Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

An sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 144 trang )

Luận văn Tốt nghiệp
HV – Nguyễn Đức Tú – K11-KTCT (2002-2005)
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM
QUỐC TẾ VỀ AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT
CẤU
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI
KẾT CẤU 5
1.1.1. Khu vực kinh tế phi kết cấu 5
1.1.1.1.Khái niệm 5
1.1.1.2.Nguồn gốc hình thành khu vực kinh tế phi kết cấu 6
1.1.1.3.Cấu trúc của khu vực kinh tế phi kết cấu 9
1.1.2. An sinh xã hội đối với khu vực phi kết cấu 10
1.1.2.1.Khái niệm an sinh xã hội 10
1.1.2.2.Bản chất của an sinh xã hội 12
1.1.2.3.An sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu 14
1.1.3. Hệ thống an sinh xã hội 15
1.1.3.1.Cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội 15
1.1.3.2.Cơ chế vận hành 17
1.1.4. Một số tiêu chí đánh giá an sinh xã hội 18
1.1.4.1.Thu nhập 18
1.1.4.2.Mức sống 18
1.1.4.3.Khả năng tiếp cận các dich vụ xã hội 19
1.1.5. Vai trò của hệ thống an sinh xã hội 20
1.1.5.1.Ổn định đời sống con người 20
1.1.5.2.Góp phần thực hiện công bằng xã hội 20
1.1.5.3.Đảm bảo lợi ích trước mắt và lâu dài của quốc gia 20
1.1.5.4.Góp phần chống lại khủng hoảng mang tính chu kỳ kinh doanh 21
1.1.5.5.Góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển


kinh tế bền vững 22
1.2. HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU
Ở MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT
NAM 23
Luận văn Tốt nghiệp
HV – Nguyễn Đức Tú – K11-KTCT (2002-2005)
1.2.1. Hệ thống an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở một số
nƣớc trên thế giới 23
1.2.1.1.Đối với Singapore 23
1.2.1.2.Đối với Trung Quốc 26
1.2.1.3.Đối với Nhật Bản 29
1.2.1.4.Chương trình bảo hiểm y tế cho lao động khu vực phi kết cấu ở Cộng
Hoà Tanzania 33
1.2.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 34
1.2.2.1.Cần tăng cường đầu tư cho các dịch vụ xã hội, giáo dục, y tế 34
1.2.2.2. Phải mở rộng phạm vi lựa chọn các dịch vụ an sinh xã hội như mô hình
của Nhật Bản 35
1.2.2.3.Thành lập quỹ phòng xã theo mô hình Singapore 35
1.2.2.4.Đẩy mạnh thực hiện chương trình bảo hiểm y tế tự nguyện, tiến tơí bảo
hiểm y tế toàn dân 35
1.2.2.5.Cần tranh thủ sự hỗ trợ từ bên ngoài 36
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO
ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC KINH TẾ PHI KẾT CẤU Ở VIỆT NAM VÀ ẢNH
HƢỞNG CỦA NÓ ĐẾN VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI 37
2.1.1. Lịch sử hình thành, phát triển 37
2.1.2. Đặc điểm lao động khu vực phi kết cấu ở Việt Nam 38
2.1.2.1.Về phân bố 38
2.1.2.2.Số lượng 41
2.1.2.3.Về nhân khẩu học 42

2.1.2.4.Tình hình hoạt động kinh tế 46
2.1.2.5.Thu nhập và chi tiêu của gia đình 48
2.1.3. Ảnh hƣởng của những đặc điểm trên đến vấn đề an sinh xã hội của
lao động khu vực phi kết cấu 50
2.2. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC
PHI KẾT CẤU Ở VIỆT NAM 52
2.2.1. Tổng quan về hệ thống an sinh xã hội ở Việt nam 52
2.2.1.1.Vài nét về quá trình hình thành phát triển 52
2.2.1.2.Các chính sách trong hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam 54
Luận văn Tốt nghiệp
HV – Nguyễn Đức Tú – K11-KTCT (2002-2005)
2.2.2. Thực trạng hệ thống an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết
cấu ở Việt Nam 58
2.2.2.1.Về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế 58
2.2.2.2.Về bảo trợ xã hội 75
2.2.2.3.Về chính sách việc làm 77
2.2.2.4.Về chính sách xoá đói giảm nghèo 80
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG
KHU VỰC PHI KẾT CẤU Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 83
2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc và tác động kinh tế xã hội 83
2.3.1.1.Những kết quả đạt được 83
2.3.1.2.Những tác động kinh tế – xã hội 89
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân. 92
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG AN
SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU
3.1. BỐI CẢNH MỚI VÀ SỰ TÁC ĐỘNG TỚI HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI
VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU 98
3.1.1. Bối cảnh quốc tế 98
3.1.2. Bối cảnh trong nƣớc 100

3.2. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU Ở VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 101
3.2.1. Quan điểm phát triển hệ thống an sinh xã hội Quốc gia 101
3.2.2. Quan điểm định hƣớng nhằm hoàn thiện và phát triển hệ thống an
sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu 103
3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU Ở VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 105
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về an sinh xã hội 105
3.3.1.1.Hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội 105
3.3.1.2.Nhà nước cần sớm thành lập quỹ bảo hiểm thất nghiệp 108
3.3.1.3.Hoàn thiện hệ thống chính sách bảo trợ xã hội 109
3.3.2. Tăng cƣờng công tác quản lý, phát triển khu vực kinh tế phi kết cấu 109
Luận văn Tốt nghiệp
HV – Nguyễn Đức Tú – K11-KTCT (2002-2005)
3.3.2.1.Phát triển nông thôn để hạn chế di dân tự do 109
3.3.2.2.Phát triển khu vực chính thức thành thị 110
3.3.2.3.Khuyến khích, tạo điều kiện thành lập các hiệp hội 111
3.3.2.4.Ban hành luật doanh nghiệp nhỏ đi đôi với những hỗ trợ ưu đãi cho
doanh nghiệp nhỏ phát triển 112
3.3.3. Tạo điều kiện thuận lợi cho lao động khu vực phi kết cấu tiếp cận các
dịch vụ xã hội cơ bản 113
3.3.3.1.Về giáo dục và đào tạo 113
3.3.3.2.Về lĩnh vực Y tế 113
3.3.3.3.Về văn hóa, thông tin 112
3.3.4. Tập trung nguồn lực cho giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo 115
3.3.4.1.Về giải quyết việc làm 115
3.3.4.2.Về xoá đói giảm nghèo 117
3.3.5. Mở rông phạm vị và cơ hội lựa chọn đối với các dịch vụ an sinh xã

hội 120
3.3.5.1.Mở rộng phạm vi bao quát của bảo hiểm xã hội bắt buộc 127
3.3.5.2.Ban hành chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện 121
3.3.5.3.Đẩy mạnh thực hiện chương trình bảo hiểm y tế tự nguyện 123
3.3.5.4.Thí điểm chương trình an sinh xã hội theo mô hình tích luỹ 126
3.3.5.5.Khuyến khích phát triển loại hình bảo hiểm nhân thọ 127
3.3.6. Đề cao vai trò của các địa phƣơng, tổ chức xã hội trong việc đảm bảo
an sinh xã hội cho ngƣời dân 128
3.3.6.1.Nâng cao tính tự chủ cho các địa phương trong việc giải quyết những
vấn đề an sinh xã hội 129
3.3.6.2.Phát huy vai trò của các tổ chức phi chính phủ, hội đoàn thể trong việc
triển khai các chương trình an sinh xã hội 130
3.3.6.3.Cần tranh thủ sự hỗ trợ từ bên ngoài 131
PHẦN KẾT LUẬN 133
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 135

Luận văn Tốt nghiệp -1-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, việc giải quyết các vấn đề xã hội là nhiệm vụ quan
trọng, được thực hiện song hành với các chính sách phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia vì mục tiêu hướng tới sự phát triển bền vững. Ở các nước chậm phát
triển, khi mà mọi nguồn lực của quốc gia đều phải tập trung ưu tiên cho phát triển
kinh tế thì việc tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết tốt các vấn đề xã
hội nảy sinh luôn là một thách thức lớn của Chính phủ, trong đó việc đảm bảo
cuộc sống tối thiểu, ổn định cho mọi người dân trước những biến đổi và phát triển
của xã hội là một nhiệm vụ cấp bách. Bằng mọi cách, Chính phủ phải thiết lập
một hệ thống an sinh xã hội bao gồm nhiều tầng, nhiều lớp để che chắn những

người nghèo, những người yếu thế không bị tụt lùi xa so với xã hội.
Đối với Việt Nam, sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã đạt được
những thành tựu to lớn trên cả hai lĩnh vực kinh tế và xã hội, tạo nên một nền tảng
quan trọng cho việc chăm lo đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, trước xu thế toàn
cầu hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ cộng với những khuyết tật hiện hữu của
nền kinh tế thị trường đã tạo ra sự bất bình đẳng, sự phân hoá giàu nghèo gay gắt
trong xã hội. Một bộ phận người trong xã hội luôn đứng trước nguy cơ của thất
nghiệp, nghèo đói, thậm chí bần cùng hoá, do không có công ăn việc làm, thu
nhập không ổn định, mức độ rủi ro cao trong cuộc sống. Sự đau khổ của họ ảnh
hưởng trực tiếp tới sự ổn định chính trị và quá trình tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa của nước ta, giải quyết vấn đề an sinh xã hội sẽ là nhân tố đảm bảo cho
sự phát triển kinh tế bền vững đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “ Khẩn trương mở rộng hệ thống
bảo hiểm xã hội và An sinh xã hội Thực hiện các chính sách xã hội đảm bảo an
toàn cuộc sống cho mọi thành viên cộng đồng, bao gồm bảo hiểm xã hội đối với
người lao động thuộc các thành phần kinh tế, cứu trợ xã hội những người gặp rủi
ro, bất hạnh”.
Luận văn Tốt nghiệp -2-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
Như vậy, an sinh xã hội đang vẫn là một bài toán, là một vấn đề thời sự
nóng bỏng trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ở nước ta, đặc biệt là vấn đề an
sinh xã hội đối với khu vực kinh tế phi kết cấu. Việc nghiên cứu, hoạch định
chính sách làm thế nào để đảm bảo an sinh xã hội cho những người lao động
thuộc khu vực phi kết cấu, giúp họ tiếp cận được đầy đủ với các dịch vụ bảo đảm
xã hội nhằm hạn chế bất bình đẳng với khu vực kinh tế chính thức và ổn định
cuộc sống trước những rủi ro, bất hạnh xảy đến vẫn được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm.
Với những yêu cầu đặt ra cả về lý luận và thực tiễn như trên, việc tìm hiểu

và nghiên cứu về vấn đề: “An sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu
ở Việt Nam” là hết sức cần thiết và tôi chọn đó làm đề tài Luận văn tốt nghiệp
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đảm bảo an sinh xã hội đối với người lao động, đặc biệt là đảm bảo an
sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở Việt Nam đang vẫn là một vấn
đề mới, nóng bỏng và mang tính thời sự được nhiều nhà nghiên cứu, hoạch định
chính sách và nhiều cơ quan, ban ngành quan tâm. trong những năm gần đây cũng
có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề trên, cụ thể như:
- TS. Mạc Tiến Anh: “Bản chất và tính tất yếu khách quan của An sinh xã
hội”, Tạp chí bảo hiểm xã hội số tháng 1 và tháng 2 năm 2005.
- TS. Đặng Anh Duệ: “Những luận cứ khoa học cho việc hình thành Bảo
hiểm xã hội tự nguyện”, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1996.
- PGS.TS. Phạm Văn Dũng (chủ biên): “Khu vực kinh tế phi chính thức –
thực trạng và những giải pháp quản lý”, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội - 2002.
- TS. Nguyễn Văn Định: “Vấn đề an sinh xã hội ở Việt Nam – Thực trạng
và các giải pháp phát triển”, Tạp chí Kinh tế và phát triển số tháng 6/2004.
- TS. Bùi Văn Hồng: “Mở rộng đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội đối với
lao động tự tạo việc làm”, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2002.
- TS. Trần Quốc Toàn: “Các giải pháp thực hiện bảo hiểm tự nguyện đối
với lao động thuộc khu vực Nông, Ngư và Tiểu thủ công nghiệp”, Nxb. Thống kê,
Hà Nội, 2000.
Luận văn Tốt nghiệp -3-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
- Vụ chính sách lao động và việc làm – Bộ Lao động thương binh và xã hội:
“Phân tích các chính sách hỗ trợ người thôi việc”, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1996.
Ngoài ra còn có các bài viết đăng trên các báo, tạp chí.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn quan trọng về hệ thống đảm bảo an sinh xã hội đối với lao động phi kết cấu ở
Việt Nam, nhưng về cơ bản, các giải pháp đưa ra nhằm hoàn thiện và phát triển hệ

thống an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu được xem xét trong
khuôn khổ tiến trình phát triển kinh tế của khu vực phi kết cấu hoặc trong những
giải pháp mang tính chất chính sách trợ cấp xã hội đối với người lao động nói
chung. Do mục đích, đối tượng, phạm vi và thời điểm nghiên cứu khác nhau, đặc
biệt là trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý
của Nhà nước vận động trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập của Việt
Nam thì việc nghiên cứu vấn đề đảm bảo an sinh xã hội đối với lao động khu vực
phi kết cấu cả về thực trạng lẫn giải pháp là rất quan trọng.
Đảm bảo an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu là một vấn đề
mới cả lý luận và thực tiễn. Đó là một ẩn số quan trọng cho các quốc gia đang
trong quá trình công nghiệp hóa đất nước cần phải tính tới nhằm thu hẹp khoảng
cách giàu nghèo, đảm bảo công bằng xã hội và phát triển kinh tế bền vững.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của Luận văn là đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện và phát
triển hệ thống đảm bảo an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở Việt
Nam trong thời gian tới. Để thực hiện được mục tiêu này, tác giả đã đề ra nhiệm
vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Làm rõ một số khía cạnh lý luận và thực tiễn về an sinh xã hội
- Đánh giá thực trạng hệ thống An sinh xã hội đối với lao động khu vực phi
kết cấu ở Việt Nam 10 năm trở lại đây
- Trên cơ sở những phân tích trên, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn
thiện và phát triển hệ thống an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở
Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn Tốt nghiệp -4-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
* Đối tƣợng nghiên cứu: Hệ thống an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi
kết cấu ở Việt Nam

* Phạm vi nghiên cứu:

- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống an sinh xã hội đối
với lao động khu vực phi kết cấu ở Việt Nam trong 10 năm trở lại đây. Đây được
coi là mốc thời gian mà nền kinh tế và đời sống người dân Việt Nam có nhiều
chuyển biến mạnh mẽ.
- Về không gian: Hệ thống an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết
cấu ở Việt Nam (Có đưa kết quả khảo sát một số tỉnh trong ba miền của cả nước)
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ những nội dung cơ bản đã đặt ra của Luận văn, trong quá trình
nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp: phương pháp kết hợp phân tích với
tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phân tích dự báo… trong quá trình
nghiên cứu.
6. Dự kiến những đóng góp mới của Luận văn
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về an sinh xã hội
- Phân tích hoạt động đảm bảo an sinh xã hội đối với lao động phi kết cấu ở
một số nước trên thế giới và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đảm bảo an sinh xã hội đối với lao động phi
kết cấu ở Việt Nam trong 10 năm trở lại đây để từ đó thấy được những mặt còn
tồn tại, hạn chế và vấn đề đặt ra trong hệ thống an sinh xã hội trong thời gian qua.
- Trên cơ sở những vấn đề lý luận và đánh giá thực tiễn, tác giả đề xuất
những quan điểm định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hệ thống
an sinh xã hội đối với lao động phi kết cấu ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của Luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về an
sinh xã hội đối với lao động phi kết cấu
Luận văn Tốt nghiệp -5-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
Chương 2: Thực trạng hệ thống an sinh xã hội đối với lao động phi kết

cấu ở Việt Nam trong thời gian qua
Chương 3: Quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm
hoàn thiện và phát triển hệ thống an sinh xã hội đối với lao động phi kết cấu ở
Việt Nam trong thời gian tới
PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH
NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO
ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI KHU VỰC PHI KẾT CẤU
1.1.1. Khu vực kinh tế phi kết cấu
1.1.1.1. Khái niệm
Khái niệm khu vực kinh tế phi kết cấu xuất hiện từ những năm 60 của thế
kỷ 20. Trên thế giới, khu vực kinh tế phi kết cấu có một số tên gọi khác như: Kinh
tế phi chính thức (Unofficial economy); Kinh tế chìm (Underground economy);
Kinh tế song song (Parallel economy); Kinh tế vô hình (Invisible economy); Kinh
tế giấu diếm (Concealed economy); Khu vực kinh tế phi doanh nghiệp
(Unincorporated sector); Khu vực dịch vụ phi chính thức (Informal service
sector); Kinh tế nhân dân (People’s economy) Vì thế cũng có rất nhiều khái
niệm khác nhau.
Do sự khác biệt về kinh tế -xã hội, đặc biệt là trình độ phát triển giữa các
quốc gia, quan niệm về khu vực kinh tế phi kết cấu có sự khác biệt khá lớn. Ngoài
ra, tùy theo những tiêu chí nghiên cứu hoặc việc xem xét khu vực kinh tế phi kết
cấu dưới những góc độ khác nhau thì cũng có thể đưa ra những khái niệm khác
nhau. Bởi vậy, khi nghiên cứu về khu vực kinh tế phi kết cấu, các nhà kinh tế và
các tổ chức quốc tế thường nêu lên những đặc điểm chính để nhận dạng và qua đó
giải thích cho tên gọi và khái niệm mà họ đưa ra. Chúng ta có thể nêu ra một số
khái niệm của các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên thế giới mà có nhiều điểm
hợp lý và phù hợp với điều kiện của các nước đang phát triển như Việt Nam sau
đây:

Theo khái niệm của Liên hiệp quốc (UN): Khu vực kinh tế phi kết cấu là
đơn vị sản xuất có sử dụng các đầu vào về vốn, lao động, hàng hoá và dịch vụ để
Luận văn Tốt nghiệp -6-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
tạo ra hàng hoá hoặc dịch vụ nhất định được thực hiện bởi các cá nhân người lao
động hoặc hộ gia đình hoặc nhóm nhỏ người lao động nhưng không đăng ký theo
quy định của pháp luật, không thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh.
Với quan niệm này, khu vực kinh tế phi kết cấu được xem xét với tư cách
là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế.
Năm 1972, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đưa ra khái niệm về khu vực
kinh tế phi kết cấu như sau: Khu vực kinh tế phi kết cấu đó là các đơn vị kinh tế
có quy mô nhỏ, sản xuất, phân phối hàng hoá và dịch vụ cho người lao động tự
do, người lao động trong gia đình và một số ít người lao động khác đảm nhận.
Đặc điểm của khu vực này là dễ thâm nhập, yêu cầu về vốn thấp, sử dụng công
nghệ và kỹ năng đơn giản, năng suất lao động thấp.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) rất quan tâm tới vấn đề này và tiếp tục
nghiên cứu về khu vực kinh tế phi kết cấu. Năm 1993, khái niệm về khu vực kinh
tế phi kết cấu của ILO được đưa ra khá hoàn chỉnh, nó phản ánh một hiện thực
của nền kinh tế các nước đang phát triển.
Khu vực kinh tế phi kết cấu bao gồm các đơn vị kinh tế sản xuất ra của cải
và dịch vụ nhằm tạo việc làm và thu nhập, hoạt động với quy mô nhỏ, trình độ tổ
chức thấp, tỷ lệ giữa vốn đầu tư và lao động cũng ở mức độ thấp, quan hệ lao
động gắn liền mật thiết với quan hệ họ hàng, quan hệ cá nhân, quan hệ xã hội
hoặc còn có các mối quan hệ mang tính ngẫu nhiên hơn là quan hệ kinh tế, quan
hệ theo theo hợp đồng và được đảm bảo. Đó là các xí nghiệp cá thể trong đó
người có việc làm, các chi phí và các cam kết khó tách rời các cam kết của hộ gia
đình của những người chủ của chúng. Tuy nhiên các xí nghiệp tuyệt nhiên và
không nhất thiết tự khép mình vào các nghĩa vụ pháp lý và các xí nghiệp này khác
biệt với nền kinh tế “ngầm”.
Từ những khái niệm khác nhau được trình bày trên đây, chúng ta có

thể khái quát lại như sau: Khu vực kinh tế phi kết cấu ở các nƣớc đang phát triển là
một khu vực của nền kinh tế bao gồm các doanh nghiệp rất nhỏ và một số lƣợng lớn
những ngƣời lao động tự tạo việc làm cho mình; là khu vực có trình độ công nghệ thấp,
nhu cầu về vốn, tài nguyên thấp; có đóng góp đáng kể vào thu nhập quốc dân, nhƣng nhìn
chung vẫn đang nằm ngoài tầm kiểm soát và hỗ trợ của Nhà nƣớc.
1.1.1.2. Nguồn gốc hình thành khu vực kinh tế phi kết cấu
Luận văn Tốt nghiệp -7-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
Trong suốt chiều dài phát triển của lịch sử của loài người, ngay từ thời xa
xưa, lao động đã giúp cho con người tồn tại và phát triển. Cho đến nay, trước
những biến đổi của nền kinh tế, chính trị, xã hội, một bộ phận người vẫn luôn phải
bươn chải, lao động, tự tìm kiếm việc làm để duy trì cuộc sống. Chính vì vậy, sự
tồn tại của những người lao động tự do, tự tạo việc làm cho mình là khách quan
trong xã hội tại bất cứ quốc gia nào. Tuy nhiên ở các quốc gia phát triển, do nền
kinh tế phát triển cao, năng lực quản lý Nhà nước và hệ thống chính sách pháp
luật tốt nên khu vực này ngày càng thu hẹp. Ngược lại, đối với các quốc gia đang
phát triển thì khu vực kinh tế phi kết cấu có xu hướng mở rộng và tồn tại song
song với khu vực kinh tế chính thức do những nguyên nhân sau:
a. Chính sách phát triển nền kinh tế thị trường
Phát triển kinh tế thị trường là điều kiện cần thiết để tăng trưởng, phát triển
kinh tế. Chính vì thế mà trong những năm gần đây, tuyệt đại đa số các nước đang
phát triển đều chuyển sang kinh tế thị trường. Một trong những điều kiện để phát
triển kinh tế thị trường là thực hiện kinh tế nhiều thành phần.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi cá nhân, hộ gia đình là một chủ
thể kinh tế độc lập, quyết định việc trả lời những câu hỏi cơ bản của nền kinh tế
thị trường: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Điều đó cũng
có nghĩa là tạo cơ hội cho các cá nhân, hộ gia đình tự tạo việc làm hoặc tìm kiếm
được việc làm ngoài khu vực nhà nước, mang lại thu nhập, đảm bảo đời sống cho
chính họ.
Kinh tế thị trường có rất nhiều ưu điểm, nhưng cũng có rất nhiều khuyết tật

và việc khắc phục các khuyết tật đó là chức năng của Nhà nước. Phát triển kinh tế
thị trường sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội như: phân hoá giàu nghèo, bất bình
đẳng, nghèo đói, thất học, tệ nạn xã hội Giải quyết các vấn đề xã hội đó đòi hỏi
phải có hàng loạt chính sách xã hội và bộ máy thực thi các chính sách đó. Tuy
nhiên, trong điều kiện các nước đang phát triển, các chính sách xã hội, các chương
trình và mạng lưới an toàn xã hội chưa đủ che chắn cho tất cả những người nghèo
trong xã hội, đa số trong số đó vẫn phải tự lo cho cuộc sống của mình, bằng cách
tìm đủ mọi công việc để có thu nhập đảm bảo duy trì cuộc sống của bản thân.
Điều đó làm cho khu vực kinh tế phi kết cấu ngày càng mở rộng.
b. Quá trình công nghiệp hoá
Luận văn Tốt nghiệp -8-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
Mục đích các nước đang phát triển muốn đạt được là tăng trưởng kinh tế.
Để đạt được mục tiêu đó, đa số các quốc gia này đều tiến hành công nghiệp hoá,
mà trước hết là tập trung vào xây dựng các ngành công nghiệp hiện đại và những
cở sở kết cấu hạ tầng cần thiết.
Quá trình công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển đã đạt được những
thành tựu quan trọng. Nền kinh tế tăng trưởng nhờ sản xuất phát triển, nạn thất
nghiệp và nghèo đói giảm đáng kể. Tuy nhiên công nghiệp hoá và tăng trưởng
kinh tế đã làm gia tăng sự cách biệt về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp
dân cư. Cùng với sự nâng cao trình độ kỹ thuật của nền kinh tế, nhu cầu về việc
làm giảm, bộ phận những lao động có trình độ học vấn và tay nghề thấp, ít có cơ
hội tìm được việc làm.
Ngoài ra, quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá làm cho một bộ phận nông
dân không còn đất đai để canh tác và họ không dễ để thích ứng ngay được với
những công việc mới ở khu vực kinh tế chính thức. Do đó, việc làm và thu nhập
đối với họ là vấn đề cấp bách. Sự di dân từ nông thôn ra thành thị là tất yếu và rất
mạnh mẽ. Từ đó hình thành những nhóm người không được khu vực chính thức
tiếp nhận. Đây chính là lý do làm cho khu vực kinh tế phi kết cấu vẫn tiếp tục mở
rộng ở các nước đang phát triển trong giai đoạn hiện nay.

c. Thu nhập, mức sống thấp, mức độ thất nghiệp cao
Đặc điểm quan trọng của các nước đang phát triển là mức thu nhập, mức
sống thấp. Để đảm bảo cuộc sống, người lao động phải tự tạo việc làm bằng mọi
hình thức. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự hình
thành khu vực kinh tế phi kết cấu.
Thất nghiệp trầm trọng là một trong những đặc điểm khá đặc trưng của lao
động ở các nước đang phát triển. Những người lao động không thể tìm được việc
làm ở khu vực kinh tế chính thức đã buộc phải tìm đến khu vực kinh tế phi kết
cấu. Do đó, nếu không có khu vực kinh tế phi kết cấu thì sẽ có một số lượng lớn
những người không có việc làm, không có thu nhập. Ngoài ra khu vực kinh tế phi
kết cấu không chỉ tiếp nhận những người không có việc làm mà còn tạo ra việc
làm thêm cho những người nghèo ở khu vực chính thức để tăng thêm thu nhập.
Như vậy, khu vực kinh tế phi kết cấu là nơi nuôi sống không chỉ đối với từng cá
nhân, mà còn nuôi sống phần lớn gia đình họ.
d. Một số nguyên nhân khác
Luận văn Tốt nghiệp -9-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
+ Do tình trạng bùng nổ dân số ở các nước đang phát triển. Tình trạng khá
phổ biến này dẫn đến nghèo đói và gây mất cân đối cung cầu về lao động nói
chung trong nền kinh tế. Mặc dù các nước đang phát triển đã và đang tìm cách
kiểm soát và ổn định dân số, nhưng chỉ có một số ít nước thành công. Sức ép về
việc làm gia tăng trong khi khu vực kinh tế chính thức không đủ khả năng đáp
ứng.
+ Sự tồn tại của khu vực kinh tế phi kết cấu ở các nước đang phát triển còn
có nguyên nhân là sự không đầy đủ, thiếu đồng bộ, nhiều kẽ hở của hệ thống văn
bản pháp luật. Bên cạnh đó là sự yếu kém của bộ máy quản lý hành chính và một
bộ phận công chức Nhà nước, đã làm cho Chính phủ không có khả năng kiểm
soát một bộ phận không nhỏ của nền kinh tế.
+ Do điều kiện kinh tế – xã hội của các nước đang phát triển, một phần
không nhỏ người lao động, đặc biệt là người nghèo không được thụ hưởng các

dịch vụ y tế, giáo dục Vì vậy sức khoẻ thể lực của họ yếu, trình độ học vấn, tay
nghề thấp kém, không đáp ứng được yêu cầu của khu vực kinh tế chính thức. Bên
cạnh đó, chính sách giáo dục đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp còn nhiều bất cập về
cơ cấu, chất lượng làm cho những người đã được đào tạo cũng không dễ tìm
được việc làm ở khu vực kinh tế chính thức, nên họ phải làm những công việc
không mong muốn, và đương nhiên là họ phải gia nhập vào đội ngũ những người
lao động thuộc khu vực kinh tế phi kết cấu.
1.1.1.3. Cấu trúc của khu vực kinh tế phi kết cấu
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, khu vực kinh tế phi kết cấu là khu vực
kinh tế không thuần nhất bao gồm các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp, các
thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ theo ý nghĩa đây là khu vực không sử dụng
người làm công ăn lương mà chỉ sử dụng nhân công trong gia đình; những người
bán hàng rong, lao động trẻ em, những người lao động tàn tật, những người làm
việc nhà. Bộ phận dân số tham gia vào khu vực kinh tế phi kết cấu bao gồm cả
những người mà trong khoảng thời gian nhất định có việc làm trong một cơ sở
thuộc khu vực kinh tế phi kết cấu bất kể đó là việc làm chính hay phụ, nghề của
người này là gì. Tuy nhiên cần phân biệt bộ phận dân cư chuyên làm việc cho khu
vực kinh tế phi kết cấu và bộ phận dân cư làm việc cả trong khu vực kinh tế chính
thức và khu vực kinh tế phi kết cấu. Đối với bộ phận dân cư này thì việc làm ở
khu vực kinh tế phi kết cấu chỉ là làm thêm.
Luận văn Tốt nghiệp -10-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
Kinh tế hộ gia đình là bộ phận cấu thành của khu vực kinh tế phi kết cấu,
nhưng tất nhiên là chỉ tính những hoạt động kinh tế phi nông nghiệp. Ở một số
nước trên thế giới người ta đề xuất mở rộng khu vực kinh tế phi kết cấu tới các
doanh nghiệp, xí nghiệp rất nhỏ được xác định theo một tiêu thức nhất định. Theo
tổ chức lao động quốc tế (ILO) đưa ra tiêu chí đặc trưng cho một doanh nghiệp
sản xuất trong khu vực kinh tế phi kết cấu như sau:
+ Có số lao động nhỏ hơn 10 người
+ Các hoạt động kinh tế không tuân thủ các quy định của Nhà nước

+ Các thành viên gia đình cũng làm trong doanh nghiệp. Đó là các doanh
nghiệp sở hữu gia đình
+ Hoạt động trên quy mô nhỏ
+ Không cố định giờ làm việc và ngày làm việc, tận dụng lao động nhàn rỗi
của bản thân và gia đình.
+ Địa điểm, nhà xưởng của doanh nghiệp không cố định, hay phải chuyển
chỗ.
+ Nhu cầu về tín dụng không phụ thuộc vào các tổ chức tín dụng chính
thức.
+ Sản phẩm tạo ra được bán trực tiếp cho người tiêu dùng
+ Những người làm việc trong doanh nghiệp hầu như chỉ được đào tạo cơ
bản không qua 6 năm; kỹ năng nghiệp vụ có được ngoài hệ thống nghiệp vụ chính
thức.
1.1.2. An sinh xã hội đối với khu vực phi kết cấu
1.1.2.1. Khái niệm an sinh xã hội
An sinh xã hội (Social Security) có một lịch sử khá lâu đời bắt nguồn từ cội
rễ sâu xa là các hình thức đảm bảo an ninh kinh tế sơ khai của người Hy Lạp cổ
đại. Năm 1601, luật người nghèo của Anh (Poor law) đánh dấu một bước tiến mới
trong phát triển an sinh xã hội. Song phải đến năm 1850, an sinh xã hội mới chính
thức phát triển với tư cách là một hệ thống bằng việc Thủ tướng Bismark thiết lập
hệ thống bảo hiểm xã hội ở nước Phổ (Cộng hoà liên bang Đức) với các chế độ
bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp, tàn tật, tuổi già từ nguồn đóng
góp của người lao động và của Chính phủ. Hệ thống an sinh xã hội sau đó lan
Luận văn Tốt nghiệp -11-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
rộng ra các nước Châu Âu vào đầu thế kỷ XX, phát triển ở Bắc Mỹ những năm 30
của thế kỷ XX và ở các Châu lục khác trong nửa cuối thế kỷ XX.
Hiện tại, chưa có một khái niệm thống nhất về an sinh xã hội. Mỗi tổ chức,
quốc gia trên thế giới, mỗi nhà nghiên cứu có thể đưa ra những khái niệm khác
nhau. Sự khác biệt này chủ yếu nằm ở việc: xác định phạm vi của an sinh xã hội, từ

đó quyết định mô hình hệ thống an sinh xã hội.
+ Nhà kinh tế, xã hội học nước Anh: Wiliam H. Beveridge (1879 – 1963)
cho rằng: An sinh xã hội (Social Security) là sự bảo đảm về việc làm khi người ta
còn sức làm việc và đảm bảo một lợi tức khi người ta không còn sức làm việc nữa.
Khái niệm này chỉ bao hàm một diện hẹp về an sinh xã hội vì những người
có sức lao động thì được bảo vệ khi còn khả năng cũng như khi không còn khả
năng làm việc. Còn những người vì lý do nào đó không có sức làm việc như tàn
tật bẩm sinh thì chưa được đề cập đến.
+ Năm 1952, tổ chức lao động quốc tế (ILO) đưa ra khái niệm: An sinh xã
hội là sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của mình thông qua những
biện pháp công cộng để chống lại tình cảnh khốn khổ về kinh tế và xã hội gây ra
bởi tình trạng bị ngưng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập do ốm đau, thai sản,
thương tật trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và tử vong; sự cung cấp
chăm sóc về y tế; và cả sự cung cấp các khoản tiền trợ giúp cho các gia đình
đông con.
Sau năm 1952, rất nhiều học giả đã nghiên cứu về vấn đề an sinh xã hội và
đã đưa ra những khái niệm khác và được hiểu theo nghĩa rộng hơn như sau:
+ Theo quan niệm chung phổ biến ở Mỹ: An sinh xã hội là những chương
trình công cộng cung cấp thu nhập và dịch vụ cho các cá nhân trong trường hợp
nghỉ hưu, ốm đau, mất khả năng lao động, chết hay thất nghiệp.
+ Theo học giả Getubig: An sinh xã hội là hình thức tập hợp các biện pháp
hay hoạt động tập thể nhằm đảm bảo cho các thành viên trong xã hội có được các
nhu cầu cơ bản như ăn, ở, chăm sóc sức khoẻ, nước sạch và bảo vệ họ khỏi các
rủi ro bất ngờ như ốm đau, mất khả năng lao động, chết, thất nghiệp và tuổi già
để họ duy trì được mức sống phù hợp tiêu chuẩn xã hội.
Khái niệm này phù hợp với các nước đang phát triển, nó xuất phát từ tình
trạng thu nhập sang các nhu cầu cơ bản và mở rộng phạm vi các rủi ro bất ngờ.
Luận văn Tốt nghiệp -12-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
+ Theo học giả Droze và Sen (1991) định nghĩa an sinh xã hội: Là sử dụng

phương tiện xã hội để ngăn chặn mất mát và tổn thương dẫn đến mất mát. (Tức là
nâng cao mức sống để chống lại suy giảm mức sống).
Theo quan niệm này thì an sinh xã hội tập trung vào thu nhập. Xuất phát từ
thực tế là nếu thiếu thu nhập sẽ là yếu tố quan trọng nhất làm hạn chế năng lực cơ
bản của con người.
Từ những khái niệm trên đây, chúng ta có thể rút ra khái niệm chung như
sau: An sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên không may bị lâm
vào cảnh yếu thế trong xã hội thông qua hệ thống các biện pháp công cộng, nhằm tạo thu
nhập và phân phối lại tiền bạc, của cải, dịch vụ xã hội.
1.1.2.2. Bản chất của an sinh xã hội
Từ giữa thế kỷ thứ XIX, hình thức bảo hiểm xã hội ra đời và phát triển
mạnh mẽ ở các nước Tư bản Tây Âu đánh dấu bước khởi đầu cho việc hình thành
hệ thống an sinh xã hội ở các quốc gia trên toàn thế giới. Xuất phát từ mục đích
ban đầu là tương trợ giúp đỡ những người lao động gặp hoàn cảnh khó khăn và dự
phòng trong những trường hợp bị mất hoặc giảm thu nhập do tai nạn hoặc khi về
già không còn khả năng lao động, nó đã trở thành công cụ đắc lực của chủ Tư bản
trong việc lấp lỗ hổng của quá trình tái sản xuất và giải quyết hậu quả nặng nề do
khủng hoảng và suy thoái kinh tế có tính chu kỳ của nền kinh tế thị trường.
Khi phân tích về bảo hiểm xã hội với tính chất là bảo hiểm cho những lỗ
hổng của tái sản xuất, trong tác phẩm Tư bản, Mác đã hiểu theo ý nghĩa rất rộng,
gần như đồng nhất với An sinh xã hội. Mác phân tích bảo hiểm xã hội gồm 2 từ
ghép lại là “Bảo hiểm” và “xã hội”. Mác viết:
“Quá trình sản xuất xã hội là quá trình sản xuất ra các điều kiện vật chất của đời
sống con người, đồng thời cũng là một quá trình diễn ra trong khuôn khổ của những
quan hệ sản xuất đặc thù. Chính toàn bộ các quan hệ giữa những người đảm nhiệm sản
xuất với nhau và giữa họ với tự nhiên – tức là những điều kiện trong đó họ tiến hành
sản xuất- toàn bộ các quan hệ đó hợp thành xã hội, xét về mặt cơ cấu kinh tế của nó”.
Ở đây Mác xét phạm trù xã hội dưới góc độ cơ cấu kinh tế, do vậy phạm trù
xã hội rất cơ bản, rất rộng lớn. Nó là toàn bộ các quan hệ giữa những quốc gia
đảm nhiệm sản xuất với nhau và giữa họ với tự nhiên thì được gọi là xã hội.

Cũng theo Mác, từ “Bảo hiểm” được hiểu như sau:
Luận văn Tốt nghiệp -13-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
“Với tư cách là thu nhập, với tư cách là những thành phần giá trị rơi vào tay một
số người đảm nhiệm sản xuất, nhà tư bản, địa chủ một bộ phận lợi nhuận không được
tiêu dùng đi được dùng làm quỹ bảo hiểm dù quỹ này có do những công ty bảo hiểm
quản lý và biến nó thành một ngành kinh doanh riêng biệt hay không? điểm đó không
thay đổi vấn đề gì cả. Đó là bộ phận duy nhất của thu nhập không được tiêu dùng coi
như thu nhập và cũng không nhất thiết là phải dùng quỹ tích luỹ. Bộ phận thu nhập ấy
thực tế dùng vào việc tích luỹ hay chỉ dùng để lấp những lỗ hổng của tái sản xuất, điều
đó do ngẫu nhiên quyết định.”
Như vậy bảo hiểm ở đây là bảo hiểm của xã hội, cho xã hội bao gồm cả
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, bảo hiểm cho cả quan hệ giữa người với
người và quan hệ giữa người với tự nhiên trong quá trình tái sản xuất xã hội. Với
ý nghĩa đó nó bao gồm 2 phần là: Bảo hiểm cho những lỗ hổng của tái sản xuất;
Bảo hiểm cho những lỗ hổng của đời sống xã hội.
Ngoài ra Mác còn nói: “Ngoài thu nhập trên thì một phần lao động thặng dư
còn phải được trích ra để lấp các lỗ hổng xã hội như chiến tranh, thiên tai, sự khủng
hoảng kinh tế, người già, người tàn tật, những người vì tuổi tác mà chưa thể tham gia
sản xuất được hoặc không còn tham gia sản xuất được nữa”. (Bộ Tư bản, quyển 4, các
học thuyết về giá trị thặng dư (m), phần thứ nhất, NXB sự thật, năm 1965, tr 324).
Quá trình phát triển của kinh tế Tư bản chủ nghĩa đã chứng kiến nhiều cuộc
khủng hoảng kinh tế trầm trọng xẩy ra, điển hình như cuộc “khủng hoảng thừa”
(1927 –1931) đã tác động rất nặng nề tới hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội của
chủ nghĩa Tư bản thời bấy giờ. Hậu quả là nền kinh tế thì suy thoái, sản xuất trì
trệ, cung cầu mất cân đối, thất nghiệp tràn lan, đời sống của công nhân lao động
khốn đốn khổ cực, đã làm cho mâu thuẫn giai cấp vốn có giữa giới chủ và người
lao động làm thuê ngày càng diễn ra gay gắt. Nhờ có hệ thống an sinh xã hội bao
gồm: quỹ bảo hiểm xã hội và các quỹ trợ cấp ra đời từ rất sớm ở Tây âu đã trợ cấp
và giúp đỡ những người lao động có được cuộc sống ổn định ở mức tối thiểu, góp

phần làm giảm căng thẳng và sự xung đột giai cấp trong xã hội. Như vậy cội
nguồn của hệ thống an sinh xã hội ở các nước Tư bản chính là một lời giải, hay lối
thoát nhằm xoa dịu mâu thuẫn giai cấp tồn tại ngay trong lòng chủ nghĩa Tư bản.
Cũng nhờ những tính chất ưu việt đó của hệ thống an sinh xã hội mà các chính
sách như bảo hiểm xã hội và hệ thống trợ cấp xã hội phát triển rất mạnh ở các
nước Tây Âu, nó có thể gián tiếp hoặc trực tiếp bảo vệ lợi ích cho nhà Tư bản.
Luận văn Tốt nghiệp -14-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, quan
niệm về an sinh sinh xã hội cũng có những thay đổi nhất định. Cho tới những thập
niên gần đây, khi mà an sinh xã hội được hiểu như là một tấm lá chắn, bảo vệ cho
mọi thành viên trong xã hội, đảm bảo cho họ có được một cuộc sống ổn định
trước những biến cố của tự nhiên và sự phát triển của xã hội, giúp cho quá trình
tăng trưởng kinh tế của quốc gia một cách bền vững thì an sinh xã hội được coi là
vấn đề cốt lõi, là mục tiêu hướng tới của mọi chế độ xã hội. Không phải ngẫu
nhiên mà các nhà Chính trị Tư Sản thường đặt quan điểm về phát triển hệ thống
an sinh xã hội lên ưu tiên hàng đầu trong các chương trình vận động tranh cử của
mình.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, bản chất của an sinh xã hội chính là
việc đảm bảo về thu nhập và đời sống cho mọi công dân trong xã hội thông qua
các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự an toàn trong cuộc sống của mọi thành
viên trong xã hội, nó là công cụ của Nhà nước để giải quyết các vấn đề xã hội nảy
sinh trong nền kinh tế thị trường, hơn thế nữa, an sinh xã hội còn là mục tiêu
hướng tới của mọi chế độ xã hội. Bản chất đó thể hiện ở những khía cạnh:
+ An sinh xã hội biểu hiện rõ rệt quyền con người đã được Liên hợp quốc
thừa nhận.
+ An sinh xã hội thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp
+ An sinh xã hội thể hiện sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tương thân tương
ái của cộng đồng, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội.
1.1.2.3. An sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu

Xuất phát từ bản chất của an sinh xã hội, chúng ta có thể thấy rằng: An sinh
xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu chính là việc đảm bảo cuộc sống tối
thiểu và ổn định về cả vật chất lẫn tinh thần cho những người lao động trước
những biến đổi và phát triển của xã hội, trước những rủi ro, bất hạnh xảy đến,
thông qua những biện pháp, chính sách của Nhà nước trên nguyên tắc cộng đồng
trách nhiệm, đảm bảo công bằng xã hội.
Chúng ta biết rằng, sự tồn tại của khu vực kinh tế phi kết cấu là khách quan
và sự tồn tại đó đã góp phần giải quyết được rất nhiều công ăn việc làm cho
nguồn lao động dồi dào, dư thừa, đặc biệt là ở các nước đang phát triển đồng thời
khu vực kinh tế này cũng góp phần quan trọng vào việc thực hiện những mục tiêu
kinh tế vĩ mô quốc gia. Nhưng do quá trình phát triển nền kinh tế thị trường và
Luận văn Tốt nghiệp -15-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
những đặc điểm vốn có của khu vực này đã làm cho làm cho một bộ phận lớn
những người lao động khu vực phi kết cấu luôn đứng trước nguy cơ của thất
nghiệp, nghèo đói, thậm chí bần cùng hoá, do không có công ăn việc làm, thu
nhập không ổn định, mức độ rủi ro cao trong cuộc sống. Sự đau khổ của họ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến việc ổn định chính trị và quá trình tăng trưởng kinh tế.
Đảm bảo an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu chính là khắc
phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Đó là nhiệm vụ quan trọng của
Chính Phủ. Bằng mọi cách, Chính phủ phải giải quyết được hai vấn đề:
- Làm thế nào để lao động khu vực phi kết cấu có thu nhập, để họ có thể tự
đảm bảo cuộc sống của bản thân ở mức tối thiểu theo mặt bằng chung của xã hội.
- Ổn định được cuộc sống trước những rủi ro, bất hạnh không may xảy đến
như ốm đau, tàn tật, tai nạn, tử vong
Như vậy, việc đảm bảo an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu
luôn là vấn đề bức xúc đối với xã hội, đòi hỏi cộng đồng trách nhiệm trong đó vai
trò của Nhà nước là chủ đạo, cùng sự quan tâm giúp đỡ của mọi tổ chức, cá nhân
và sự nỗ lực của ngay chính bản thân người lao động, nhằm tạo nên một xã hội
văn minh, tốt đẹp hơn, đó là mục tiêu hướng tới của mọi quốc gia trên thế giới khi

bước vào thế kỷ XXI.
1.1.3. Hệ thống an sinh xã hội
Hệ thống an sinh xã hội được hiểu là hệ thống các chính sách của Chính
phủ nhằm duy trì và đảm bảo thu nhập của các thành viên trong xã hội trong
những lúc khó khăn, hoặc rủi ro để đảm bảo ổn định đời sống.
1.1.3.1. Cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội
Hệ thống an sinh xã hội được thiết lập tuỳ theo phạm vi của an sinh xã hội,
đặc điểm tình hình kinh tế – xã hội, mục tiêu của phát triển của mỗi quốc gia.
Hiện nay, các tổ chức quốc tế, các nhà nghiên cứu khoa học đã đưa ra một số mô
hình của hệ thống an sinh xã hội như sau:
Theo quan niệm của Liên hiệp quốc, hệ thống an sinh xã hội bao gồm:
+ Hệ thống bảo hiểm xã hội: Gồm bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm y tế, các chế
độ trợ cấp bảo hiểm xã hội ngắn hạn.
+ Hệ thống trợ giúp xã hội: Như trợ cấp xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ xã hội
nhóm yếu thế
Luận văn Tốt nghiệp -16-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
+ Hệ thống trợ cấp xã hội chung: Như trợ cấp gia đình, dịch vụ y tế công
cộng, trợ cấp cho người cao tuổi
Trong những năm gần đây, các tổ chức ngân hàng và tiền tệ trên thế giới
như: IMF, ADB, WB,…,các nhà khoa học đã đưa ra một khái niệm mở rộng về an
sinh xã hội có nội dung tương đối phù hợp với điều kiện của các nước đang phát
triển. Theo đó, hệ thống an sinh xã hội bao gồm:
+ Hệ thống bảo hiểm xã hội: Bao gồm trợ cấp hưu trí, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm y tế và các khoản trợ cấp ngắn hạn.
Đó là hệ thống mà có sự tham gia đóng góp của các bên như chủ sử dụng
lao động, người lao động và Nhà nước, tạo ra một quỹ tài chính dự trữ để sử dụng
cho các trường hợp lúc tuổi già, ốm đau, thai sản, chết, tàn tật, bệnh nghề nghiệp.
Trong bảo hiểm xã hội, mọi thành viên tham gia đều phải đóng góp một
phần thu nhập vào quỹ bảo hiểm xã hội và nhận được các khoản trợ cấp khi về già

hoặc gặp phải những rủi ro theo quy định.
+ Trợ cấp xã hội và những dịch vụ xã hội: Đó là các loại phúc lợi xã hội
được trích từ thuế và các khoản đóng góp, các khoản hỗ trợ từ bên ngoài.
Trợ cấp xã hội: Là sự giúp đỡ của Nhà nước hoặc của cộng đồng bằng
tiền hoặc bằng các điều kiện và phương tiện thích hợp để đối tượng được trợ giúp
có thể phát huy khả năng tự lo liệu cuộc sống của bản thân và gia đình, sớm hoà
nhập trở lại với cuộc sống của cộng đồng.
Dịch vụ xã hội: Là những dịch vụ xã hội được thực hiện bởi các tổ chức tự
nguyện hoặc phi chính phủ, như các dịch vụ đối với người già, người tàn tật, trẻ
em lang thang cơ nhỡ, không nơi nương tựa, dịch vụ phục hồi chức năng cho
người tàn tật, các hoạt động phòng chống bệnh tật như công tác tiêm chủng, kiểm
tra sức khoẻ định kỳ cho người cao tuổi, các lớp xoá mù chữ, dịch vụ kế hoạch
hoá gia đình
+ Chính sách hỗ trợ của Nhà nước: Nhằm tạo việc làm và thu nhập cho
người lao động để đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình, để họ tự ổn định
cuộc sống trước những rủi ro xảy đến. Đó là các chính sách về thị trường lao
động, đào tạo nghề, hỗ trợ đào tạo lại, giới thiệu việc làm, cung cấp thông tin và
hỗ trợ tìm kiếm việc làm
Trong các mô hình hệ thống an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội là bộ phận lớn
nhất, cơ bản nhất và ổn định nhất. Chính sách bảo hiểm xã hội được coi là trụ cột
Luận văn Tốt nghiệp -17-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
lớn nhất của hệ thống an sinh xã hội quốc gia, bởi lẽ bảo hiểm xã hội có đối tượng
rất lớn là toàn bộ người lao động - những người tạo ra của cải vật chất cơ bản cho
xã hội. Tính cơ bản và ổn định của bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội
thể hiện thông qua vấn đề tài chính để thực thi chính sách của hệ thống này. Quỹ
bảo hiểm xã hội là một quỹ tài chính tập trung, được hình thành và tồn tích dần do
sự đóng góp của các bên tham gia theo luật định. Quỹ này được bảo hộ và đầu tư
tăng trưởng nhằm phục vụ tốt hơn cho các bên thụ hưởng. Bảo hiểm xã hội càng
hoạt động tốt, quỹ bảo hiểm xã hội càng phát triển, góp phần to lớn vào việc ổn

định đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời tạo ra sự vững mạnh
của nền an sinh xã hội quốc gia. Cùng với các bộ phận khác, bảo hiểm xã hội góp
phần tích cực tạo ra một “lưới an toàn xã hội” đối với mọi tầng lớp dân cư trong
xã hội. Điều này cho thấy bảo hiểm xã hội có vai trò to lớn trong hệ thống an sinh
xã hội nói riêng và hệ thống chính sách xã hội nói chung của quốc gia.
1.1.3.2. Cơ chế vận hành
Hệ thống an sinh xã hội không chỉ là những cơ chế đơn giản nhằm thay thế
thu nhập mà đã trở thành những công cụ phân phối lại thu nhập và cung cấp các
dịch vụ xã hội có lợi cho nhóm những người “yếu thế” trong cộng đồng. Sự phân
phối lại ở đây có thể được thực hiện theo 2 chiều: ngang và dọc.
+ Sự phân phối lại thu nhập theo chiều ngang: Là sự phân phối lại giữa
những người khoẻ mạnh và người ốm đau, giữa người đang làm việc và người đã
nghỉ việc, giữa người chưa có con và những người có gánh nặng gia đình. Thông
thường, sự phân phối lại theo chiều ngang chỉ xảy ra trong nội bộ những nhóm
người được hưởng trợ cấp; giữa một bên là những người đóng góp đều đặn vào
các loại quỹ an sinh xã hội và bên kia là những người được hưởng trong các
trường hợp với các điều kiện xác định.
+ Sự phân phối theo chiều dọc: Là sự chuyển giao tài sản và sức mua của
những người có thu nhập cao cho những người có thu nhập quá thấp, cho nhóm
những người “ yếu thế”.
Việc phân phối lại theo chiều dọc được thực hiện bằng nhiều kỹ thuật khác
nhau. Có thể trực tiếp qua thuế trực thu hoặc giá cả của những hàng hoá cao cấp,
hàng xa sỉ. Có thể gián tiếp qua việc cung cấp hiện vật hoặc các dịch vụ công
cộng như giáo dục, y tế, nhà ở,….
Luận văn Tốt nghiệp -18-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
Bên cạnh đó, có thể có các biện pháp để thực hiện sự hỗ trợ cho những
người có thu nhập thấp thông qua hệ thống đóng góp và hệ thống trợ cấp. Những
người có thu nhập thấp có thể được miễn giảm đóng góp theo chế độ hoặc được
hưởng tỷ lệ trợ cấp cao hơn so với những người có thu nhập cao.

Sự phân phối lại theo chiều ngang và chiều dọc đã tạo ra một lưới an sinh
xã hội nhằm mục đích che chắn cho mọi công dân, đặc biệt là những nhóm những
người “yếu thế” trước “rủi ro xã hội”.
1.1.4. Một số tiêu chí đánh giá an sinh xã hội
1.1.4.1. Thu nhập
Thu nhập là tổng số tiền kiếm được hoặc thu góp được trong một khoảng
thời gian nhất định. Thu nhập là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất để đánh giá
tình trạng của cuộc sống. Một khoản thu nhập thấp hoặc không ổn định tức là
cuộc sống của bản thân và gia đình không đảm bảo. Vấn đề ở chỗ thu nhập là bao
nhiêu thì có thể coi là đảm bảo một cuộc sống an toàn.
Theo quy định của Liên Hiệp Quốc thì khi thu nhập bình quân đầu người là
dưới 450 USD/năm là thuộc diện nghèo đói. Nếu lấy theo chuẩn này, một gia đình
có 4 người có thu nhập dưới mức 1.800 USD/năm là không đảm bảo an sinh. Tuy
nhiên tuỳ theo điều kiện thực tế, mỗi quốc gia có thể quy định chuẩn nghèo đói
riêng vì nó phụ thuộc vào giá cả, sức mua của đồng tiền, mức sinh hoạt, điều kiện
sống Nếu chi phí cho sinh hoạt hàng ngày để duy trì cuộc sống là thấp thì chuẩn
nghèo của quốc gia có thể quy định thấp hơn chuẩn của Liên hiệp quốc, và ngược
lại có quốc gia sẽ quy định chuẩn nghèo cao hơn mức chuẩn chung.
Theo cách tiếp cận của Ngân hàng thế giới (WB), những người được coi
thuộc diện nghèo đói là những người có thu nhập không đảm bảo cho lượng dinh
dưỡng tối thiểu bù đắp 2.100 kcal/người/ngày đêm. Áp dụng chuẩn này, năm
2000 Bộ lao động thương binh và xã hội đưa ra ngưỡng nghèo cho từng khu vực
đó là: Nông thôn miền núi, hải đảo: thu nhập 80.000 đồng/người/tháng; nông thôn
đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng; thành thị: 150.000 đồng/người/tháng.
Trước những thay đổi nhanh chóng của tình hình kinh tế – xã hội đất nước,
ngày 26/05/2005, Chính phủ ban hành quy định mới về chuẩn nghèo đói của Việt
nam. Theo đó, nếu thu nhập bình quân 1 người: ở thành thị dưới 260.000 VNĐ/ 1
tháng; nông thôn dưới 200.000 VNĐ/ 1 tháng là mức nghèo đói. Với quy định
Luận văn Tốt nghiệp -19-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)

mới này đã đưa tỷ lệ nghèo đói của nước ta từ 8% lên 28%. Như vậy sẽ có hơn
1/4 hộ gia đình sẽ thuộc diện nghèo đói, tức là an sinh xã hội theo chuẩn mực
chung chưa được đảm bảo.
1.1.4.2. Mức sống
Mức sống là mức độ thoả mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần với
những tiêu chuẩn nhất định được xã hội thừa nhận. Đó là sư thoả mãn và đáp ứng
các nhu cầu đã được thiết lập phù hợp với trình độ phát triển của quốc gia tại một
thời điểm, bao gồm nhu cầu về: Ăn; mặc; nhà ở; đồ dùng sinh hoạt; giao thông đi
lại và thông tin liên lạc; chăm sóc y tế; giáo dục; hưởng thụ văn hoá; dịch vụ công
cộng; môi trường; mức độ an toàn của con người trong cuộc sống và làm việc.
Việc thoả mãn các nhu cầu đó đối với mỗi quốc gia, vùng, nhóm dân cư là
khác nhau. Ngay trong một quốc gia cũng có thể phân chia mức sống thành các
loại mức sống:
- Mức sống cao: Là khả năng đáp ứng cao nhất mọi nhu cầu, tạo ra những
điều kiện thuận lợi nhất để con người tự hoàn thiện và phát triển toàn diện.
- Mức sống chung của xã hội: Là mức sống trung bình của xã hội tại mỗi
trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội, đó là mức sống của đại đa số dân chúng.
- Mức sống tối thiểu: Là mức độ thoả mãn cho các nhu cầu tối thiểu của
con người tại một thời điểm nhất định, đó là các tư liệu sinh hoạt cần thiết cho
cuộc sống như ăn, ở, đi lại. Đó là mức sống giới hạn mà dưới mức đó, con người
không có khả năng tái sản xuất giản đơn sức lao động và đảm bảo được nhân
cách, và khi đó con người bị rơi vào tình trạng nghèo đói, cực khổ.
- Nghèo đói: Đó là tình trạng con người sống trong cảnh không có năng lực
hoặc thiếu khả năng để duy trì cuộc sống và tham gia vào đời sống xã hội.
Dựa trên cơ sở trình độ phát triển nền kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia,
việc đánh giá mức sống sẽ dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu khác nhau. Tuy
nhiên một mức sống được coi là đảm bảo, tức là được “an sinh” thì phải đủ tiêu
chuẩn theo theo mức sống chung của xã hội.
1.1.4.3. Khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội
Đó là khả năng được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ về y tế, giáo dục, văn

hoá thông tin, nhất là các dịch vụ về bảo hiểm.
Việc tiếp cận được các dịch vụ xã hội này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
như điều kiện địa lý; các chế tài, khung phấp lý, quyền nhân thân
Luận văn Tốt nghiệp -20-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
Còn việc sử dụng được các dịch vụ xã hội này, ngoài khả năng của bản
thân, đòi hỏi phải có sự trợ giúp của Nhà nước về cơ chế chính sách cũng như
những hỗ trợ điều kiện tài chính và kỹ thuật.
Khi tiếp cận và sử dụng được các dịch vụ xã hội này, cuộc sống con người
sẽ ngày càng được nâng cao về mọi mặt, cả vật chất lẫn tinh thần, nhất là khả
năng chống lại những rủi ro, bất trắc mà con người luôn phải đối mặt, giúp cho
cuộc sống ngày càng đảm bảo và an toàn hơn.
1.1.5. Vai trò của hệ thống an sinh xã hội
1.1.5.1. Ổn định đời sống con người
Con người sinh ra ai cũng được quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc và
mưu cầu cuộc sống trong xã hội, tạo hoá cho họ cái quyền đó. Nhưng không dễ gì
mà con người sinh ra và lớn lên đã có thể thực hiện được quyền đó bởi vì trong
cuộc sống người ta gặp phải biết bao nguy cơ, nguy hiểm không do chính họ gây
ra mà từ khách quan đưa đến. Kết quả là một số cá nhân, cộng đồng cư dân không
thể tồn tại được hoặc tồn tại một cách lay lắt. Chính trong hoàn cảnh đó, hệ thống
an sinh xã hội đã trợ cấp cho họ, giúp cho họ có thể kiếm được việc làm, bù đắp
những khoản thu nhập thiếu hụt và tự ổn định được cuộc sống.
1.1.5.2. Góp phần thực hiện công bằng xã hội
Kinh tế thị trường dưới tác động của quy luật giá trị, quy luật độc quyền và
cạnh tranh, quy luật chuyển giá trong các công ty xuyên quốc gia, quy luật tích
luỹ tích tụ ngày càng tăng tất cả các khuynh hướng đó tất yếu đưa nhân loại đến
thảm cảnh phân hoá giàu nghèo ngày một tăng. Chúng ta có thể thấy điều đó
thông qua những kết luận của hội nghị các Nguyên thủ quốc gia họp tại Nam Phi
tháng 9/2002: Tài sản của 3 nhà tỷ phú bằng tài sản của 49 quốc gia cộng lại; 5%
dân số người giàu trên trái đất chiếm 85% của cải, còn 95% dân số còn lại chia

nhau 15% của cải. Còn ngay trong mỗi quốc gia, cái hố ngăn cách giữa người
giàu và người nghèo ngày càng sâu hơn và rộng hơn. Tình trạng “người ăn không
hết, kẻ lần không ra” ngày càng xuất hiện rõ nét.
Hệ thống an sinh xã hội, bằng những cơ chế vận hành theo chiều ngang và
chiều dọc của nó đã góp phần cải thiện điều kiện sống của nhân dân, đặc biệt là
đối với người nghèo. Thực hiện phân phối lại giữa người khoẻ và người ốm, giữa
Luận văn Tốt nghiệp -21-
HV - Nguyễn Đức Tú – K11- KTCT (2002 - 2005)
người đang làm việc và người đã nghỉ việc; phân phối lại giữa người giàu và
người nghèo thông qua chính sách điều tiết của Nhà nước như việc đánh thuế thu
nhập đối với những người có thu nhập cao, thuế gián thu đối với những hàng hoá
sa xỉ để thực hiện cứu tế, trợ giúp cho người gặp phải hoàn cảnh khó khăn. Điều
đó làm giảm bớt sự bất bình đẳng trong xã hội, tạo nền tảng cho một xã hội tốt
đẹp hơn.
1.1.5.3. Góp phần đảm bảo lợi ích trước mắt và lâu dài của quốc gia
Lựa chọn kinh tế xét cho đến cùng là giải bài toán tối ưu ngắn hạn và dài
hạn. Kinh tế thị trường càng phát triển thì tính cận thị, tính thực dụng càng cao,
làm cho con người chỉ biết nhìn gần không biết nhìn xa, làm cả xã hội bị mất cân
đối giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt. Đó là một trong những nguyên nhân
gây rối loạn xã hội, gây mất cân bằng trong sự phát triển xã hội.
Trước bối cảnh đó, hệ thống an sinh xã hội trong đó có các quỹ dự phòng
như quỹ bảo hiểm hưu trí, quỹ bảo hiểm thất nghiệp, các quỹ phòng xa khác đã
góp phần giữ vững thăng bằng đó.
Đối với lợi ích trước mắt là đảm bảo đời sống cho người lao động. Chẳng
hạn khi còn trẻ khoẻ, làm ăn được, thông qua quỹ hưu trí biết tích cóp để dự
phòng khi về già hoặc không may gặp rủi ro không còn khả năng lao động thì vẫn
có khoản trợ cấp hưu trí này để đảm bảo cuộc sống. Trong một xã hội nếu mỗi
người đều biết tích luỹ thông qua các quỹ của hệ thống an sinh quốc gia thì sẽ
đảm bảo an toàn cho cả xã hội, đó chính là lợi ích lâu dài của quốc gia.
1.1.5.4. Góp phần chống lại khủng hoảng mang tính chu kỳ kinh doanh

Kinh tế thị trường nói chung, kinh tế thị trường Tư bản nói riêng thường
phát triển có tính chu kỳ. Chu kỳ kinh tế đó chính là chu kỳ khủng hoảng. Trước
đây người ta tính được chu kỳ khủng hoảng từ 8-12 năm kết thúc một chu kỳ kinh
tế, cho tới nay thì chu kỳ đó vào khoảng 2-5 năm. Trong một chu kỳ kinh doanh
có điểm cực đại của tăng trưởng kinh tế. Đó là điểm nóng của nền kinh tế. Tại đó
khủng hoảng kinh tế sẽ nổ ra. Đó là hiện tượng hàng hoá ế ẩm không bán được,
công nhân thất nghiệp, hàng loạt nhà máy phải đóng cửa. Khủng hoảng nổ ra thì
hậu quả nặng nề nhất giáng lên đầu những người lao động. Người lao động thất
nghiệp dẫn đến không có thu nhập, kéo theo sức mua giảm. Cầu giảm dẫn đến
cung giảm làm cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế chậm lại, thậm chí bằng

×