Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

tìm hiểu về bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.29 KB, 19 trang )

P a g e | 1
MỤC LỤC
I. Lời mở đầu
II. Vài nét về BHXH
1. Khái niệm về BHXH
2. Đối tượng và phạm vi của BHXH
3. Sự cần thiết khách quan của BHXH
4. Bản chất và chức năng của BHXH
III. Những vấn đề cơ bản về BHXH khu vực phi chính thức
1. Khái niệm khu vực lao động phi chính thức
2. Vị trí và vai trò của khu vực lao động phi chính thức trong nền
kinh tế-xã hội
3. Khái niệm BHXH tự nguyện
4. Hạn chế của chính sách an sinh xã hội đến khu vực lao động phi
chính thức
IV. Thực trạng BHXH khu vực phi chính thức
1. Thực trạng BHXH khu vực phi chính thức
2. Nguyên nhân mức độ bao phủ của BHXH trong khu vực phi chính
thức còn thấp
V. Một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt BHXH tự nguyện
khu vực phi chính thức
Viết tắt : Bảo hiểm xã hội :BHXH
Bảo hiểm y tế : BHYT
An sinh xã hội : ASXH
I. Lời mở đầu
 Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một bộ phận lớn nhất trong hệ thống an sinh xã
hội (ASXH), là trụ cột cơ bản của ASXH. BHXH được hình thành từ hàng
trăm năm trước đây, khi kinh tế hàng hóa hình thành và phát triển. BHXH đã
trải qua một quá trình phát triển và thay đổi cả về mô hình nội dung và hình
thức thực hiện, từ chế độ BHXH đầu tiên được thực hiện là chế độ bảo hiểm
1


P a g e | 2
khi ốm đau đến nay đã có 9 chế độ BHXH được thực hiện trên thế giới, đồng
thời đối tượng tham gia BHXH cũng được mở rộng theo. Một trong những
mục tiêu và triết lý của BHXH là ổn định và phát triển xã hội, đảm bảo các
điều kiện cơ bản, thiết yếu của đời sống con người.
 Trong xã hội hiện đại, các quốc gia, một mặt nỗ lực hướng vào và phát huy
mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra bước phát triển bền vững và ngày
càng phồn vinh cho đất nước; mặt khác, không ngừng hoàn thiện hệ thống
ASXH, trước hết là BHXH để giúp cho con người, người lao động có khả
năng chống đỡ với các rủi ro xã hội, đặc biệt là rủi ro trong kinh tế thị trường
và rủi ro xã hội khác. Kinh tế ngày càng phát triển theo hướng thị trường, thì
ASXH càng phải đảm bảo tốt hơn.
 Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các
chính sách xã hội đối với người lao động. Chính vì vậy, ngay từ khi thành
lập nước, Chính phủ đã ban hành các đạo luật về BHXH. Chính sách BHXH
trong từng thời kỳ đã đóng vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo ASXH cho
đất nước. Tuy nhiên, trải qua một thời gian dài chính sách BHXH cũng chỉ
phục vụ đối tượng người lao động thuộc các cơ quan và doanh nghiệp nhà
nước. Đến năm 1995, khi Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành từ ngày 1
tháng 1 năm 1995, tại Điều 140 đó quy định các loại hình bảo hiểm xã hội
bắt buộc hoặc tự nguyện được áp dụng đối với từng loại đối tượng và từng
loại doanh nghiệp để bảo đảm cho người lao động được hưởng các chế độ
bảo hiểm thích hợp.
 Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước hội nhập sâu
vào nền kinh tế thế giới, thì hệ thống an sinh xã hội, nhất là BHXH phải
được phát triển và hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của người lao động, của nhân
dân, là một trong những nhu cầu rất cơ bản của con người. Bên cạnh việc
ban hành các chính sách nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, Nhà
nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với

người lao động. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
2
P a g e | 3
đã chỉ rõ: "Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm xã hội và an
sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội cho mọi người lao
động, mọi tầng lớp nhân dân". Vì vậy, việc thực hiện chính sách BHXH tự
nguyện đối với người lao động khu vực phi chính thức là hết sức cần thiết.
 Luật BHXH ra đời có hiệu lực thi hành từ năm 2007. Riêng chế độ BHXH tự
nguyện được áp dụng từ năm 2008. Đây là luật đầu tiên ở Việt Nam đó thể
chế ở mức cao một nhu cầu rất cơ bản về an sinh xã hội của con người (bao
gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp), trong đó
BHXH tự nguyện chủ yếu cho đối tượng là người lao động khu vực phi
chính thức tức là người lao động làm việc không thuộc phạm vi tham gia
BHXH bắt buộc. Như vậy, lần đầu tiên người lao động ở mọi khu vực có
quyền lợi trong tham gia BHXH và thụ hưởng chính sách BHXH.
 Tuy nhiên, qua nhiều năm việc thực hiện chính sách BHXH ở khu vực phi
chính thức vẫn nhiều nhiều vấn đề bất cập và hạn chế như : làm thế nào để
người lao động nhận thức được sự cần thiết tham gia BHXH, giải pháp nào
giải quyết việc tham gia BHXH của người lao động khi thu nhập bấp bênh,
vấn đề thể chế và tổ chức thực hiện, đội ngũ cán bộ thi hành,…
 Nhằm mục đích tìm hiểu sâu hơn về BHXH, mà cụ thể là BHXH tự nguyện
khu vực phi chính thức cũng như hoàn thành bài tiểu luận cuối kỳ môn chính
sách xã hội, tôi đã chọn đề tài: “ Tìm hiểu về bảo hiểm xã hội tự nguyện
khu vực phi chính thức ”.
II. Vài nét về BHXH
1. Khái niệm về BHXH
 BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người
lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao
động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập
trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần

đảm bảo an toàn xã hội.
2. Đối tượng và phạm vi BHXH
a) Đối tượng của BHXH
3
P a g e | 4
 Bảo hiểm xã hội là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và
đến nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. Tuy BHXH ra đời
sớm như vậy nhưng một số khái niệm cơ bản của chúng như: đối tượng tham
gia, đối tượng được bảo hiểm, đối tượng thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm đôi
khi còn có sự nhầm lẫn và có nhiều quan điểm chưa thống nhất. Có nhiều lúc
còn lẫn lỗn giữa đối tượng BHXH với đối tượng tham gia BHXH.
 Như chúng ta đã biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị
giảm hoặc mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động,
mất việc làm vì các nguyên nhân như: ốm đâu, tai nạn, già yếu…Chính vì
vậy, đối tượng bảo hiểm xã hội chính là thu nhập của người lao động bị biến
động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm.
 Người lao động trong quan hệ BHXH vừa là đối tượng tham gia, vừa là đối
tượng được bảo hiểm và họ cũng là đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH
(chiếm phần lớn trong các trường hợp phát sinh trách nhiệm BHXH).
 Đối tượng tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà còn có người sử
dụng lao động và Nhà nước. Sở dĩ người sử dụng lao động tham gia vào
BHXH là vì phần họ thấy được lợi ích thiết thực khi tham gia BHXH, một
phần là do sự ép buộc của Nhà nước thông qua cac văn bản quy phạm pháp
luật. Đối với Nhà nước thì khác, họ tham gia BHXH với tư cách là : chủ sở
hữu lao động đối với tất cả công nhân viên chức và những người hưởng
lương từ ngân sách. Nhà nước là người bảo hộ cho quỹ BHXH mà cụ thể là
bảo hộ giá trị của quỹ BHXH, bảo hộ cho sự tăng trưởng của quỹ nhằm tạo
sự ổn định cho quỹ và sự phát triển xã hội.
 Đối tượng được bảo hiểm xã hội trong quan hệ BHXH ngoài người lao động

còn có người sử dụng lao động. Bởi vì, khi người lao động gặp rủi ro thì
người sử dụng lao động phải có trách nhiệm giúp đỡ. Điều này có nghĩa là
họ phải bỏ ra một khoản chi phí cho người lao động, nhưng thực tế chi phí
này nhanh chóng được cơ quan bảo hiểm hoàn trả lại.
4
P a g e | 5
 Đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH là người lao động trong trường hợp
họ gặp rủi ro như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp,
hưu trí. Nhưng trong trường hợp người lao động bị tử vong hoặc sinh đẻ thì
đối tượng hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hôi lại là thân nhân của người lao
động như: bố, mẹ, con, vợ (chồng).
b) Phạm vi BHXH
Theo công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơ-ne-vơ của tổ chức lao động
quốc tế ILO phạm vi của BHXH là trợ cấp cho 9 chế độ sau:
 Chăm sóc y tế
 Trợ cấp ốm đau
 Trợ cấp thất nghiệp
 Trợ cấp tuổi già
 Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
 Trợ cấp gia đình
 Trợ cấp thai sản
 Trợ cấp khi tàn phế
 Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Tùy điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơ-ne-vơ thực
hiện kiến nghị đó ở mức độ khác nhau.
Ở nước ta theo điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nước ta hiện nay bao gồm 5
chế độ: chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
3. Sự cần thiết khách quan của BHXH
 Con người muốn tồn tài và phát triển được trước hết phải ăn, ở và đi lại,…

Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra
những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống
con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn.
Như vậy, việc thỏa mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người
phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế, con
người không chỉ lúc nào cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều
kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất
lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu
nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Khi rơi vào những trường hợp này,
các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái
5
P a g e | 6
còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới khác. Bởi vậy,
muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm
ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc
lẫn nhau trong một nội bộ cộng đồng; đi vay;mượn hoặc dựa vào sự cứu trợ
của Nhà nước,…Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không
chắc chắn.
 Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ
biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải
cam kết bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ
trang trải những nhu cầu cần thiết khi ốm đau, tai nạn, thai sản,…Nhưng
thực tế, nhiều trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi trả
đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ một lúc phải bỏ ra
trong một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn
chủ-thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc chủ phải thực hiện cam
kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt
đến đời sống kt-xh. Do vậy, Nhà nước phải đứng ra can thiệp và điều hòa
mâu thuẫn.
 Sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc các

giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng
được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người
làm thuê. Số tiền đống góp này hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên
phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần
thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố
bất lợi. Chính vì thế, cuộc sống của người lao động và gia định họ ngày càng
được đảm bảo ổn định, giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản
xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần
thiết.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được
thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy, BHXH là sự
6
P a g e | 7
đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ
gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời
sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
4. Bản chất và chức năng của BHXH
a) Bản chất của BHXH
 BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong
xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ
thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát
triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền
tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
 Mối quan hệ giữa cái bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động
và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
Bên tham gia là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao
động. Bên BHXH là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ.
Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện
ràng buộc cần thiết.

 Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái ý muốn trái với chủ quan của
con người như : ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,…Hoặc cũng có
thể là trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản,
…Đồng thời những biến cố đó có thế diễn ra cả trong và ngoài lao động.
 Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những
biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tập trung
được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ
yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ của Nhà nước
 Mục tiêu của BHXH là nhằm thõa mãn những nhu cầu cần thiết của người
lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm.
b) Chức năng của BHXH
BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm xã hội của Đảng
và Nhà nước ta, BHXH có những chức năng chủ yếu sau:
7
P a g e | 8
 Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia
BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc
mất việc làm
 Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia
BHXH, góp phần thực hiện công bằng xã hội.
 Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao
năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
 Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người
lao động với xã hội.
III. Những vấn đề cơ bản về BHXH khu vực phi chính thức
1. Khái niệm khu vực lao động phi chính thức
 Theo ILO (tổ chức lao động quốc tế), khu vực phi chính thức hiểu một cách
chung nhất là một tập hợp các đơn vị sản xuất kinh doanh ra sản phẩm vật
chất và dịch vụ với mục tiêu chủ yếu nhằm tạo ra công ăn việc làm và thu

nhập cho những người có liên quan. Khái niệm của ILO về khu vực phi
chính thức đã coi các đơn vị sản xuất kinh doanh là đơn vị quan sát. Các đơn
vị này mang những đặc điểm của hộ sản xuất kinh doanh, không có tư cách
pháp nhân, chưa đăng ký hoặc có quy mô nhỏ. Định nghĩa của ILO cũng loại
trừ lĩnh vực nông nghiệp ra khỏi khu vực phi chính thức.
 Hiện nay, có nhiều quan niệm về khu vực phi chính thức, tuy nhiên các
nghiên cứu đều ngụ ý rằng khu vực không chính thức bao gồm những cơ sở
sản xuất kinh doanh ở quy mô nhỏ, không đăng ký kinh doanh, không chịu
sự điều chỉnh của Luật lao động, Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã, không
đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) và không bao gồm các hoạt động nông lâm
ngư nghiệp vì các đặc điểm của khu vực phi chính thức rất khác so với hoạt
động nông nghiệp về mùa vụ, tổ chức lao động, mức tạo thu nhập và tính
pháp lý…
8
P a g e | 9
2. Vị trí và vai trò của khu vực lao động phi chính thức trong nền kinh tế-xã
hội
 Năm 2010, lực lượng lao động của nước ta vào khoảng 48 triệu người, trong
đó lao động khu vực chính thức chiếm 13 triệu người, lao động khu vực
không chính chức chiếm 11 triệu người, còn lại có gần 24 triệu người làm
việc trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp-chiếm 49% tổng việc làm trong
nền kinh tế. Cả nước có 8,4 triệu hộ sản xuất, kinh doanh phi chính thức,
trong đó 7,4 triệu hộ xem hoạt động trong khu vực này của mình là việc làm
chính và 1 triệu hộ xem đó là việc làm thứ hai. Thu nhập từ khu vực việc làm
phi chính thức chiếm khoảng 30 – 60% tổng thu nhập quốc gia, đóng góp
20% tổng GDP của cả nước. Nếu nghề nông và việc làm nông nghiệp được
tính vào thì khoảng 73% số việc làm là do kinh tế hộ gia đình cung cấp.
 Những người làm việc trong khu vực không chính thức là những lao động tự
do, bao gồm: Thợ uốn tóc, thợ may tại nhà, buôn bán rong, thợ xây dựng tự
do, người hành nghề xe ôm, người giúp việc gia đình… và những người tự

nguyện làm công cho người khác mà không được ký hợp đồng lao động.
Những hoạt động này ở Việt Nam hiện thu hút được nhiều lao động. Nó
cũng lấp được khoảng trống thiếu hụt về việc làm và thu nhập đối với một bộ
phần lớn người dân. Hiện việc làm trong khu vực không chính thức có gần
10,9 triệu người, chiếm 23,5% tổng việc làm. Trong đó lao động tự làm là
15%, lao động làm thuê là 5,7%, lao động gia đình không hưởng lương 1,9%
và người sử dụng lao động là 0,9%
 Trong thời kỳ suy giảm kinh tế vừa qua, khu vực không chính thức đã “gánh
đỡ” nhiều cho nền kinh tế của Việt Nam. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở các
nước đều tăng trước tác động của biến động kinh tế toàn cầu thì tại Việt Nam
số đó lại giảm. Đặc biệt, nhờ khởi nguồn từ khu vực này mà không ít doanh
nghiệp còn phát đạt, thành công và cung cấp một nguồn việc làm rất lớn.
Đơn cử như tại Hà Nội và TP.HCM, khu vực phi chính thức vẫn là nguồn
cung cấp việc làm lớn nhất (hơn 1 triệu ở Hà Nội và hơn 1,3 triệu ở
9
P a g e | 10
TP.HCM), chiếm tương ứng 32% và 34% tổng số việc làm ở mỗi thành phố.
Giá trị tăng thêm tạo ra bởi khu vực này là 34.000 tỷ đồng ở Hà Nội và
40.000 tỷ đồng ở TP.HCM.
 Đặc điểm của lao động và việc làm trong khu vực phi chính thức thể hiện là
lao động thuộc khu vực phi chính thức và nông thôn có nhiều ở nông thôn và
ngoại thành hơn là nội thành: chiếm 67%, tuổi bình quân của lao động khu
vực phi chính thức giống như tuổi bình quân của lao động nói chung nhưng
tập trung nhiều ở lao động trẻ tuổi và cao tuổi hơn. Tỷ lệ phụ nữ của khu vực
không chính thức thấp hơn đôi chút so với tỷ lệ chung ( ở mức gần 50%).
Trình độ học vấn và có chuyên môn kỹ thuật của lao động khu vực phi chính
thức tương đối thấp, thấp nhất so với lao động ở các khu vực khác trừ khu
vực nông nghiệp: chỉ có 15, 7% số lao động có trình độ từ phổ thông trung
học trở lên, trên 90% số lao động thuộc khu vực không chính thức không có
bất kỳ chứng chỉ tay nghề nào.

 Nhìn chung, khu vực phi chính thức đóng một vai trò quan trọng trong nền
kinh tế - xã hội, chiếm một lực lượng lao động đông, năng động, dễ chuyển
đổi, tuy nhiên đây là một khu vực dễ bị tổn thương.
3. Khái niệm BHXH tự nguyện
 Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động
tự nguyện tham gia, được lựa chon mức đóng và phương thức đóng phù hợp
với thu nhập của mình để được hưởng bảo hiểm xã hội
4. Hạn chế của chính sách an sinh xã hội đến khu vực lao động phi chính
thức
 Mặc dù đóng góp không nhỏ vào phát triển kinh tế, xã hội của đất nước
nhưng chương trình, chính sách ASXH hiện vẫn chưa bao phủ lên số đông
NLD (người lao động) làm việc tại khu vực không chính thức. Chẳng hạn
việc đóng BHXH và BHYT đối với NLĐ trong khu vực này vẫn khá xa vời.
Bằng chứng là mặc dù Việt Nam đã đề xuất và thực hiện nhiều chính sách
nhằm tiến tới thực hiện BHYT toàn dân nhưng đa số lao động khu vực này
10
P a g e | 11
đều chưa mặn mà tham gia vì họ thấy rằng, họ còn phải lo những gánh nặng
chi tiêu thiết thân cho cuộc sống hàng ngày. Chưa kể, những NLĐ làm việc
trong khu vực phi chính thức thường luẩn quẩn trong vòng đói nghèo. Họ bị
hạn chế về năng lực, kiến thức và vật chất, khiến không có nhiều cơ hội hòa
nhập xã hội.
 Là một nước nông nghiệp, dân số và lao động khu vực phi chính thức và
trong nông thôn chiếm tỷ trọng cao. Nếu như khu vực chính thức như hành
chính sự nghiệp, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, hiện nay
các chính sách an sinh xã hội bắt buộc như BHXH bắt buộc, bảo hiểm y tế
bắt buộc được triển khai tương đối khá thì khu vực không chính thức, khu
vực nông thôn hiện nay việc triển khai chính sách gặp nhiều khó khăn. Việc
triển khai hệ thống an sinh xã hội tự nguyện có tầm quan trọng đặc biệt (vì
số lượng người tham gia BHXH bắt buộc chỉ chiếm gần 20% lực lượng lao

động), hệ thống an sinh xã hội tự nguyện có phát triển rộng rãi thì hệ thống
an sinh xã hội ở nước ta mới thành công.
 Ngoài ra, khu vực không chính thức còn “gánh đỡ” nhiều cho nền kinh tế
của nước ta trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế vừa qua (khi khủng hoảng
kinh tế, các doanh nghiệp thuộc khu vực chính thức bị phá sản hoặc cắt giảm
nhân công, người lao động buộc phải chạy sang khu vực phi chính thức),
giúp tỷ lệ thất nghiệp duy trì mức thấp, cải thiện về điều kiện lao động, với
thu nhập tăng đáng kể. Nếu thực hiện tốt chính sách BHXH tự nguyện sẽ thì
sẽ giảm áp lực người lao động muốn vào khu vực kinh tế chính thức để
hưởng lương hưu và các ưu đãi khác.
 Với những đóng góp của lao động phi chính thức đối với xã hội và nền kinh
tế hiện nay, việc thừa nhận vị trí, vai trò xã hội và tạo điều kiện cho họ thụ
hưởng các dịch vụ công ích là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, khu vực
này vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức từ các cấp chính quyền mà
cần thiết nhất là những chính sách an sinh xã hội như: tín dụng hỗ trợ việc
làm, đào tạo nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm, BHXH, BHYT, bảo hiểm thất
nghiệp… trong đó trước hết phải kể đến chính sách BHXH.
11
P a g e | 12
IV. Thực trạng BHXH khu vực phi chính thức
1. Thực trạng BHXH khu vực phi chính thức
 Dân số Việt Nam tính đến năm 2007 khoảng 85,2 triệu người, trong đó
khoảng 46,6 triệu người trong độ tuổi lao động và 45,6 triệu người có việc
làm. Phần lớn lao động (33,3 triệu người, chiếm 73% lực lượng lao động)
làm việc trong khu vực phi chính thức như: Khu vực nông nghiệp, phi nông
nghiệp trong nông thôn, lao động tự do hành nghề, lao động hộ gia đình sản
xuất kinh doanh cá thể ở thành thị…; còn lại 12,3 triệu người (27% lực
lượng lao động) làm việc trong khu vực chính thức. Như vậy thực tế chỉ có
27% dân số trong độ tuổi lao động được tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH),
còn lại số lao động làm việc trong khu vực phi chính thức chưa được tham

gia BHXH.
 Tính đến năm 2007, tỷ lệ lao động ở khu vực phi chính thức tham gia BHXH
bắt buộc khoảng 14,95%, chủ yếu là trong lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông
thôn; tham gia BHXH tự nguyện là 3,74%, bảo hiểm y tế bắt buộc là 15,89%
và bảo hiểm y tế tự nguyện là 3,74%. Nhìn chung, trong khu vực phi chính
thức số người chưa có điều kiện tham gia vào thị trường bảo hiểm còn rất
lớn
 Kể từ khi Luật BHXH được Quốc Hội chính thức thông qua ngày 29 tháng 6
năm 2006, tính đến hết năm 2010, số lượng người tham gia BHXH bắt buộc
mới đạt 9,6 triệu người, chiếm khoảng gần 20% tổng số lực lượng lao động.
BHXH tự nguyện được đưa vào Luật để điều chỉnh đối tượng lao động trong
khu vực phi chính thức, được chính thức thực hiện từ 1/1/2008, nhưng sau 3
năm thực hiện, số người tham gia mới đạt khoảng hơn 90 ngàn người, trong
đó chủ yếu là những người đã tham gia BHXH bắt buộc và BHXH nông dân
Nghệ An chuyển sang, số người tham gia BHXH tự nguyện ngay từ đầu là
rất thấp. Việc thí điểm BHXH cho nông dân ở một số tỉnh trong giai đoạn
trước khi thực hiện BHXH tự nguyện nói chung không thành công, kể cả
BHXH nông dân Nghệ An (cho đến hết năm 2006, mới có hơn 86 ngàn
người tham gia). Có thể nói rằng, về cơ bản, nông dân, lao động tự do, kể cả
12
P a g e | 13
lao động di cư, lao động làm thuê trong khu vực tư nhân (kinh tế hộ cá thể)
…chưa tham gia BHXH. Ngoài ra, trong những năm qua, hệ thống bảo hiểm
thương mại phát triển mạnh, nhất là bảo hiểm nhân thọ, tạo cơ hội cho số lao
động khu vực phi chính thức có khả năng kinh tế tham gia, nhưng con số này
ở mức rất thấp.
2. Nguyên nhân mức độ bao phủ của BHXH trong khu vực phi chính thức
còn thấp
2.1.Mức đóng quá cao
 Theo quy định, người lao động trích một phần thu nhập của mình để đóng

góp vào quỹ BHXH tự nguyện với mức đóng hàng tháng bằng 16% mức thu
nhập người lao động tự chọn đóng BHXH; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm
một lần đóng thêm 2% cho đến khi đạt mức đóng là 22%. Mức thu nhập làm
cơ sở để tính đóng BHXH được thay đổi tùy theo khả năng của người lao
động ở từng thời kỳ; nhưng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung do nhà
nước quy định và cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung.
 Lao động khu vực không chính thức chiếm số lượng lớn nhưng chủ yếu là
lao động tự do, làm trong các cơ sở sản xuất có quy mô nhỏ, manh mún, đa
dạng về ngành nghề nên thu nhập cũng ở mức thấp, bấp bênh, thiếu ổn định.
Đối với lao động nông nghiệp, thu nhập của người lao động phụ thuộc nhiều
vào vụ mùa. Nói cách khác, thu nhập của họ có tính thời vụ. Khi thu hoạch
được sản phẩm, người nông dân mới có thu nhập. Vào những thời điểm khác
trong năm, thu nhập của họ rất thấp hoặc không có. Hơn nữa, sản phẩm nông
nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên, có năm được mùa, có năm
mất mùa… Vì vậy, nhìn chung, thu nhập của lao động nông nghiệp vừa thấp,
vừa không ổn định, sự tham gia BHXH của họ rất “thất thường”, họ có thể
tham gia (khi được mùa, có thu nhập) hoặc tạm dừng tham gia (khi mất mùa,
không có thu nhập). Với mức đóng như vậy, đối với những người sống ở
vùng nông thôn, đa phần là nông dân, người lao động có thu nhập thấp và
không ổn định nên việc tham gia BHXH tự nguyện bằng cách chắt bóp thu
nhập vốn ít ỏi hàng tháng của mình là rất khó khăn. Theo kết quả điều tra
13
P a g e | 14
của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, thu nhập bình quân của lao động tự do
tại các thành phố lớn năm 2010 chỉ đạt 2,2-2,5 triệu đồng/tháng (con số này
mới tăng lên thêm 500 ngàn đồng so với năm trước). Số tiền đó với chi tiêu
hàng ngày đã là quá khó, nói gì đến việc tham gia BHXH. Hơn nữa, mức
đóng BHXH tự nguyện sẽ tăng dần thì nhiều người không chắc chắn mình có
thể theo đuổi được mức đóng lũy tiến đó đến khi đạt đến mức 22% lương tối
thiểu chung. Còn đối với lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, ở các vùng

nông thôn hoặc miền núi, với mức thu nhập thấp hơn nhiều mức thu nhập ở
thành phố, việc tham gia BHXH vẫn còn khá xa vời. Tóm lại, đời sống của
phần lớn lao động khu vực không chính thức còn thấp, thậm chí thu nhập
chưa đủ chi tiêu và lo cho con cái, gia đình vì đa số họ là lao động chính
trong nhà, vừa nuôi con cái lại vừa nuôi cha mẹ già. Do đó đối với nhiều
người vấn đề trước mắt là tồn tại chứ không phải lo lắng cho tương lai xa,
đặc biệt là với nông dân và lao động nông nghiệp có thu nhập từ sản xuất
nông nghiệp thất thường.
2.2.Thời gian đóng kéo dài
 Việc quy định thời gian tham gia BHXH tối thiểu 20 năm, hoặc thiếu không
quá 5 năm so với quy định đã làm giảm một số lượng lớn những lao động
nam trên 45 tuổi và lao động nữ trên 41 tuổi tham gia BHXH. Trong nền
kinh tế thị trường, việc người lao động phải di chuyển tìm kiếm việc làm khi
thì thuộc thành phần kinh tế này, lúc thì chuyển sang thành phần kinh tế
khác, khi thì có hợp đồng lao động, lúc thì phải tự hành nghề để kiếm sống là
điều khó tránh khỏi đối với một bộ phận lớn lao động xã hội. Nhiều người
tham gia cả hai hình thức BHXH bắt buộc và tự nguyện trong nhiều giai
đoạn nhưng cuối đời vẫn không đáp ứng đủ ít nhất 15 năm tham gia BHXH
(dù chỉ thiếu một vài tháng) để được hưởng lương hưu hàng tháng- đó thực
sự là một điểm hạn chế cần được các nhà làm chính sách xem xét.
2.3.Thu nhập không ổn định và chưa có tiết kiệm, tích lũy
 Điều kiện để tham gia BHXH của người lao động ở khu vực phi chính thức
là phải có việc làm, có thu nhập, nhưng quan trọng hơn là phải có tiết kiệm
14
P a g e | 15
và tích luỹ. Tuy nhiên, chỉ khoảng 30,4% người lao động ở khu vực phi
chính thức luôn đủ thời gian làm việc trong năm, 60,4% thỉnh thoảng mới đủ
thời gian làm việc.
 Việc làm không ổn định là nguyên nhân dẫn đến thu nhập và tích luỹ thấp.
Nhìn chung, các hộ gia đình trong khu vực phi chính thức có khoản tích luỹ

trung bình sau khi trừ nợ khoảng 2,2 triệu đồng. Số hộ gia đình có khoản tích
luỹ từ 4,7 triệu đồng trở lên chỉ chiếm 22% tổng số hộ trong khu vực phi
chính thức. Số tiền tiết kiệm thường được chủ hộ sử dụng vào việc mua sắm
tài sản nhằm tái sản xuất mở rộng, hoặc dùng để xây nhà cửa, mua sắm đồ
dùng sinh hoạt và những nhu cầu chi tiêu khác như ma chay, cưới xin, thăm
hỏi, giỗ tết và các khoản đóng góp xã hội khác. Chính vì vậy, số tiền còn lại
để có thể đóng góp, tham gia BHXH tự nguyện cũng như các loại hình bảo
hiểm khác là không nhiều, khả năng tham gia BHXH tự nguyện của họ gặp
nhiều khó khăn.
2.4.Trình độ học vấn thấp
 Việc người dân chưa tích cực tham gia BHXH tự nguyện cũng do một phần
nguyên nhân là trình độ học vấn của người dân ở khu vực phi chính thức và
khu vực nông thôn ở mức thấp. Theo kết quả của cuộc điều tra Hộ sản xuất
kinh doanh và khu vực kinh tế phi chính thức (HB&IS) tại Hà Nội (năm
2007) và TP Hồ Chí Minh (năm 2008), số năm đi học bình quân của lao
động khu vực phi chính thức là 9,4 năm ở Hà Nội và 7,9 năm ở TP HCM,
thấp hơn 2 năm đối với khu vực chính thức (con số tương ứng là 10,9 và
9,3). Lưu ý rằng Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là hai thành phố lớn, có trình độ
dân trí và điều kiện học tập cao hơn các địa phương khác trong cả nước.
Trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và tiếp cận thông
tin về vai trò của BHXH tự nguyện, những người có hiểu biết về BHXH sẽ
có triển vọng tham gia nhiều hơn những người khác. Thêm vào đó, trình độ
học vấn thấp ảnh hưởng đến việc làm ổn định và tạo thu nhập ổn định, một
nhân tố quan trọng đối với khả năng tham gia BHXH.
2.5.Công tác tuyên truyền BHXH chưa đạt hiệu quả cao
15
P a g e | 16
 BHXH tự nguyện là chính sách mới, lần đầu tiên triển khai nên rất nhiều
người lao động chưa hiểu biết về BHXH, hoạt động tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về BHXH tự nguyện chưa được triển khai rộng khắp, tổ chức triển

khai còn chậm, chưa đều tại các tỉnh, thành phố và còn thiếu các hình thức
phù hợp tác động trực tiếp đến đối tượng tham gia đặc biệt khu vực nông
thôn, làng nghề, dịch vụ. Công tác tuyên truyền chưa được quan tâm và đầu
tư đúng mức, kinh phí rất hạn hẹp và so với BHXH bắt buộc, công tác tuyên
truyền BHXH tự nguyện chưa được quan tâm bằng, công tác tuyên truyền
chủ yếu tập trung vào phổ biến các chế độ của BHXH bắt buộc, phổ biến đến
các khu công nghiệp, nhà máy nơi có nhiều người sử dụng lao động và người
lao động làm công ăn lương.
V. Một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt BHXH tự nguyện khu vực
phi chính thức
 Khi xã hội càng phát triển cuộc sống xã hội của con người càng đa dạng và
phong phú, những khả năng rủi ro xã hội có chiều hướng gia tăng, do đó nhu
cầu về bảo hiểm an toàn cho các cá nhân vì thế cũng tăng lên, đặc biệt là
những người lao động làm việc trong khu vực phi chính thức. Lao động
trong khu vực này là người lao động vừa làm chủ tư liệu sản xuất, vừa làm
chủ sức lao động, nhưng trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh của họ còn lạc
hậu, lao động thủ công là chính, năng suất lao động xã hội chưa cao. Do đó
thu nhập của những người này thường thấp và chịu nhiều rủi ro như thiên tai,
địch hoạ, tai nạn lao động. Chính vì vậy, tiếp cận tới mạng lưới an sinh xã
hội thông qua việc tham gia vào các hình thức của BHXH là nhu cầu cấp
bách đối với khu vực phi chính thức.
 Đặc điểm của lao động khu vực không chính thức là không nằm trong tổ
chức kinh tế có tư cách pháp nhân, mà chủ yếu làm việc trong hộ gia đình
(nhất là nông thôn), độ phân tán cao, thường xuyên di chuyển và trình độ dân
trí thấp, không hạch toán thu nhập rõ ràng…Do đó, việc tiếp cận BHXH tự
nguyện là trực tiếp. Bởi vậy, nếu không tạo điều kiện cho họ thì khả năng
16
P a g e | 17
tham gia là rất hạn chế. Để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động khu
vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện, tôi có một số giải pháp sau:

 Về tài chính, cần thiết phải hình thành Quỹ BHXH tự nguyện hạch toán độc
lập, được sự bảo hộ và hỗ trợ khi cần thiết, nhất là trong các trường hợp rủi
ro của Quỹ. Đồng thời, cải cách thủ tục thanh toán BHXH nhằm tạo điều
kiện thuận lợi để người lao động trong khu vực phi chính thức dễ dàng tiếp
cận và tham gia BHXH tự nguyện thông qua các biện pháp như: Chỉ sử dụng
một giấy tờ duy nhất là CMND (theo mẫu mới) hoặc hộ chiếu (cấp dài hạn)
đối với những người tham gia BHXH tự nguyện lần đầu, bỏ qua công đoạn
thẩm tra nguồn thu nhập với những người tham gia, đồng thời tiến tới sử
dụng thẻ điện tử để có thể sử dụng linh hoạt, cơ động trong quá trình di
chuyển lao động.
 Lồng ghép chương trình BHXH tự nguyện với các chương trình mục tiêu
khác (Chương trình việc làm, Chương trình giảm nghèo, Chương trình phát
triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn…). Điều kiện cơ bản nhất để
người lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện là phải có
việc làm với giá trị cao và thu nhập cao, có tích lũy để có khả năng đóng
BHXH tự nguyện. Do vậy, chiến lược mở rộng độ bao phủ của BHXH tự
nguyện phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược việc làm,
xóa đói giảm nghèo…Muốn người nghèo tham gia BHXH tự nguyện, cần
phải có chính sách hỗ trợ đối với họ (giống như BHYT cho người nghèo).
Tuy nhiên, hình thức hỗ trợ có thể theo tỷ lệ % hoặc cho vay hộ nghèo với
lãi suất ưu đãi để họ đóng BHXH tự nguyện. Chương trình cho vay cũng
phải gắn với chương trình mục tiêu giảm nghèo để họ khi vượt được nghèo
thì họ phải tự đóng BHXH tự nguyện. Nghĩa là phải có chiến lược hỗ trợ và
chiến lược rút lui, khi họ có khả năng tự đóng BHXH tự nguyện. Nguồn quỹ
cho vay BHXH tự nguyện đối với người nghèo có thể thông qua thành lập
Quỹ An sinh xã hội ở cơ sở (thôn, bản, làng xã) từ nguồn ngân sách Nhà
nước, đóng góp của nhân dân và hỗ trợ quốc tế (hiện nay Ngân hàng thế giới
17
P a g e | 18
rất quan tâm và sẵn sàng giúp đỡ đóng góp vào chương trình này khi Chính

phủ công bố rõ ràng về chính sách).
 Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức của người lao động khu vực
phi chính thức về BHXH tự nguyện để họ hiểu, tin tưởng và tham gia…
Hình thức tuyên truyền có thể là: Tổ chức các cuộc tập huấn cho các báo cáo
viên thuộc hệ thống tuyên giáo cấp cơ sở để họ tuyên truyền lại cho người
dân, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các báo, đài phát
thanh, vô tuyến truyền hình, xây dựng các trang web, in ấn và phát hành các
tờ rơi, đưa nội dung BHXH tự nguyện vào nội dung hoạt động của tổ chức tư
vấn pháp luật cho nông dân nghèo.
 Về yêu cầu thời gian tối thiểu đóng BHXH để tạo điều kiện cho người dân
tham gia. Như đã nói ở trên, việc quy định thời gian tối thiểu tham gia
BHXH để được hưởng lương hưu là 20 năm và được đóng bù nếu thiếu
không quá 5 năm so với quy định đã làm giảm một số lượng lớn người tham
gia BHXH tự nguyện. Trong thời gian tới, nhà nước cần nghiên cứu để có
thể giảm thời gian tối thiểu tham gia BHXH và vẫn cho phép đóng bù nếu
thời gian còn thiếu. Ví dụ như ở Trung Quốc, thời gian tham gia BHXH tối
thiểu để được hưởng lương hưu là 15 năm và được đóng bù thời gian còn
thiếu. Song song với giảm thời gian tối thiểu tham gia BHXH thì có thể giảm
mức hưởng và thời gian hưởng xuống. Mục đích cuối cùng là mở rộng số
lượng người tham gia BHXH tự nguyện, đồng thời vẫn đảm bảo cân đối quỹ.
18
P a g e | 19
DANH MỤC THAM KHẢO
1. Thị trường lao động, khu vực không chính thức và điều kiện sống hộ gia
đình tại Việt Nam, theo Jean-Pierre Cling, Mireille Razafindrakoto, François
Roubaud – IRD-DIAL.
2. Viện KH LĐ-XH, Xu hướng lao động và xã hội Việt Nam thời kỳ 2001-2010
3. Kết quả điều tra Lao động-việc làm quốc gia 2009.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Ngân hàng Thế giới (2007), Khảo
sát về triển vọng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cho khu vực phi chính

thức ở Việt Nam, Hà Nội.
5. An sinh Xã hội khu vực phi chính thức: Cần xác định bảo hiểm xã hội là lưới
quan trọng, Bùi Sỹ Tuấn - Đỗ Minh Hải, Viện Khoa học Lao động và Xã
hội.
6. Luật bảo hiểm xã hội, Nghị quyết số 51/2001/QH 10 ngày 25 tháng 12 năm
2001 của quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10.
7. Một số trang mạng điện tử như: baohiemxahoi.gov.vn, ,
, .
CÁM ƠN ĐÃ THEO DÕI
19

×