nhiên, ở hầu hết các nước đều thực hiện
cách tiếp cận từ từ để mở rộng đối tượng trong một hệ thống BHXHTN. Khi
xác định đối tượng của BHXHTN, cần thiết xác định phạm vi và đối tượng
tham gia và những đối tượng bị loại trừ khỏi hệ thống. Việc xác định này phải
dựa trên cơ sở điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước, trình độ quản
14
lý của cơ quan BHXHTN và các điều kiện khác như truyền thống, đất đai,
những hệ thống sở hữu đất đai, mùa vụ và những thiên tai, giá cả được đảm
bảo và ổn định, hỗ trợ khuyến mãi, cải thiện dịch vụ y tế... Do đó đối với lao
động trong nông nghiệp và nông thôn, trên thế giới không có mô hình đơn
độc, có phạm vi quốc tế rộng khắp, thống nhất. Ngay cả khi chúng ta nghiên
cứu chính sách BHXHTN đối với người lao động trong khu vực nông, ngư và
tiểu thủ công nghiệp cũng cần phải dựa trên tính đặc thù của từng nhóm người
lao động, mà đưa ra những chính sách phù hợp cho từng đối tượng.
- Về mức đóng góp: theo loại hình BHXHTN bao gồm nhiều loại hình
lao động có các hình thức và mức thu nhập khác nhau, nên phải xác định mức
đóng BHXHTN sao cho nhiều đối tượng có thể tham gia, đảm bảo cho việc
hạch toán cân đối thu chi BHXHTN được thống nhất, dễ dàng.
- Về chế độ: đối với loại hình BHXHTN, lựa chọn mức độ đóng góp
để chi các chế độ và nhu cầu của số người tham gia.
- Xác định mối quan hệ giữa mức đóng và mức hưởng: đây là một vấn

đề rất quan trọng đảm bảo việc thực hiện BHXHTN đạt kết quả tốt.
- Quỹ BHXHTN phải được đầu tư tăng trưởng. Đây là nội dung rất
quan trọng, bởi nó đảm bảo quỹ BHXHTN được bảo toàn, tăng trưởng, hoạt
động đầu tư của quỹ BHXH không phải chịu thuế.
- Nguyên tắc lấy số đông bù số ít: phải tạo nên sự ràng buộc mối quan
hệ lâu dài vững chắc giữa đóng và hưởng BHXHTN.
Ở nước ta, việc xây dựng và thực hiện BHXH tự nguyện cho lao động
khu vực phi chính thức đã được Đảng và Nhà nước có chủ trương và ban
hành nhiều văn bản quy định thực hiện, như: Nghị quyết đại hội VIII, đặc biệt
là Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: "phải thực hiện chế độ BHXH đối với mọi
người lao động ở các thành phần kinh tế".
15
1.2.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội tự nguyện
Trong đời sống kinh tế - xã hội, BHXH xã hội nói chung và BHXH tự
nguyện nói riêng đóng vai trò to lớn được thể hiện trên các mặt sau:
- BHXH tự nguyện góp phần ổn định đời sống của người tham gia
BHXH, đảm bảo an toàn xã hội. Những người tham gia BHXH tự nguyện và
gia đình họ sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị suy
giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm hoặc chết. Nhờ có sự đảm bảo
thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người tham gia BHXH tự nguyện
nhanh chóng khắc phục được những tổn thất vật chất, sớm phục hồi sức khỏe,
ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình lao động, hoạt động bình thường của
bản thân.
- BHXH tự nguyện góp phần thực hiện công bằng xã hội. Phân phối
trong BHXH là sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại
giữa những người có thu nhập cao, thấp khác nhau theo xu hướng có lợi cho
những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người
khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải
những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy,
BHXH tự nguyện góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và

người nghèo.
- BHXH tự nguyện góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm
bảo an toàn cho sản xuất và đời sống xã hội của con người.
- BHXH tự nguyện góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế của đất nước.
1.2.3 Nguyên tắc hoạt động
Nguyên tắc BHXH tự nguyện là những quy định nhằm đảm bảo cho
các hoạt động BHXH tự nguyện diễn ra bình thường, đạt được mục tiêu mong
muốn của nó. Nguyên tắc của BHXH tự nguyện là những định hướng, những
16
quy định và những phương thức hoạt động của cả hệ thống BHXH nhằm đạt
được những mục tiêu đề ra. Theo nghĩa đó, BHXH tự nguyện phải được xây
dựng trên nền tảng các nguyên tắc sau:
1.2.3.1. Nguyên tắc tự nguyện
BHXH tự nguyện được xây dựng trên cơ sở tự nguyện của người lao
động với tư cách là người tham gia BHXH cũng là người hưởng BHXH.
Trước hết chúng ta cần làm rõ chủ thể tham gia BHXH xét về mặt quan hệ
sản xuất và quan hệ lao động. Đối tượng này vừa là chủ tư liệu sản xuất (chủ
yếu là ruộng đất, công cụ lao động thủ công, nhà xưởng gắn liền với nơi ở,
vốn tự có là chính và một phần quan hệ tín dụng…), vừa là chủ sức lao động
(là người vừa tham gia quản lý, vừa tham gia lao động). Họ không tham gia
trực tiếp vào thị trường sức lao động (nếu họ không di chuyển nghề), nhưng
sản phẩm hàng hóa làm ra lại tham gia vào thị trường và chấp nhận cạnh tranh
quyết liệt. Họ tự hạch toán kết quả sản xuất kinh doanh, đồng thời tự quyết
định phân phối, quyết định đầu tư và chi tiêu ngân sách trong thu chi gia đình.
Bởi vậy, quan hệ của họ với BHXH là quan hệ "lỏng" hoặc quan hệ "mềm",
không mang tính bắt buộc như quan hệ lao động trong Bộ luật Lao động điều
chỉnh. Bởi vậy họ tham gia BHXH mang tính "tự nguyện", trên cơ sở suy
nghĩ về "tính lợi ích" khi tham gia BHXH. Do đó, mọi chính sách BHXH có
tính áp đặt, cưỡng chế và bất lợi (cả trước mắt và lâu dài) đều dẫn đến khả

năng thực thi thấp hoặc thất bại.
1.2.3.2. Mọi người đều có quyền tham gia bảo hiểm xã hội và có
quyền hưởng bảo hiểm xã hội khi có các nhu cầu về bảo hiểm
Quyền được BHXH của người lao động là một trong những biểu hiện
cụ thể của quyền con người. Nhưng BHXH không phải là cái có sẵn, nên
trước hết phải tạo ra nó. Ở mỗi nước khi muốn xây dựng hệ thống BHXH thì
đầu tiên, Nhà nước phải tạo ra điều kiện và môi trường về kinh tế - xã hội, về
chính sách và luật pháp, về tổ chức và cơ chế quản lý của mình. Không có sự
17
đóng góp này thì chính sách BHXH có hay đến mấy cũng không bao giờ có
BHXH trong thực tiễn. Vì vậy, thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính
BHXH là điều kiện cơ bản nhất để người lao động được hưởng quyền BHXH.
Biểu hiện cụ thể quyền được BHXH của người lao động là việc họ
được hưởng trợ cấp BHXH theo chế độ xác định. Các chế độ này gắn với các
trường hợp người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc
làm do đó bị giảm hoặc mất nguồn sinh sống. Trong nền kinh tế thị trường
các trường hợp đó có thể xảy ra rất nhiều và xảy ra một cách ngẫu nhiên. Về
nguyên lý thì mọi trường hợp như thế, người lao động đều phải được hưởng
BHXH. Nhưng giữa nguyên lý với thực tiễn luôn luôn có một khoảng cách rất
xa. Khoảng cách đó do các điều kiện kinh tế - xã hội quy định. Bởi vậy trên
giác độ điều hành vi mô, cần căn cứ vào các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể
của đất nước trong từng giai đoạn phát triển để tổ chức và hoàn thiện dần chế
độ BHXH đối với các trường hợp làm giảm hoặc mất thu nhập của người lao
động nói trên.
1.2.3.3. Nguyên tắc Nhà nước phải có trách nhiệm đối với quỹ bảo
hiểm xã hội tự nguyện của người lao động, người lao động cũng có trách
nhiệm phải tự bảo hiểm cho mình
Nhà nước có vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế - xã hội trên
phạm vi cả nước. Với vai trò này, Nhà nước có trong tay mọi điều kiện vật
chất của toàn xã hội, đồng thời cũng có mọi công cụ cần thiết để thực hiện vai

trò của mình. Cùng với sự tăng trưởng, sự phát triển của kinh tế - xã hội, cũng
có những kết quả bất lợi không mong muốn. Những kết quả bất lợi này trực
tiếp hoặc gián tiếp sẽ dẫn đến những rủi ro cho người lao động. Khi xảy ra
tình trạng như vậy, nếu không có BHXH thì Nhà nước vẫn phải chi Ngân
sách để giúp đỡ người lao động dưới một dạng khác. Sự giúp đỡ đó chẳng
những làm cho đời sống người lao động ổn định mà còn làm cho sản xuất ổn
định, kinh tế - xã hội của đất nước phát triển. Vì vậy, khi xã hội loài người
18
xuất hiện BHXH, một dạng bảo hiểm đời sống tiến bộ hơn đối với người lao
động so với các dạng giúp đỡ truyền thống thì Nhà nước càng có điều kiện và
càng có trách nhiệm tổ chức và tham gia hoạt động đó. Trong điều kiện nước
ta hiện nay, chắc chắn quỹ BHXH tự nguyện không nằm trong NSNN, nhưng
vẫn cần phải có sự bảo trợ của Nhà nước về nguồn tài chính, để bảo đảm cho
quỹ BHXH không bị mất giá do trượt giá, hoặc do biến động về chính trị - xã
hội, thiên tai, chiến tranh… Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới quản lý về
BHXH nói chung, cần phải chia tách ưu đãi xã hội và BHXH. Do vậy đối với
nhóm người lao động yếu thế, cần có những chính sách ưu đãi riêng để giúp
họ vượt qua khó khăn.
Bên cạnh đó, cũng cần phải nhìn nhận trách nhiệm của Nhà nước thông
qua cơ quan BHXH - cơ quan nhà nước quản lý quỹ BHXH. Trong quá trình
quản lý quỹ BHXH từ sự đóng góp của người lao động, cơ quan BHXH phải
thực hiện các biện pháp đầu tư tăng trưởng quỹ nhằm bảo toàn quỹ, đảm bảo tài
chính để chi trả các chế độ BHXH. Trách nhiệm này rất quan trọng, bởi suy
đến cùng chỉ có những đóng góp của người lao động khi gặp rủi ro sẽ không
đảm bảo chi trả cho bản thân họ. Do đó cơ quan BHXH phải có trách nhiệm
thực hiện các biện pháp đầu tư để bù đắp thiếu hụt đó. Tuy nhiên, tài chính để
chi trả các chế độ BHXH chủ yếu phải từ đóng góp của người tham gia BHXH.
Đối với người lao động, khi gặp phải những rủi ro không mong muốn
và không hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là rủi
ro của bản thân. Vì thế nếu muốn được BHXH tức là muốn nhiều người khác

hỗ trợ cho mình, là dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người khác thì tự mình
phải gánh chiu trực tiếp và trước hết đã. Điều đó có nghĩa là bản thân người
lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình.
1.2.3.4. Nguyên tắc lấy số đông bù số ít
BHXH là hình thức chia sẻ rủi ro của số ít người cho số đông người
cùng gánh chịu. Chỉ có thực hiện việc san sẻ này thì người lao động mới có
19
thể được đảm bảo về thu nhập khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ hoạt động
nghề nghiệp khi gặp phải những biến cố (còn gọi là "rủi ro xã hội"). Cách làm
riêng có của BHXH là mọi người tham gia BHXH đóng góp cho bên nhận
BHXH (cơ quan BHXH chuyên nghiệp) tồn tích dần thành một quỹ BHXH
độc lập và tập trung dùng để chi trả trợ cấp cho những người lao động khi và
chỉ khi họ bị giảm hoặc mất khả năng thu nhập từ lao động.
Như vậy, trong số đông người tham gia đóng BHXH, chỉ những người
lao động có đủ điều kiện cần thiết mới được hưởng trợ cấp. Trong số đó có
những người tham gia đóng góp từ lâu, nhưng cũng có người vừa mới tham
gia BHXH. Vì thế số trợ cấp mà họ nhận được lớn hơn rất nhiều so với số tiền
đã đóng góp của họ. Muốn như vậy, thì không có cách nào khác là phải lấy
kết quả đóng góp của số đông người tham gia, để bù cho số ít người được
hưởng trợ cấp. Những người lao động chưa đủ điều kiện để hưởng trợ cấp lúc
này thì phần đóng góp của họ để cho người khác được hưởng, nhưng không vì
thế mà họ bị thiệt thòi. Một lúc nào đó trong cuộc đời lao động, chắc chắn họ
cũng sẽ cần phải được hưởng trợ cấp BHXH. Khi đó, trợ cấp mà họ được
hưởng cũng do nhiều người khác đóng góp.
1.2.3.5. Nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích, các khả năng và
phương thức đáp ứng nhu cầu bảo hiểm xã hội
Nhu cầu BHXH là cần thiết đối với mọi người lao động. Song nhu cầu
đó phải dựa trên cơ sở kết hợp hài hòa lợi ích, các khả năng của người tham
gia BHXH cũng như của Nhà nước.
Người lao động khi sử dụng thu nhập của mình, trước hết họ phải

dành phần lớn chi cho các nhu cầu sinh sống hàng ngày của bản thân và gia
đình, phần còn lại mới có thể xem xét để đóng phí BHXH. Giả sử thu nhập
của người lao động giữ nguyên, nếu đóng phí BHXH thấp thì lợi ích trước
mắt của người lao động sẽ tăng lên, nhưng khi họ có nhu cầu được BHXH thì
đương nhiên chỉ nhận được trợ cấp thấp. Nếu muốn được hưởng trợ cấp
20
BHXH cao, lẽ đương nhiên sẽ phải đóng phí cao hơn, phần chi cho đời sống
hàng ngày lại phải giảm đi. Nếu người tham gia BHXH đóng phí BHXH thấp
mà hưởng trợ cấp BHXH cao, sẽ ảnh hưởng đến mức độ an toàn của quỹ
BHXH. Tính chất lâu dài của chính sách BHXH sẽ ít có khả năng thực thi,
còn nếu buộc Nhà nước phải bù đắp toàn bộ chênh lệch đó, thì ảnh hưởng đến
Ngân sách Nhà nước. Đặc biệt là ở nước ta hiện nay đang trong tình trạng bội
chi Ngân sách. Nếu Nhà nước không có trách nhiệm đối với quỹ BHXH tự
nguyện thì ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia BHXH tự nguyện,
bởi lẽ tiền lương hưu và trợ cấp BHXH thực tế sẽ thấp hơn danh nghĩa do đó
tính hấp dẫn của chính sách cũng như khả năng thực thi của chính sách
BHXH tự nguyện về lâu dài là không thể thực hiện được.
Thực tiễn BHXH thủ công nghiệp trong giai đoạn 1983 đến 1989 là
minh chứng cụ thể cho vấn đề này. Vì vậy trong nghiên cứu xây dựng các
thiết chế hoặc trong điều hành BHXH cụ thể cần phải tìm ra giải pháp để kết
hợp hài hòa lợi ích lâu dài của người lao động, cũng như đảm bảo kết hợp hài
hòa giữa lợi ích của người tham gia BHXH và lợi ích của Nhà nước.
Để có thể chi trả trợ cấp BHXH cho người lao động thì phải có quỹ tài
chính BHXH độc lập và tập trung. Nguồn cơ bản để hình thành quỹ này là
đóng góp của người lao động và Nhà nước, muốn tăng quỹ thì phải tăng
nguồn thu cơ bản, nhưng nguồn thu cơ bản này lại có những giới hạn không
cho phép vượt qua. Vì vậy phải tích cực đi tìm kiếm các nguồn thu khác để bổ
sung, như đầu tư tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH vào hoạt động sinh lợi, hợp tác
quốc tế về BHXH để có thêm nguồn thu cho quỹ BHXH do tái bảo hiểm sinh
ra như nhiều nước đã làm.

1.2.3.6. Nguyên tắc mức hưởng tiền lương hưu tỷ lệ thuận với mức
đóng góp bảo hiểm xã hội
Là hình thức tự nguyện, không bao hàm chính thức trợ cấp ưu đãi nên
BHXH tự nguyện phải được xây dựng trên nguyên tắc mức hưởng tiền lương
21
hưu phải tỷ lệ thuận với mức đóng góp BHXH, đồng thời cũng là nguyên tắc
đảm bảo quỹ BHXH an toàn, khuyến khích người lao động tham gia BHXH
tự nguyện.
Phần đóng góp và hưởng thụ của người tham gia BHXH tự nguyện
cần phải được tiền tệ hóa. Nguyên tắc này đảm bảo thuận tiện cho việc quản
lý quỹ BHXH. Điều này có thể nhận thấy rừ sự thuận lợi giữa quản lý tiền và
quản lý hiện vật (đối với lao động nông, ngư, tiểu thủ công nghiệp nếu đóng
phí bảo hiểm bằng hiện vật chỉ có là các sản phẩm của các ngành kinh tế đó).
Hơn nữa, trong quá trình phát triển của nhân loại, việc sử dụng tiền tệ với các
chức năng là phương tiện thanh toán, đơn vị hạch toán, dự trữ được coi là
bước tiến lớn. Việc sử dụng vốn bằng tiền trong hoạt động đầu tư (một hoạt
động không thể thiếu đối với quỹ BHXH tự nguyện) mang lại lợi thế lớn hơn.
Thực tế trong những năm qua, hoạt động liên doanh với các doanh nghiệp
nước ngoài, bên cạnh trình độ của cán bộ quản lý còn yếu, chúng ta thiếu yếu
tố vốn bằng tiền và vốn dưới hình thức các máy móc thiết bị hiện đại, chúng
ta chỉ có vốn chủ yếu dưới dạng đất. Bên cạnh đó cũng cần phải nhận thấy
rằng, hoạt động BHXH tự nguyện phải đảm bảo tính an toàn cao, rủi ro thấp
trong khi đó các khoản đóng góp và hưởng thụ bằng hiện vật dẽ bị ảnh hưởng
bởi tác động tăng giá của một vài mặt hàng nào đó (tài sản của quỹ bao gồm
những mặt hàng đó), còn các khoản đóng góp và hưởng thụ được tiền tệ hóa
thì chỉ chịu tác động bởi sự tăng giá của các sản phẩm thiết yếu, do đó tính rủi
ro trong bảo toàn quỹ thấp hơn. Ngoài những lý do trên, việc tiền tệ hóa
khoản đóng góp và hưởng thụ tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định mức
đóng, mức hưởng, mối quan hệ giữa đóng góp và hưởng thụ, đồng thời đảm
bảo tính bình đẳng cho những người tham gia BHXH tự nguyện. Tuy nhiên

mối quan hệ giữa đóng góp và hưởng thụ cũng cần được xem xét trong mối
quan hệ với giá cả của các sản phẩm thiết yếu trong cuộc sống, sinh hoạt hàng
ngày. Giải quyết được vấn đề này đảm bảo cho chính sách BHXH tự nguyện
mang tính thực thi cao.
22
1.2.3.7. Bảo hiểm xã hội phải được phát triển dần từng bước phù
hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn
phát triển
BHXH của một nước gắn rất chặt với trạng thái kinh tế, với các điều
kiện kinh tế - xã hội, với cơ chế và trình độ quản lý, đặc biệt là với sự đồng
bộ, hoàn chỉnh của nền pháp chế nước đó. Trong khi nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang hình thành, nhiều lĩnh vực kinh
tế - xã hội đang chuyển mạnh. Vì vậy việc xây dựng và phát triển BHXH tự
nguyện phải đảm bảo chắc chắn, tính toán thận trọng và phải có bước đi phù hợp.
Sự phát triển của BHXH nói chung biểu hiện trên nhiều mặt: cơ cấu
các bộ phận của hệ thống, số lượng và cơ cấu các chế độ trợ cấp, mức trợ cấp,
thời gian nghỉ việc để hưởng trợ cấp, mức đóng phí BHXH… Nếu không cân
nhắc thận trọng và lựa chọn bước đi hợp lý sẽ có thể phát sinh trục trặc không
thể kiểm soát được.
1.3. MÔ HÌNH BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN TRÊN THẾ GIỚI
Hình thức BHXH tự nguyện không phải quốc gia nào cũng tiến hành.
Tuy nhiên ở hầu hết các quốc gia có hình thức BHXH này, đều thực hiện theo
hai mô hình sau:
- Bảo hiểm xã hội tự nguyện theo một hệ thống độc lập tồn tại song
song với hệ thống BHXH bắt buộc. Mô hình này được thực hiện ở các nước
như CHLB Đức, Trung Quốc, Philippine, Mỹ, Australia… được áp dụng cho
các đối tượng là nông dân, lao động nông thôn, lao động trong các hộ gia
đình, các nông trại có quy mô nhỏ, những người tự tạo việc làm (nói chung
các đối tượng này không thuộc đối tượng của hệ thống BHXH bắt buộc) và
phần nhiều được tiến hành cho các chế độ BHXH dài hạn (hưu trí tuổi già, tàn

tật và tử tuất). Điều đáng quan tâm là ở hầu hết các quốc gia tiến hành BHXH
tự nguyện theo mô hình này phần lớn mang tính thí điểm hoặc mới áp dụng
23
nên chưa có những tổng kết về thành tựu cũng như những bài học kinh
nghiệm rút ra qua quá trình thực hiện. Riêng đối với hệ thống BHXH của Mỹ,
việc khống chế mức thu nhập trần để đóng BHXH bắt buộc và mức này được
điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội từng thời kỳ (hiện nay mức
thu nhập trần đóng BHXH là 84.900USD/năm), người lao động có mức thu
nhập cao hơn mức trần này có thể tham gia vào hệ thống BHXH tự nguyện,
hệ thống này độc lập với hệ thống BHXH bắt buộc và do tư nhân đảm nhiệm.
Quỹ BHXH tự nguyện được thành lập trên cơ sở đóng góp của người lao
động và người sử dụng lao động trên cơ sở tự nguyện. Sau khi đã đạt được sự
thỏa thuận giữa hai bên về sự nhất trí tham gia BHXH tự nguyện và có cơ chế
đóng góp cho loại hình bảo hiểm này (thỏa thuận này được ghi nhận trong
thỏa ước lao động tập thể của doanh nghiệp, ở đây vai trò đại diện của tập thể
người lao động - tổ chức công đoàn là hết sức quan trọng). Như vậy việc tham
gia vào hệ thống BHXH tự nguyện không phải là mỗi cá nhân người lao động
mà là cả tập thể của người lao động.
- BHXH bổ sung tự nguyện được thực hiện trên cơ sở nền tảng của
BHXH bắt buộc. Đây là hình thức phổ biến hiện nay, đặc biệt ở các nước có
nền kinh tế phát triển như ở Đức... Điểm mấu chốt trong thực hiện hình thức
BHXH này là những người tham gia BHXH bắt buộc có mức thu nhập bình
quân (được tính toán) theo quy định có thể tham gia BHXH tự nguyện bổ
sung tự nguyện để có mức trợ cấp cao hơn khi về hưu. Mặc dù ở mỗi nước
khác nhau vẫn quy định về nội dung, phương thức và tổ chức thực hiện
BHXH bổ sung tự nguyện cũng khác nhau song đều có những đặc điểm
chung đó là:
+ BHXH tự nguyện được áp dụng đối với các chế độ dài hạn.
+ Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là những người lao động và
doanh nghiệp đăng ký tham gia BHXH bắt buộc tự nguyện đóng góp phần thu

nhập của mình vào quỹ BHXH theo chế độ tự nguyện. Cũng có quốc gia quy
24
định mức thu nhập của những người tham gia BHXH bổ sung tự nguyện để
đảm bảo duy trì việc đóng góp như ở Cộng hòa dân chủ Đức trước đây quy
định chỉ những người có thu nhập trên 600 mác/tháng hay trên 7.200
mác/năm (thời điểm năm 1977) mới được quyền tham gia BHXH bổ sung tự
nguyện, mức đóng bằng 10% số thu nhập vượt quá mức thu nhập quy định
trên. Tuy nhiên, cũng có quốc gia không khống chế mức thu nhập này (chẳng
hạn như BHXH tự nguyện của Úc) [21, tr. 19]. Việc không quy định mức thu
nhập bình quân của người lao động để có quyền tham gia BHXH bổ sung tự
nguyện là dựa trên quan điểm cho rằng người lao động có thể hạn chế chi tiêu
hiện tại để tích lũy cho về già hoặc mặc dù thu nhập thấp hơn nhưng người
lao động vẫn có khả năng tham gia BHXH bổ sung tự nguyện do họ được sự
trợ giúp nào đó (chẳng hạn của gia đình, của người thân...). Chính việc không
khống chế mức thu nhập này càng khuyến khích nhiều người lao động có khả
năng tham gia vào BHXH bổ sung tự nguyện.
+ Do dựa trên nền tảng là BHXH bắt buộc nên độ tuổi quy định được
nhận trợ cấp hưu trí bổ sung tự nguyện cũng trùng với độ tuổi nhận trợ cấp
hưu trí theo quy định trong BHXH bắt buộc. Ở Đức, nam được nhận trợ cấp
bảo hiểm hưu trí tự nguyện khi tròn 65 tuổi và nữ khi tròn 60 tuổi. Chính vì
vậy, khi nghỉ hưu bên cạnh trợ cấp hưu trí theo BHXH bắt buộc người tham
gia BHXH bổ sung tự nguyện còn được nhận một khoản trợ cấp hưu trí bổ
sung tự nguyện [21, tr. 25].
+ Việc tham gia BHXH bổ sung tự nguyện là do người lao động hoàn
toàn tự nguyện đóng góp một phần thu nhập của mình. Tham gia vào BHXH
bổ sung tự nguyện mức đóng góp lại được chia cho các bên là người lao động
và người sử dụng lao động, song tỷ lệ đóng góp của các bên khác nhau cũng
khác nhau ở mỗi quốc gia, thậm chí không có tỷ lệ đóng cố định chung mà tùy
thuộc vào sự thỏa thuận khi tham gia BHXH tự nguyện của người lao động và
người sử dụng lao động. Ở cộng hòa dân chủ Đức trước đây mức đóng góp

25

×