Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Định hướng phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.37 MB, 12 trang )


TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 4 (37) 2014 99
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
PHÁI SINH Ở NƯỚC TA
Thái Đắc Liệt
1

TÓM TẮT
Thị trường chứng khoán phái sinh là một sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển của
thị trường chứng khoán. Qua hơn 13 năm phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt
được một trình độ cao hơn nhiều so với trước đây, đến nay có thể nói thị trường chứng khoán
Việt Nam đã có đủ điều kiện để hình thành thị trường chứng khoán phái sinh. Thị trường chứng
khoán phái sinh ra đời, chắc chắn sẽ làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển ngày
càng tốt hơn, giúp cho các chủ đầu tư và công chúng đầu tư khắc phục được nhiều rủi ro khi
tham gia thị trường chứng khoán, nhờ đó ngày càng có nhiều công ty tham gia niêm yết trên thị
trường chứng khoán, số lượng các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng sẽ liên tục tăng lên qua
từng năm, thanh khoản trên thị trường sẽ phát triển ổn định và ngày càng cao hơn.
Mục tiêu của bài viết này nhằm đưa ra những kinh nghiệm thành công và không thành
công của một số nước trên thế giới khi tổ chức thực hiện thị trường chứng khoán phái sinh; Mặt
khác bài viết cũng đưa ra các điều kiện cần thiết và bắt buộc phải có khi thị trường chứng khoán
phái sinh ra đời; Bài viết cũng đã phân kỳ các bước thực hiện và lựa chọn sản phẩm phù hợp
cho từng giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh, một số giải pháp cụ thể
nhằm thực hiện có hiệu quả đối với thị trường chứng khoán phái sinh, giúp cho các chủ đầu tư
và công chúng đầu tư hiểu biết sâu hơn về thị trường chứng khoán phái sinh để từng bước chủ
động tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Từ khóa: Chứng khoán phái sinh, Chủ đầu tư, Công chúng đầu tư.
ABSTRACT
Derivative market is an essential product for development of the stock market. After more
than 13 years of development, Viet Nam stock market has achieved a higher level than before,
and it now has enough conditions to form derivative market. The introduction of derivative
market surely will make Viet Nam’s stock market develop better, helping investors and public


overcome many risks when participating to be listed on the stock market, whereby there will be
more companies participating to be listed on the stock market, the number of domestic and
foreign investors will also continuously increase each year, liquidity on the market will develop
stable and increase higher.
The objective of this article is to provide experiences of success and failure of a number of
countries in the world when implementing derivative market; on the other hand, the article also
gives out necessary and required conditions for the introduction of derivative market; the article
provides steps and guideline for choosing appropriate products for each development stage of
the derivative market, some specific solutions to implement derivative market effectively, helping
investors and public understand derivative market deeper so that they can gradually and actively
involve in Viet Nam’s stock market.
Keywords: Derivative stock, Investor, Public.


1
TS, Trường Đại học Mở Tp.HCM. Email:


100 TRAO ĐỔI HỌC THUẬT
1. Đặt vấn đề
Thị trường chứng khoán là thị trường
cao cấp của thị trường tài chính, thị trường
chứng khoán phái sinh là sản phẩm của thị
trường tài chính phát triển, bởi vậy chỉ có thị
trường chứng khoán phát triển ở một trình độ
nhất định mới có thể hình thành nên thị trường
chứng khoán phái sinh. Đến nay, thị trường
chứng khoán Việt Nam đã được thành lập khá
lâu, nhưng chỉ hơn 7 năm trở lại đây thị trường
chứng khoán Việt Nam mới có bước phát triển

đáng kể; Hai sở giao dịch chứng khoán đã
được thành lập, đó là Sở Giao dịch Chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HSX) và Sở
Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), một
Trung tâm lưu ký chứng khoán đã ra đời, gần
89 công ty chứng khoán đang hoạt động và
hơn 700 công ty đã được niêm yết cổ phiếu và
chứng chỉ quỹ trên hai sàn giao dịch chứng
khoán Việt Nam. Đến năm 2013 chỉ tính riêng
tại Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ
Chí Minh, giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu
đã đạt trên 32 tỷ đô la Mỹ, tương đương 25
phần trăm GDP của năm 2013, số lượng tài
khoản của các nhà đầu tư đạt trên 1,3 triệu tài
khoản giao dịch, trong đó nhà đầu tư nước
ngoài có khoảng 16.000 tài khoản, so với cuối
năm 2007 tổng số tài khoản giao dịch chứng
khoán đã tăng hơn 3,5 lần và số lượng tài
khoản của nhà đầu tư nước ngoài đã tăng gần
hai lần, chứng tỏ nhu cầu của các nhà đầu tư
chứng khoán đã có sự gia tăng đáng kể, giá trị
giao dịch hàng ngày của hai sàn trên thị trường
có lúc đạt trên 5000 tỷ đồng.
Trên thế giới thị trường chứng khoán
phái sinh đã có từ lâu, ở nước ta thị trường
chứng khoán phái sinh tuy chưa chính thức
được nhà nước công nhận về mặt pháp lý,
nhưng trên thực tế nó đã được hình thành và
phát triển ở trình độ ban đầu trên thị trường
chứng khoán phi tập trung. Hiện nay ở nước ta

đang tồn tại ba loại sản phẩm phái sinh, trước
hết là phái sinh về hàng hóa, kế đến là phái
sinh về tiền tệ, sau cùng là chứng khoán phái
sinh. Các phái sinh về hàng hóa và tiền tệ được
hình thành sớm hơn, việc tổ chức triển khai
thực hiện các phái sinh này còn ở trình độ rất
thấp, các sản phẩm cơ sở để thực hiện các giao
dịch phái sinh này không đáng kể, nhà đầu tư
tham gia giao dịch trên thị trường phái sinh
này không nhiều, cơ chế chính sách cho việc
thực hiện các giao dịch phái sinh hàng hóa và
tiền tệ chưa được rõ ràng và đầy đủ, cơ chế
thanh toán bù trừ giữa người mua và người
bán chưa được triển khai thực hiện nên kết quả
đạt được của loại phái sinh này thường thấp
hơn nhiều so với yêu cầu đặt ra lúc ban đầu.
Đối với chứng khoán phái sinh thì nhà
nước gần như chưa có chủ trương cụ thể nào
để cho thị trường chứng khoán phái sinh hoạt
động, nhưng do yêu cầu đòi hỏi khách quan
của thị trường nên trong chừng mực nhất định
thị trường chứng khoán phái sinh đã xuất hiện
trên thị trường chứng khoán phi tập trung dưới
nhiều dạng thức khác nhau như quyền mua cổ
phần, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn,
hợp đồng hợp tác đầu tư,… Sự xuất hiện của
các loại chứng khoán phái sinh này một mặt
làm cho thị trường chứng khoán thêm sôi động
và đa dạng, một mặt nó giúp cho các thành
viên tham gia thị trường chứng khoán nâng

cao thêm trình độ và kiến thức để phát triển thị
trường chứng khoán phái sinh sau này.
Quá trình nghiên cứu thị trường chứng
khoán phái sinh, tác giả đã tập trung nghiên
cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,…Mặt
khác, tác giả cũng đã tìm hiểu và phân tích
tương đối rõ nét về các loại hình chứng khoán
phái sinh đã tồn tại trên thị trường chứng
khoán Việt nam từ năm 2007 đến năm 2010.
Qua đó, phân tích, đánh giá đúng mức về ưu
nhược điểm của quá trình hình thành và phát
triển thị trường chứng khoán phái sinh, từ đó
khẳng định rằng đã đến lúc thị trường chứng
khoán Việt Nam phải thừa nhận thị trường
chứng khoán phái sinh và xem nó như một
công cụ cần thiết nhằm đa dạng hóa các sản
phẩm cho thị trường, nâng cao thêm về chất
cho thị trường chứng khoán Việt Nam, tạo
điều kiện thuận lợi cho thị trường chứng khoán
Việt Nam phát triển mạnh hơn trong những
năm sắp tới.
2. Lịch sử hình thành và phát triển
của thị trường chứng khoán phái sinh
Thị trường chứng khoán phái sinh là một
định chế tài chính bậc cao, nó được bắt đầu từ

TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 4 (37) 2014 101
thị trường nông sản phẩm. Những năm mưa
thuận, gió hòa nông sản phẩm trúng mùa, giá

cả hàng hóa sẽ xuống thấp, những năm thời
tiết khắc nghiệt, nông sản phẩm trở nên khan
hiếm, giá cả hàng hóa trở nên đắt đỏ hơn, mối
liên hệ giữa con người và nông sản phẩm là
một vấn đề vô cùng quan trọng và con người
phải luôn tìm cách giải quyết thật tốt vấn
đề này thông qua thị trường chứng khoán
phái sinh.
Lịch sử hình thành và phát triển thị
trường chứng khoán phái sinh trên thế giới:
Tại châu Âu từ thế kỷ thứ XI trên thị
trường mua bán nông sản phẩm, bên cạnh các
giao dịch thanh toán trực tiếp theo phương
thức tiền – hàng, các nông gia cũng như các
nhà buôn bán ngủ cốc còn tiến hành thực hiện
việc mua bán theo dạng hợp đồng kỳ hạn, mua
bán trước, giao nhận hàng hóa sau. Đến giữa
thế kỷ thứ XIX tại Hoa Kỳ, nhờ sự tiến bộ
nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật năng suất
và sản lượng cây trồng tăng lên rất nhanh, việc
tiêu thụ hàng hóa trở nên khó khăn hơn rất
nhiều so với trước đây. Do đó, để giảm thiểu
các rủi ro về giá cả cho các nông gia và người
tiêu dùng, chính phủ Hoa Kỳ đã cho thành lập
một hội đồng mậu dịch kỳ hạn (CBOT) vào
năm 1848 tại Thành phố Chicago. Hội đồng
mậu dịch kỳ hạn này bao gồm các nông gia có
đầu óc kinh doanh và các nhà buôn bán ngũ
cốc trong vùng. Một năm sau đó, hội đồng
mậu dịch này cho ra đời trung tâm giao dịch

mua bán nông sản phẩm kỳ hạn và hàng nông
sản phẩm được giao dịch theo phương thức
đấu giá tập trung, các hợp đồng mua bán kỳ
hạn được cam kết thực hiện, người nắm hợp
đồng mua có quyền và nghĩa vụ phải mua,
người nắm hợp đồng bán có quyền và nghĩa vụ
phải bán. Nhưng với cơ chế hợp đồng kỳ hạn,
khi đến thời điểm giao nhận hàng nếu giá cả
sản phẩm tăng cao hơn so với giá đã ghi trong
hợp đồng thì người mua sản phẩm có lời và
người bán sản phẩm bị thiệt; Ngược lại, nếu
đến thời điểm giao nhận hàng hóa, giá cả sản
phẩm thấp hơn so với giá cả đã ghi trong hợp
đồng thì người mua sản phẩm bị thiệt và người
bán sản phẩm có lời.
Để khắc phục nhược điểm này, năm
1864 Hoa Kỳ đã có một bước phát triển đáng
kể trong việc chuyển hợp đồng kỳ hạn thành
hợp đồng tương lai. Hợp đồng tương lai đã
làm thay đổi căn bản hợp đồng kỳ hạn, khắc
phục được những nhược điểm cơ bản của hợp
đồng kỳ hạn, người sở hữu hợp đồng tương lai
có thể kết thúc vị thế của hợp đồng trước thời
hạn và giá trị bắt buộc phải thực hiện của hợp
đồng ở thời điểm đã quy định trong hợp đồng
không còn giá trị. Hợp đồng tương lai được
giao dịch mua đi bán lại trên thị trường thứ cấp
như là chứng khoán phái sinh.
Sự ra đời của hợp đồng tương lai đã làm
thay đổi cơ bản về bản chất của hợp đồng kỳ

hạn, nó vừa là công cụ bảo vệ người mua lại
vừa là công cụ bảo vệ người bán. Cơ chế hoạt
động của hợp đồng tương lai trở thành quy tắc
chuẩn mực chung cho tất cả các thị trường
phái sinh trên thế giới, những thành công của
hợp đồng tương lai lan tỏa rất nhanh và có tác
động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội
của các nước.
Sau năm 1898 một loạt các hợp đồng
tương lai và hợp đồng quyền chọn đã ra đời.
Hiện tại ở Hoa Kỳ có 6 thị trường hợp đồng
quyền chọn đã đăng ký hoạt động với Ủy ban
Chứng khoán Hoa Kỳ (SEC), 12

thị trường
hợp đồng tương lai chịu sự giám sát và quản lý
của Ủy ban giao dịch hàng hóa phái sinh
(CFTC). Hàng hóa trên thị trường phái sinh
ngày càng phong phú và đa dạng, chứng khoán
cơ sở của các hợp đồng tương lai và quyền
chọn bao gồm các sản phẩm nông nghiệp như
bơ, trứng, bột mì, gạo, năng lượng, dầu thô,
điện, cao su, sắt thép, vàng bạc và các sản
phẩm tài chính cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất,
tiền tệ,…và gần đây nhất là các chỉ số biến
động giá của quyền chọn được chọn làm
chứng khoán cơ sở.
Ở châu Á các nước có thị trường chứng
khoán phái sinh phát triển như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Ấn Độ, Singapore,…

Ở Nhật Bản, thị trường chứng khoán
phái sinh phát triển đạt ở trình độ rất cao, sở
giao dịch chứng khoán Tokyo (TSE) có hai
sản phẩm chứng khoán phái sinh, đó là chỉ số
chứng khoán TOPIX và quyền chọn hợp đồng
tương lai trái phiếu chính phủ, hai sản phẩm
chứng khoán phái sinh này đạt mức tăng

102 TRAO ĐỔI HỌC THUẬT
trưởng rất cao, chiếm tỷ trọng trên 90 phần
trăm khối lượng giao dịch trên toàn thị trường.
Hàn Quốc là một trong những nước có
thị trường chứng khoán phái sinh phát triển
nhất trên thế giới, ba sản phẩm giao dịch thành
công nhất của thị trường chứng khoán phái
sinh Hàn Quốc là chỉ số KOSPI 200 (1996),
hợp đồng quyền chọn chỉ số KOSPI 200
(1997) và hợp đồng giao sau trái phiếu KTB 3
năm (1999). Tính đến năm 2011 hợp đồng
giao dịch quyền chọn KOSPI 200 đạt trên 3,6
tỉ hợp đồng, giá trị giao dịch đạt trên 436 tỉ đô
la Mỹ. Nếu tính về số lượng hợp đồng chứng
khoán phái sinh, Hàn Quốc đứng thứ
nhất trong 10 sở giao dịch chứng khoán trên
thế giới.
Ở Ấn Độ, thị trường chứng khoán phái
sinh đã được nghiên cứu từ năm 1996, nhưng
đến năm 1998 Hội đồng nghiên cứu thị trường
chứng khoán phái sinh mới đưa ra được một
bản báo cáo bao gồm những đề xuất và khuyến

nghị về việc thành lập thị trường chứng khoán
phái sinh ở Ấn Độ. Báo cáo và khuyến nghị
này đã được Ủy ban Chứng khoán và giao dịch
Ấn Độ (SEBI) chấp thuận và cho thành lập Sở
Giao dịch Chứng khoán phái sinh và thị trường
chứng khoán phái sinh sau này. Theo yêu cầu
của SEBI một hội đồng cấp quốc gia khác
cũng được thành lập để nghiên cứu và đảm
bảo an toàn cho giao dịch hợp đồng tương lai
chỉ số cũng như việc phòng ngừa rủi ro trong
việc thanh toán bù trừ. Sau vài năm thị trường
chứng khoán phái sinh Ấn Độ đã có bước phát
triển vượt bậc, năm 2000 – 2001 khối lượng
chứng khoán phái sinh giao dịch đạt trên 207
triệu đô la Mỹ, đến năm 2007 – 2008 khối
lượng giao dịch chứng khoán phái sinh đạt trên
3275 tỉ đô la Mỹ. Chính nhờ sự phát triển của
sàn chứng khoán phái sinh mà Ấn Độ được
xem là một trong những nước có thị trường
chứng khoán phái sinh phát triển nhanh, sôi
động và thành công nhất.
Đối với Singapore, thị trường chứng
khoán phái sinh được xây dựng từ năm 1984,
phương thức giao dịch tại thời kỳ này là khớp
lệnh tại sàn. Từ năm 2004, Sở Giao dịch
Chứng khoán Singapore đã đưa hệ thống giao
dịch trực tuyến vào giao dịch trên thị trường
chứng khoán phái sinh, phương thức giao dịch
này tạo ra bước ngoặt thật sự cho thị trường
chứng khoán phái sinh. Ở Singapore có 4 thị

trường chứng khoán phái sinh chủ yếu, đó là
hợp đồng phái sinh cổ phiếu, hợp đồng phái
sinh hàng hóa, hợp đồng phái sinh lãi suất và
hợp đồng phái sinh ngoại hối. Các sản phẩm
phái sinh tài chính tại thị trường chứng khoán
Singapore là hợp đồng tương lai chỉ số
NIKKE, hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu
MSCI Đài Loan, hợp đồng tương lai chỉ số cổ
phiếu MSCI Singapore và quyền chọn cổ
phiếu (structured Warrant). Singapore hiện
đứng trong nhóm 10 thị trường giao dịch hợp
đồng tương lai chỉ số cổ phiếu lớn nhất trên
thế giới.
Lịch sử hình thành và phát triển thị
trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam:
Tại Việt Nam, các công cụ phái sinh có
nguồn gốc từ hàng hóa, tiền tệ và chứng khoán
đã được sử dụng từ nhiều năm nay.
Phái sinh hàng hóa được quản lý và điều
hành bởi Bộ công thương, đối với các sản
phẩm cơ bản như gạo, cà phê, cao su, thép đã
được các doanh nghiệp trong nước sử dụng
nhiều trên các sở giao dịch phái sinh nước
ngoài dưới dạng giao dịch theo hợp đồng kỳ
hạn và hợp đồng tương lai. Ở trong nước thì có
ba sàn giao dịch hàng hóa là trung tâm giao
dịch cà phê Buôn Mê Thuộc, sở giao dịch
hàng hóa Việt Nam và Sàn Giao dịch Sài Gòn
Thương Tín. Đến năm 2006 thì trung tâm giao
dịch cà phê Buôn Mê Thuộc được thành lập,

nhưng đến cuối năm 2010 thì trung tâm này
mới đi vào hoạt động nhưng chỉ dừng lại ở
bước đầu thử nghiệm. Đến năm 2011 sở giao
dịch hàng hóa Triệu Phong chính thức được
thành lập với nhiệm vụ giao dịch phái sinh đối
với ba mặt hàng là cà phê, cao su và thép,
nhưng các giao dịch phái sinh này cũng chỉ
dừng lại ở mức độ thăm dò, sự tham gia của
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và nhà đầu
tư không đáng kể do khung pháp lý phục vụ
cho các giao dịch này chưa được rõ ràng và
chặt chẽ, hệ thống thanh toán bù trừ của trung
tâm chưa được hình thành nên các rủi ro mang
đến cho khách hàng thường rất cao.
Phái sinh tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước
quản lý và điều hành, đây là loại công cụ phái

TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 4 (37) 2014 103
sinh xuất hiện sớm nhất ở nước ta, nhưng nó
chỉ diễn ra chủ yếu ở các ngân hàng, trong đó
Ngân hàng Thương mại là một bên trong hợp
đồng, bên còn lại có thể là doanh nghiệp, các
định chế tài chính hoặc cá nhân tham gia.
Trong thời gian đầu phái sinh tiền tệ chủ yếu
tập trung ở các ngân hàng lớn như
Vietcombank, Eximbank, Techcombank, ACB
và một số ngân hàng nước ngoài như Ngân
hàng HSBC, Ngân hàng Citibank. Nhưng
trong vài năm gần đây ngày càng có nhiều
Ngân hàng Thương Mại trong nước giới thiệu

và cung cấp các sản phẩm phái sinh về tiền tệ
cho giới đầu tư. Năm 1999 Ngân hàng Nhà
nước có quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN 7
quy định giao dịch kỳ hạn với tư cách là công
cụ tài chính phái sinh đầu tiên của Việt Nam,
tuy nhiên mức độ giao dịch của công cụ này
chỉ chiếm từ 5 – 7 phần trăm khối lượng giao
dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Sau này các công cụ phái sinh về lãi suất và tỷ
giá tiếp tục xuất hiện và được các Ngân hàng
Thương Mại sử dụng nhiều hơn nhằm đáp ứng
yêu cầu biến động của tỷ giá và lãi suất trên thị
trường tiền tệ.
Thị trường chứng khoán chịu sự quản lý
của Bộ tài chính mà trực tiếp là Ủy ban Chứng
Khoán Nhà Nước. Mặc dù thị trường chứng
khoán đã ra đời cách đây hơn 13 năm, nhưng
các chủ trương của nhà nước về quản lý thị
trường chứng khoán phái sinh chỉ dừng lại ở
mức độ chung nhất. Ngày 01/03/2012, Thủ
tướng chính phủ có quyết định số 252/QĐ-
TTg phê duyệt đề án phát triển thị trường
chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020,
trong đó có đoạn viết như sau: “Xây dựng và
phát triển thị trường chứng khoán phái sinh
được chuẩn hóa theo hướng phát triển các
công cụ từ giản đơn đến phức tạp; Về dài hạn
cần thống nhất hoạt động thị trường chứng
khoán phái sinh có công cụ gốc là chứng
khoán, hàng hóa và tiền tệ,”. Từ đó đến nay

Chính phủ, Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước cũng chưa có văn bản nào
hướng dẫn thực hiện thị trường chứng khoán
phái sinh. Nhưng trong thực tiễn thị trường
chứng khoán phái sinh vẫn được manh nha
hình thành dưới nhiều dạng khác nhau.
Trong năm 2007 nhiều công ty niêm yết
phát hành tăng vốn hai, ba lần dưới dạng
quyền mua cổ phần như Ngân hàng Sài Gòn
Thương Tín, công ty gạch men Thăng Long,
công ty SAM, công ty REE,…Ngày
26/10/2007 lần đầu tiên Sở Giao dịch Chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh và tổng công
ty Điện lực Việt Nam thực hiện bán đấu giá 75
triệu quyền mua cổ phần của công ty thủy điện
Vĩnh Sơn Sông Hinh (VSH), sau đấu giá
quyền mua cổ phần của công ty VSH, ngày
17/3/2008 Sở Giao dịch Chứng khoán Thành
phố Hồ Chí Minh và tổng công ty Thép Việt
Nam thực hiện tiếp phiên đấu giá quyền mua
cổ phần của công ty cổ phần Kim khí Thành
Phố Hồ Chí Minh với 10 triệu quyền mua cổ
phần, kết quả đấu giá quyền mua cổ phiếu của
hai phiên đấu giá nói trên đều được các nhà
đầu tư mua hết.
Trong các năm 2008 và 2009 thị trường
chứng khoán có xu hướng sụt giảm, đến năm
2010 thị trường chứng khoán có vẻ khởi sắc
trở lại, khoảng giữa năm 2010 công ty chứng
khoán VN – DIRECT cho ra đời sản phẩm hợp

đồng hợp tác đầu tư trên 20 triệu cổ phiếu có
tính thanh khoản cao trên Sở Giao dịch Chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở Giao
dịch Chứng khoán Hà Nội. Tham gia hợp đồng
hợp tác đầu tư này nhà đầu tư có thể giao dịch
quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán cổ
phiếu tùy theo sự biến động của giá cổ phiếu
trên thị trường.
Đầu năm 2010 công ty vàng Thế Giới đã
giới thiệu cho các nhà đầu tư kinh doanh sản
phẩm chỉ số VTG – VN INDEX dưới dạng
hợp đồng tương lai chỉ số. Ví dụ: chỉ số VN
INDEX ngày 01/04/2010 là 510 (hệ số
10.000), đến ngày 01/05/2010 chỉ số VN
INDEX là 540. Như vậy, nếu một nhà đầu tư
sở hữu một đơn vị VTG – INDEX vào ngày
01/04/2010 sẽ có 5,1 triệu đồng, đến ngày
01/05/2010 giá trị của nhà đầu tư đó có được
là 5,4 triệu đồng, nhà đầu tư lãi được 300.000
đồng.
Tuy nhiên, sau khi triển khai mô hình
này được một thời gian, các giao dịch chứng
khoán phái sinh này gặp phải một số vướng
mắc như các văn bản pháp lý, trung tâm thanh
toán bù trừ chưa được triển khai thực

104 TRAO ĐỔI HỌC THUẬT
hiện,…Do đó, Ủy Ban chứng khoán Nhà nước
đã có văn bản yêu cầu công ty chứng khoán
VN-DIRECT và công ty vàng Thế Giới ngừng

các hoạt động giao dịch nói trên. Mặc dù cho
ngưng các hoạt động nói trên, nhưng Bộ Tài
chính và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước luôn
xác định rằng nhu cầu chứng khoán phái sinh
là có thực và nó là một bộ phận không thể
thiếu được trên thị trường chứng khoán Việt
Nam. Do vậy, Bộ Tài chính chỉ đạo Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước sớm hoàn chỉnh dự
thảo Nghị định về chứng khoán phái sinh để
trình chính phủ ban hành trong sáu tháng đầu
năm 2014 nhằm tạo điều kiện cho thị trường
chứng khoán Việt Nam phát triển ngày càng
tốt hơn.
3. Định hướng phát triển thị trường
chứng khoán Việt Nam đến năm 2020
Ngày 06/12/2012, Thủ tướng Chính phủ
có quyết định số 1826/QĐ-TTg về việc phê
duyệt đề án “Tái cấu trúc thị trường chứng
khoán” theo hướng xây dựng thị trường chứng
khoán phái sinh từ một Sở giao dịch Chứng
khoán Việt Nam theo nguyên tắc thống nhất về
bộ máy điều hành, thống nhất về nền tảng
công nghệ, thống nhất và chuẩn hóa tiêu chí
niêm yết, chế độ báo cáo, công bố thông tin,
tiêu chuẩn về thành viên và giao dịch…, phân
tách và chuyên biệt hóa thị trường theo hàng
hóa giao dịch, bao gồm một sàn giao dịch cổ
phiếu, một sàn giao dịch trái phiếu và chứng
khoán phái sinh.
Định hướng phát triển thị trường chứng

khoán phái sinh nói trên cần phải đảm bảo các
yêu cầu và điều kiện như sau:
Yêu cầu:
- Thị trường chứng khoán phái sinh phải
được xây dựng trên cơ sở thống nhất chặt chẽ
với sự phát triển của thị trường chứng khoán
cơ sở. Do đó khi triển khai xây dựng thị
trường chứng khoán phái sinh phải gắn chặt
với việc tái cấu trúc thị trường theo mô hình
hợp nhất hai sở giao dịch hiện có thành một sở
giao dịch chứng khoán Việt Nam, sàn giao
dịch chứng khoán phái sinh sẽ là một trong ba
sàn của sở giao dịch chứng khoán Việt Nam,
sàn giao dịch chứng khoán phái sinh sẽ được
tổ chức vận hành cùng lúc với hai sàn cổ phiếu
và trái phiếu. Hệ thống giao dịch đối với
chứng khoán phái sinh sẽ được tổ chức gần
giống với hệ thống giao dịch trên thị trường cổ
phiếu. Hai hệ thống giao dịch này sẽ được kết
nối với nhau nhằm đảm bảo thị trường vận
hành trôi chảy, có đủ sức phòng ngừa các giao
dịch thâu tóm và làm giá giữa hai thị trường.
- Thị trường chứng khoán phái sinh phải
đảm bảo tính công khai minh bạch và công
bằng cho tất cả các nhà đầu tư, đặc biệt phải có
nhiều biện pháp để bảo vệ cho các nhà đầu tư
nhỏ, tránh tình trạng thao túng và lũng đoạn
của các nhà đầu tư lớn; Tăng cường khuyến
khích các nhà đầu tư tham gia thị trường với
nhiều chính sách ưu đãi đầu tư, tạo điều kiện

thật thuận lợi để ngày càng có nhiều nhà đầu
tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng
khoán phái sinh ở nước ta.
- Phát triển thị trường chứng khoán phái
sinh phải phù hợp với điều kiện kinh tế cụ thể
của nước ta, đồng thời phải tính đến yếu tố hội
nhập kinh tế quốc tế trong thời gian sắp tới,
tạo điều kiện để thị trường chứng khoán phái
sinh phát triển năng động và hiệu quả nhất.
Điều kiện ra đời của thị trường chứng
khoán phái sinh:
Điều kiện pháp lý: Ở các nước như Đài
Loan, Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan trước
khi thị trường chứng khoán phái sinh ra đời,
các cơ quan quản lý thị trường tài chính của họ
đều có sự chuẩn bị rất kỹ về các điều kiện
pháp lý. Do đó, việc triển khai các loại chứng
khoán phái sinh ở các quốc gia này rất thành
công.
Thị trường chứng khoán Việt Nam tuy đi
sau các thị trường chứng khoán nói trên,
nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam cũng
đã có luật chứng khoán năm 2006, luật sửa đổi
bổ sung chứng khoán năm 2010 và nhiều văn
bản pháp quy khác hướng dẫn thực hiện luật
chứng khoán, nhưng các luật và văn bản pháp
quy này chưa có văn bản nào quy định cụ thể
về thị trường chứng khoán phái sinh, các văn
bản nói trên chỉ quy định những điểm chung
nhất về thị trường chứng khoán phái sinh nên

chưa thể triển khai thực hiện. Hiện nay Bộ Tài
chính và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đang
xây dựng dự thảo Nghị định hướng dẫn riêng

TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 4 (37) 2014 105
về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng
khoán phái sinh trình chính phủ ban hành
trong năm 2014. Trên cơ sở hướng dẫn của
Nghị định này, Sở Giao dịch chứng khoán Việt
Nam (được sáp nhập từ hai sở giao dịch chứng
khoán hiện nay) và trung tâm lưu ký chứng
khoán Việt Nam sẽ tiến hành xây dựng các
quy chế hướng dẫn về việc giao dịch và thanh
toán bù trừ cho các chứng khoán phái sinh. Ủy
ban Chứng khoán Nhà nước sẽ nghiên cứu và
trình Bộ Tài Chính các quy định về tổ chức bộ
máy điều hành chứng khoán phái sinh, về hoạt
động của các đối tượng tham gia hành nghề
chứng khoán phái sinh, hướng dẫn việc công
bố thông tin, các quy định về thuế, phí trên thị
trường chứng khoán phái sinh nhằm đảm bảo
một hành lang pháp lý tương đối đầy đủ giúp
cho thị trường chứng khoán phái sinh nói riêng
và thị trường chứng khoán nói chung vận hành
có hiệu quả và ổn định.
Điều kiện về cơ sở hạ tầng:
Việc giao dịch chứng khoán phái sinh
đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện
đại, nhất là đối với cơ sở hạ tầng công nghệ
thông tin, chỉ có cơ sở hạ tầng công nghệ

thông tin hiện đại mới có thể đáp ứng được
yêu cầu giao dịch theo phương thức khớp lệnh
liên tục với tốc độ cao của chứng khoán phái
sinh, đáp ứng được yêu cầu của hệ thống giám
sát giao dịch, hệ thống công bố thông tin và hệ
thống thanh toán bù trừ.
Ngày 26 – 12 – 2012 Sở Giao dịch
chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và sở
giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (KRX) đã
ký kết một hợp đồng kinh tế về việc: “thiết kế,
giải pháp, cung cấp lắp đặt và chuyển giao hệ
thống công nghệ thông tin cho Sở Giao dịch
chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh” nhằm
đáp ứng yêu cầu giao dịch chứng khoán và
chứng khoán phái sinh trong những năm sắp
tới. Theo hợp đồng này trong vòng hai năm
KRX sẽ cung cấp cho Sở Giao dịch chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh một hệ thống
công nghệ thông tin theo tiêu chuẩn tiên tiến
nhất, có đủ khả năng tích hợp và đồng bộ các
mảng thị trường cổ phiếu, trái phiếu và chứng
khoán phái sinh với nhiều sản phẩm hiện đang
được triển khai thực hiện trên thế giới. Với hệ
thống công nghệ thông tin mới này Sở giao
dịch chứng khoán Việt Nam và trung tâm lưu
ký chứng khoánViệt Nam hoàn toàn có đủ
điều kiện đáp ứng yêu cầu giao dịch và thanh
toán bù trừ cho các nhà đầu tư chứng khoán và
chứng khoán phái sinh dưới bất kỳ hình thức
nào.

Hiện nay tại nhiều quốc gia trên thế giới,
bộ phận thanh toán và thanh toán bù trừ chứng
khoán và chứng khoán phái sinh thường được
tổ chức trực thuộc sở giao dịch chứng khoán
như mô hình của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan, Singapore,… nhưng ở Việt Nam luật
chứng khoán đã trao quyền thanh toán bù trừ
chứng khoán và chứng khoán phái sinh cho
Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt nam, đây
là đơn vị duy nhất được tổ chức thực hiện chức
năng đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán
chứng khoán và chứng khoán phái sinh cho
toàn thị trường.
Điều kiện về sản phẩm giao dịch:
Chứng khoán phái sinh chuẩn hóa sẽ là
các hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền
chọn được giao dịch tập trung trên sàn chứng
khoán Việt Nam. Các loại tài sản cơ sở cho
các chứng khoán phái sinh này có thể là cổ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư hoặc
chỉ số chứng khoán. Tuy nhiên, không phải bất
cứ loại chứng khoán nào cũng được lựa chọn
để làm tài sản cơ sở cho chứng khoán phái
sinh, kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy,
muốn cho thị trường chứng khoán phái sinh
đạt kết quả tốt thì tài sản cơ sở của các loại
chứng khoán phái sinh phải có tính thanh
khoản cao, có quy mô vốn hóa thị trường lớn,
có cơ chế pháp lý rõ ràng, có đủ thông tin để
cung cấp cho các thành viên trên thị trường.

Ở Việt Nam việc lựa chọn một loại cổ
phiếu đơn lẻ nào đó để làm tài sản cơ sở cho
chứng khoán phái sinh cần phải được xem xét,
chắt lọc thật kỹ càng, bởi lẽ hầu hết các loại cổ
phiếu niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng
khoán Việt Nam từ loại cổ phiếu có vốn hóa
thị trường lớn đến loại cổ phiếu có vốn hóa thị
trường nhỏ hơn đều vẫn có nguy cơ bị giới đầu
tư làm giá và thao túng thị trường ở mức độ
cao. Thực tế các năm qua cho thấy, điều này
rất thường hay xảy ra, nhiều công ty chứng
khoán hoặc nhiều nhà đầu tư lớn đã liên kết

106 TRAO ĐỔI HỌC THUẬT
làm giá và thao túng một loại cổ phiếu nào đó.
Do đó, xây dựng hợp đồng tương lai trên một
loại cổ phiếu đơn lẻ nào đó chỉ đáp ứng được
phần nào yêu cầu phòng vệ rủi ro đối với
những nhà đầu tư mua bán cổ phiếu đó, nguy
cơ thua thiệt vẫn luôn rình rập đối với các nhà
đầu tư nhỏ lẻ, không chuyên nghiệp.
Đối với các chứng chỉ quỹ trên hai sở
giao dịch chứng khoán hiện nay đều có thị giá
rất thấp, tính thanh khoản không cao nên chưa
thật sự hấp dẫn các nhà dầu tư. Do đó thời gian
trước mắt chưa thể chọn các chứng chỉ quỹ để
làm tài sản cơ sở cho chứng khoán phái sinh.
Đối với trái phiếu chính phủ tính thanh
khoản cũng không cao, hiện tại sở giao dịch
chứng khoán Hà Nội đang nghiên cứu và đề

xuất đối với hợp đồng tương lai trái phiếu
chính phủ. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho
rằng tính thanh khoản của loại trái phiếu này
chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư trong và
ngoài nước, các thành viên tham gia đầu tư trái
phiếu chính phủ chủ yếu là các Ngân hàng
Thương mại và các tổ chức tài chính, chỉ có 18
thành viên giao dịch đã chiếm tới 90 phần trăm
khối lượng giao dịch của thị trường trái phiếu
chính phủ; mặt khác trái phiếu chính phủ
thường được giao dịch với các lô lớn, do đó
nếu chọn trái phiếu chính phủ để làm tài sản
cơ sở cho chứng khoán phái sinh sẽ làm cho
những nhà đầu tư trung bình và nhỏ lẻ có
những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, việc
chọn trái phiếu chính phủ để làm tài sản cơ sở
cho chứng khoán phái sinh có thể được áp
dụng cho các giai đoạn tiếp theo của quá trình
triển khai thực hiện chứng khoán phái sinh.
Chứng khoán phái sinh dựa trên chỉ số
đã được nhiều nước Châu Á áp dụng thành
công như Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,
Ấn Độ, Thái Lan. Các quốc gia này đã chọn
hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn
trên chỉ số chứng khoán và xem nó như là sản
phẩm đầu tư của chứng khoán phái sinh, họ đã
gặt hái được nhiều thành công đáng kể. Hiện
nay Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ
Chí Minh đã cho ra đời bộ chỉ số VN-30 và Sở
Giao dịch Chứng khoán Hà Nội đã cho ra đời

bộ chỉ số HNX-30, hai bộ chỉ số này đều đáp
ứng các điều kiện về giá trị vốn hóa thị trường,
về tính thanh khoản và cổ phiếu được tự do
giao dịch, có nghĩa là các loại cổ phiếu của các
cổ đông như Hội đồng quản trị, Ban điều hành,
Ban kiểm soát, cổ đông của nhà nước nắm giữ
cổ phiếu, cổ đông chiến lược đều không được
tính đến khi tham gia tính toán chỉ số. Mặt
khác, phương pháp tính này cũng hạn chế
được ảnh hưởng quá mức của những cổ phiếu
có tỷ trọng vốn hóa quá cao khi tham gia tính
toán, phương pháp tính chỉ cho phép chỉ số
vốn hóa của một loại cổ phiếu tham gia tính
toán không vượt quá 10 phần trăm so với tổng
giá trị vốn hóa của rổ cổ phiếu. Các điều kiện
quy định như trên đã góp phần làm cho bộ chỉ
số VN – 30 và HNX – 30 ngày càng nhận
được sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước, giúp cho các nhà đầu tư có thêm
cơ hội xác định được danh mục đầu tư cho
mình, đây cũng là cơ hội để phát triển các quỹ
đầu tư chỉ số, quỹ đầu tư ETF và đầu tư chứng
khoán phái sinh sau này.
Sắp tới đây hai sở sẽ tiếp tục cho ra đời
nhiều bộ chỉ số mới phù hợp với tình hình phát
triển của thị trường chứng khoán như bộ chỉ số
MID – CAP, SMALL – CAP, chỉ số
ngành,…các bộ chỉ số này sẽ phản ảnh được
sự biến động giá của thị trường theo nhóm sản
phẩm và nhóm ngành, khắc phục được nhược

điểm của sự biến động giá đối với từng mặt
hàng, giúp nhà đầu tư phân tích và đánh giá thị
trường thuận lợi hơn. Có thể nói đây là bước
tiến quan trọng và thuận lợi nhất để lựa chọn
tài sản cơ sở cho chứng khoán phái sinh trong
thời gian sắp tới.
Về lộ trình phát triển sản phẩm chứng
khoán phái sinh có thể chia ra làm các giai
đoạn sau đây:
- Giai đoạn 1: Hợp đồng tương lai chỉ số
chứng khoán.
- Giai đoạn 2: Hợp đồng quyền chọn chỉ
số chứng khoán và hợp đồng tương lai trái
phiếu chính phủ.
- Giai đoạn 3: Hợp đồng tương lai và
hợp đồng quyền chọn trên cổ phiếu.
- Giai đoạn 4: Hợp đồng tương lai và
hợp đồng quyền chọn trên lãi suất, tỷ giá, vàng
và hàng hóa.

TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 4 (37) 2014 107
Như vậy, so với cổ phiếu, chứng chỉ quỹ
và trái phiếu chính phủ thì chỉ số chứng khoán
có thể xem là loại hàng hóa phù hợp nhất cho
thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam
trong giai đoạn đầu phát triển. Hiện nay, Ủy
ban Chứng khoán Nhà Nước đang chỉ đạo các
cơ quan trực thuộc triển khai và hoàn thiện dần
các bộ chỉ số chứng khoán nhằm phục vụ cho
công chúng đầu tư một cách hiệu quả nhất.

Điều kiện về đào tạo:
Để cho thị trường chứng khoán phái sinh
hoạt động đạt kết quả tốt đẹp, các cơ quan
quản lý thị trường tài chính cần phải có sự
chuẩn bị đầy đủ về việc đào tạo kiến thức và
kinh nghiệm chứng khoán phái sinh cho các
thành viên tham gia thị trường.
Ở Đài Loan, để cho thị trường chứng
khoán phái sinh phát triển thành công, từ ba
năm trước đó chính quyền đã thiết lập một
kênh đầu tư chứng khoán phái sinh với nước
ngoài để cộng đồng đầu tư và kinh doanh trong
nước tham gia đầu tư và làm quen dần với
chứng khoán phái sinh nước ngoài. Đây là mô
hình đào tạo rất hiệu quả để cộng đồng kinh
doanh chứng khoán trong nước tự đào tạo
mình thông qua thực tiễn, kinh nghiệm giao
dịch tại các thị trường nước ngoài.
Ở Hàn Quốc, sở giao dịch chứng khoán
đã mở nhiều khóa đào tạo, bồi dưỡng và nâng
cao trình độ chứng khoán phái sinh cho các
nhân viên công ty chứng khoán, các quỹ đầu
tư, các ngân hàng giám sát và công chúng đầu
tư. Việc đào tạo này giúp được đông đảo các
nhà đầu tư nhỏ lẻ tiếp cận được các kiến thức
của thị trường chứng khoán phái sinh.
Đối với nước ta, để phát triển tốt thị
trường chứng khoán phái sinh, chúng ta cần
phải kế thừa kinh nghiệm của các nước đi
trước, tổ chức mô hình đào tạo sao cho khoa

học và hiệu quả nhất. Muốn vậy Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước mà nòng cốt là Trung
Tâm Nghiên cứu và Đào tạo chứng khoán, các
vụ, viện trực thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước, Sở Giao dịch Chứng khoán và Trung
tâm lưu ký chứng khoán phải có chương trình,
kế hoạch đào tạo cụ thể đối với từng đối tượng
có liên quan. Các cơ quan ngôn luận, truyền
thông, báo chí có chức năng về thị trường
chứng khoán như tạp chí Đầu Tư chứng
khoán, Đài phát thanh truyền hình Trung ương
và địa phương cũng cần có nhiều hình thức
tuyên truyền về chứng khoán phái sinh một
cách sâu rộng vả chủ động để cộng đồng dân
cư hiểu biết ngày càng nhiều hơn và sâu hơn
về thị trường chứng khoán phái sinh.
Mô hình giao dịch và thanh toán bù
trừ chứng khoán phái sinh:
Để thị trường chứng khoán phái sinh vận
hành thành công trên thị trường chứng khoán
Việt Nam, cần tiến hành xây dựng mô hình
giao dịch và thanh toán bù trừ chứng khoán
phái sinh phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế
thị trường. Muốn vậy, cơ quan có chức năng
quản lý thị trường chứng khoán phải có sự chỉ
đạo tập trung, xây dựng đầy đủ cơ chế chính
sách cho thị trường chứng khoán phái sinh, các
thành viên tham gia thị trường phải có sự
chuẩn bị thật kỹ càng đối với từng phần công
việc của mình, đồng thời cũng phải tiến hành

xây dựng cơ chế phối hợp giữa các thành viên
tham gia thị trường một cách chi tiết, rõ ràng
và hiệu quả nhất.
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là đơn vị
chịu trách nhiệm xây dựng cơ chế quản lý và
điều hành toàn bộ thị trường chứng khoán phái
sinh, theo dõi và chỉ đạo chặt chẽ các bộ phận
trực thuộc chuẩn bị thật tốt những công việc có
liên quan đến các bộ phận do mình quản lý.
Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam là
đơn vị chịu trách nhiệm xây dựng các loại sản
phẩm phái sinh trình Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước xem xét quyết định, chuẩn bị cơ sở
hạ tầng kỹ thuật phục vụ tốt cho việc giao
dịch, công bố thông tin và giám sát giao dịch
chứng khoán phái sinh. Cơ chế quản lý và
giám sát giao dịch chứng khoán phái sinh ở
nước ta gồm có hai cấp, cấp cao do Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước giám sát trực tiếp, cấp
dưới do phòng giám sát giao dịch của Sở Giao
dịch Chứng khoán Việt Nam trực tiếp thực
hiện.Tuy nhiên, hai bộ phận giám sát này cũng
cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau để
ngăn chặn có hiệu quả tình hình lũng đoạn và
thao túng thị trường.
Trung tâm lưu ký chứng khoán là đơn vị
đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng

108 TRAO ĐỔI HỌC THUẬT
khoán phái sinh cho các bên tham gia hợp

đồng. Bộ phận thanh toán bù trừ của trung tâm
lưu ký chứng khoán sẽ đóng vai trò là người
bán của mọi người mua và người mua của mọi
người bán; Mọi rủi ro trong thanh toán bù trừ
sẽ được đảm bảo bởi trung tâm lưu ký chứng
khoán Viêt Nam.Với cơ chế ký quỹ chặt chẽ
đối với các thành viên tham gia thị trường, hệ
thống thanh toán bù trừ sẽ khắc phục được mọi
rủi ro có thể xảy ra. Do đó, đây sẽ là bộ phận
rất quan trọng của quá trình giao dịch chứng
khoán phái sinh, nếu tổ chức tốt bộ phận này
sẽ tạo được lòng tin rất lớn đối với các nhà đầu
tư, hạn chế đến mức tối đa các tranh chấp phải
xử lý trong quá trình giao dịch chứng khoán
phái sinh.
Các công ty chứng khoán phải được Ủy
ban Chứng khoán Nhà nước cấp phép hoạt
động chứng khoán phái sinh. Hiện tại có
khoảng 80 công ty chứng khoán đang chính
thức hoạt động trên thị trường, nhưng chỉ với
12 công ty chứng khoán tốp đầu đã chiếm đến
hơn 50 phần trăm giá trị giao dịch trên thị
trường. Do đó, số lượng công ty chứng khoán
giao dịch trên thị trường chứng khoán phái
sinh được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp
phép sẽ không nhiều, có thể từ 20 – 30 công ty
chứng khoán sẽ được giao dịch trên thị trường
chứng khoán phái sinh sau này. Các công ty
chứng khoán là người đứng sau các giao dịch
của khách hàng, do đó các công ty chứng

khoán phải có trách nhiệm nhiều hơn trong
việc đảm bảo các nghĩa vụ thanh toán cho
khách hàng, điều này đòi hỏi các công ty
chứng khoán thành viên phải đảm bảo các điều
kiện về vốn và điều kiện về công nghệ ở mức
độ cao và an toàn. Các công ty chứng khoán
cũng cần thành lập bộ phận chuyên trách về
chứng khoán phái sinh như bộ phận môi giới
và tự doanh chứng khoán phái sinh, tư vấn,
quản lý danh mục đầu tư chứng khoán phái
sinh nhằm đáp ứng nhanh nhạy các yêu cầu
đầu tư của khách hàng.
Ngân hàng thanh toán là ngân hàng thực
hiện hạch toán và chuyển khoản cho các tài
khoản giao dịch chứng khoán phái sinh dựa
trên kết quả hạch toán theo giá thực tế hàng
ngày. Ngân hàng thanh toán cần cung cấp đầy
đủ thông tin cho thị trường đối với các dịch vụ
phái sinh nhằm giới thiệu cho các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư và cá nhân trên thị
trường biết thêm đối với công cụ bảo hiểm rủi
ro này. Đây là việc làm cần thiết nhằm tránh
rủi ro cho đối tựợng sử dụng chứng khoán phái
sinh và cũng để làm tăng thêm doanh thu cho
các ngân hàng và công ty chứng khoán.

Sau đây là dự kiến mô hình giao dịch chứng khoán phái sinh ở Việt Nam:
Sơ đồ. Mô hình Chứng khoán phái sinh tại Việt Nam



TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 4 (37) 2014 109

1. Nhà đầu tư đặt lệnh mua hoặc lệnh bán chứng khoán phái sinh
2. Công ty chứng khoán nhận lệnh mua hoặc lệnh bán từ nhà đầu tư, sau đó kiểm tra ký quỹ rồi gửi
lệnh đến Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam.
3. Hệ thống giao dịch khớp lệnh hoặc không khớp lệnh giao dịch.
4. Sở giao dịch gửi lệnh khớp hoặc không khớp đến công ty chứng khoán, sở giao dịch gửi lệnh đã
khớp cho trung tâm lưu ký chứng khoán để thanh toán bù trừ cho người mua và người bán chứng
khoán.
5. Công ty chứng khoán báo kết quả lệnh khớp hoặc không khớp cho nhà đầu tư.
6. Trung tâm lưu ký chứng khoán thông báo kết quả thanh toán bù trừ cho công ty chứng khoán.
7. Công ty chứng khoán thông báo kết quả thanh toán bù trừ cho nhà đầu tư.

Có thể nói đây là mô hình giao dịch
chứng khoán phái sinh tương đối phù hợp với
giai đoạn đầu phát triển của thị trường chứng
khoán Việt nam. Do đó, ngay từ bây giờ chúng
ta phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về pháp
lý, về đào tạo, về cơ sở hạ tầng công nghệ
thông tin, về lựa chọn sản phẩm cơ sở cho
chứng khoán phái sinh để thị trường chứng
khoán phái sinh có thể ra đời chậm nhất vào
năm 2015.
4. Kết luận
Thị trường chứng khoán là một bộ phận
quan trọng của thị trường tài chính, do đó tái
cơ cấu thị trường chứng khoán cũng nhằm
mục tiêu tái cơ cấu đối với thị trường tài chính.
Hàng hóa trên thị trường chứng khoán bao
gồm cổ phiếu, trái phiếu và chứng khoán phái

sinh, mỗi loại chứng khoán nói trên có những
đặc điểm khác nhau và có mức độ quan tâm
khác nhau từ các nhà đầu tư, thị trường chứng
khoán Việt nam hiện nay chỉ có hai loại hàng
hóa là cổ phiếu và trái phiếu, riêng chứng
khoán phái sinh thì chưa chính thức có mặt
trên thị trường chứng khoán Việt Nam, chính
điều này đã làm hạn chế sự quan tâm của các
nhà đầu tư trong và ngoài nước đối với thị
trường chứng khoán Việt Nam. Do đó, trong
định hướng tái cơ cấu thị trường chứng khoán
trong thời gian sắp tới, cần tiến hành đa dạng
hóa các loại chứng khoán, đặc biệt phải chú ý
phát triển các loại chứng khoán phái sinh phù
hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.
Thị trường chứng khoán phái sinh tập
trung ra đời chắc chắn sẽ mang lại rất nhiều lợi
ích cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư,
giúp cho các doanh nghiệp cũng như các nhà
đầu tư phòng ngừa được các rủi ro khi có sự
biến động về giá cả, về tỷ giá cũng như lãi suất
trên thị trường. Do đó các loại chứng khoán
phái sinh ra đời sẽ giúp cho các doanh nghiệp
có yêu cầu về vốn vay ít hơn, sử dụng vốn
hiệu quả hơn và ít gặp khó khăn hơn khi có sự
biến động về giá, tỷ giá cũng như lãi suất.
Bên cạnh những thuận lợi của thị trường
chứng khoán phái sinh tập trung, thị trường
chứng khoán phái sinh phi tập trung luôn ẩn
chứa nhiều thiệt hại và rủi ro trong quá trình

giao dịch chứng khoán phái sinh, phần lớn các
công ty và nhà đầu tư khi giao dịch chứng
khoán phái sinh trên thị trường phi tập trung
đều thiếu thông tin và thiếu những quy định
pháp lý cần thiết từ phía các cơ quan chức
năng của Nhà nước. Các bên tham gia giao
dịch chứng khoán phái sinh trên thị trường phi
tập trung thường không thể dự báo được hết
các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình giao
dịch do lượng thông tin được cung cấp cho thị
trường này thường không đầy đủ và thiếu
minh bạch nên hạn chế rất lớn đối với chứng
khoán phái sinh trên thị trường phi tập trung,
điều này cũng làm giảm đi tính thanh khoản
rất đáng kể trên thị trường, mặt khác nó cũng
làm cho quá trình giám sát đối với giao dịch
chứng khoán phái sinh trở nên khó khăn hơn
rất nhiều.

110 TRAO ĐỔI HỌC THUẬT
Trên thị trường chứng khoán phái sinh
phi tập trung do những điều kiện cần và đủ cho
thị trường chưa được chuẩn bị đầy đủ nên chỉ
cần một bên tham gia không thực hiện hợp
đồng thì bên còn lại của hợp đồng sẽ gặp rất
nhiều khó khăn và tốn kém trong quá trình
thanh toán và xử lý hợp đồng, đối với những
hợp đồng phái sinh có quy mô lớn về số lượng
và giá trị thì mức thiệt hại sẽ càng lớn hơn và
quá trình thanh toán, xử lý hợp đồng sẽ trở nên

khó khăn, phức tạp hơn rất nhiều. Để giải
quyết các khó khăn vướng mắc này, Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước và các ngành chức
năng trực thuộc của ủy ban chứng khoán sớm
có chủ trương chính thức hình thành thị trường
chứng khoán phái sinh qua sàn giao dịch
chứng khoán Việt Nam, chuẩn bị đầy đủ mọi
điều kiện về pháp lý, về đào tạo, về sản phẩm
cơ sở, về hạ tầng kỹ thuật, về mô hình giao
dịch và thành lập trung tâm thanh toán bù trừ
hiện đại nhất đáp ứng mọi yêu cầu của giao
dịch chứng khoán phái sinh.
Như vậy, trong thời gian sắp tới thị
trường chứng khoán phái sinh tập trung sẽ
được chính thức ra đời và nó sẽ là một bộ phận
tất yếu của thị trường chứng khoán và thị
trường tài chính Việt Nam, sự ra đời của thị
trường chứng khoán phái sinh sẽ khẳng định
mức độ phát triển của thị trường chứng khoán
và thị trường tài chính nước ta ở một trình độ
cao hơn, điều này hoàn toàn phù hợp với chủ
trương và chính sách của Đảng và Nhà nước
về phát triển đồng bộ các loại thị trường, tạo
thêm kênh huy động vốn hữu hiệu cho các
doanh nghiệp nhằm mục tiêu phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước từ nay đến năm 2020 một cách hiệu
quả nhất.




TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Sơn 2013, Xây dựng thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam 2013, Tài liệu Hội
thảo Khoa học phát triển thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam.
2. Bùi Nguyên Hoàn 2013, Thị trường chứng khoán phái sinh một định chế tài chính của nền
kinh tế, Tài liệu Hội thảo Khoa học phát triển thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam.
3. Trầm Tuấn Vũ 2013, Phát triển thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam, kinh nghiệm
quốc tế và công tác chuẩn bị, Tài liệu Hội thảo Khoa học phát triển thị trường chứng khoán
phái sinh tại Việt Nam.
4. Phạm Thanh Nhật 2013, Thị trường chứng khoán phái sinh của các nước và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam, Tài liệu Hội thảo Khoa học phát triển thị trường chứng khoán phái sinh
tại Việt Nam.
5. Lê Nhị Năng 2013, Về khung pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán phái sinh tại
Việt Nam, Tài liệu Hội thảo Khoa học phát triển thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt
Nam.

×