Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Tình hình mắc bệnh viêm gan vịt do Virus ở một số tỉnh Đồng bằng Bắc bộ, phân lập Virus gây bệnh. Nghiên cứu đặc tính sinh học của chủng Virus nhược độc viêm gan vịt DHEG2000 và quy trình sản xuất Vacxin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.08 KB, 86 trang )

1. mở đầu
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chăn nuôi vịt đang dần trở
thành ngành sản xuất hàng hoá, góp phần vào chơng trình xoá đói giảm
nghèo ở một số vùng nông thôn nớc ta. Theo thống kê của Cục khuyến
nông, tổng số vịt trong cả nớc năm 1998 là 37.376.000 con, năm 1999:
39.207.000 con, năm 2000 là 45.896.000 con. Nh vậy, so với năm 1999 thì
số vịt năm 2000 đã tăng 17%. Mục tiêu phấn đấu của ngành chăn nuôi nớc
ta đến năm 2005-2010 phải đạt tỷ trọng 30% GDP nông nghiệp. Riêng đàn
gia cầm phải đạt 297500000 con vào năm 2005 (Lê Hồng Mận, 1999)[17].
Cùng với sự gia tăng số đầu con, các loại vịt giống siêu thịt cũng đợc nhập
về và nhân lên trên diện rộng nh giống CV Super M, giống Szarvas, giống
Cherry Valley (Anh Đào) các giống vịt này có đặc điểm là cho năng xuất
cao nhng sức đề kháng với bệnh lại kém hơn so với các giống vịt thuần
chủng của Việt Nam. Vì vậy, dịch bệnh luôn là mối lo ngại lớn cho ngời
chăn nuôi, việc tăng cờng các biện pháp kỹ thuật thú y, bảo vệ đàn vịt
khoẻ mạnh là một khâu hết sức quan trọng (Lê Minh Chí, 1999)[7][8].
Trong chăn nuôi vịt, bệnh viêm gan vịt là một bệnh truyền nhiễm gây
thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi (Nguyễn Xuân Bình, 2002)[3]. Bệnh xảy
ra ở thể cấp tính với vịt con 1-6 tuần tuổi, lây lan nhanh, tỷ lệ chết rất cao
có khi lên tới 100%.
Bệnh đợc ghi nhận đầu tiên ở Mỹ năm 1945 bởi Levine và Hofstad
[49]. Năm 1949 cũng tại Mỹ, bệnh xảy ra trên đàn vịt Bắc Kinh tại 70 trại
vịt ở đảo Long - New York, tổng số vịt chết lên tới 750000 con. Các năm
tiếp theo bệnh xảy ra ở nhiều nớc: Anh (1954), Canada (1957), Ai Cập
(1958), Theo thông báo gần đây nhất, bệnh có mặt ở khắp nơi trên thế
giới. (OIE, 2000)[55].

- 1 -
Nhằm khống chế bệnh, các nhà khoa học đã nghiên cứu bệnh trên
quy mô rộng: dùng kháng huyết thanh miễn dịch để phòng và chữa bệnh


(Levine, 1950)[50], Rispens, 1969)[61], tạo các chủng virus nhợc độc
dùng làm vacxin bằng cách tiếp đời trên phôi (Asplin, 1958, 1961,
1965)[26][27][28], (Reuss, 1959)[59].
ở Việt Nam, năm 1978 Trần Minh châu và cộng sự đã ghi nhận bệnh
ở Đông Anh - Hà Nội (Trần Minh Châu, 1985)[5]. Năm 1979 - 1983 bệnh
xảy ra ở nhiều địa phơng làm chết rất nhiều vịt. Năm 1984, bệnh xảy ra
trên các đàn vịt ở Gia Lâm - Hà Nội làm chết hàng nghìn con (Lê Thanh
Hoà và cộng sự, 1984)[14]. Bệnh lan tràn ở nhiều tỉnh miền Bắc: Hà Tây,
Hng Yên, Hà Nam, Tuyên Quang. Tỷ lệ nhiễm trong đàn lên tới 100%, tỷ
lệ chết trong ổ dịch biến động 49-90% (Nguyễn Văn Cảm và cộng sự,
2001)[4]. Tại các tỉnh đồng bằng Nam Bộ, bệnh viêm gan vịt xảy ra ở nhiều
nơi gây thiệt hại nặng nề (Nguyễn Đức Lu, 2001, 2002)[15][16].
Gần đây chăn nuôi vịt, ngan ngày càng phát triển, bệnh viêm gan vịt
càng dễ xảy ra đặc biệt ở một số địa phơng: Hà Tây, Hà Nội, Nam Định,
Hng Yên, Hải Dơng, Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang gây tổn thất vô
cùng nghiêm trọng.
Tuy vậy ở nớc ta những nghiên cứu về bệnh cha nhiều, việc tìm ra
các phơng pháp phòng trị bệnh còn rất ít. Các tác giả Trần Minh Châu
(1985)[6], Lê Thanh Hoà (1984)[14] đã nghiên cứu các chủng virus vacxin
và xây dựng quy trình sản xuất vacxin. Nhận định chung, vacxin chế tạo từ
các chủng virus viêm gan vịt nhợc độc có nguồn gốc trong và ngoài nớc
cho an toàn và hiệu lực khi sử dụng.
Nguyễn Hữu Vũ, Nguyễn Đức Lu và cộng sự, 2001[23] đã chế tạo
kháng thể viêm gan vịt để phòng trị bệnh nhng hiệu quả phòng chống
bệnh của chế phẩm còn nhiều hạn chế. Nh vậy cho đến nay nớc ta vẫn
cha có vacxin có hiệu quả để phòng bệnh tốt.

- 2 -
Từ thực tế trên, để đề ra đợc các biện pháp phòng bệnh cho kết quả
tốt, việc nghiên cứu về dịch bệnh, chủng virus gây bệnh và vacxin phòng

bệnh là việc làm hết sức cần thiết, do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài:
Tình hình mắc bệnh Viêm gan vịt do virus ở một số tỉnh đồng
bằng Bắc bộ, phân lập virus gây bệnh. Nghiên cứu đặc tính sinh học của
chủng virus nhợc độc viêm gan vịt DH - EG - 2000 và quy trình sản
xuất vacxin.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Xác định thực trạng bệnh viêm gan do virus trên đàn vịt nuôi ở các
hộ gia đình một số tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ.
- Phân lập virus viêm gan vịt.
- Xác định một số đặc tính sinh học của chủng virus vacxin nhợc
độc viêm gan vịt DH - EG - 2000.
- Nghiên cứu quy trình sản xuất vacxin.
- ứng dụng vacxin vào thực tế sản xuất.
1.3. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
- Góp phần đề ra các biện pháp phòng trị bệnh viêm gan vịt do virus
có hiệu quả cao cho ngành chăn nuôi vịt.
- Là cơ sở để sử dụng chủng virus nhợc độc viêm gan vịt DH - EG -
2000 vào sản xuất vacxin phòng bệnh cho đàn vịt nuôi ở Việt Nam.





- 3 -
2. Tổng quan tài liệu
2.1. Bệnh viêm gan vịt do virus (Duck Virus Hepatitis - DVH)
Bệnh viêm gan do virus là một bệnh truyền nhiễm cấp tính xảy ra ở
vịt con 1-6 tuần tuổi, mẫn cảm nhất là vịt con dới 3 tuần tuổi. Bệnh lây lan
rất nhanh do 3 typ virus khác nhau gây ra: virus viêm gan vịt Typ I, Typ II

và Typ III, phổ biến hơn cả là virus viêm gan vịt Typ I. Bệnh có biểu hiện
đặc trng: gan sng, xuất huyết lốm đốm trên gan.
2.1.1. Lịch sử và phân bố bệnh
Năm 1945 ở Mỹ, Levine và Hofstad[49] quan sát thấy một bệnh lạ xảy ra
trên đàn vịt con một tuần tuổi: vịt chết nhanh sau khi có biểu hiện triệu chứng,
bệnh tích chủ yếu tập trung ở gan, gan sng, xuất huyết lốm đốm trên gan.
Mùa xuân 1949 ở đảo Long của Mỹ có tổng số vịt nuôi 750.000 con,
Levine và Fabricant[50] quan sát thấy một bệnh tơng tự xảy ra trên các
đàn vịt con trắng Bắc Kinh, bệnh xuất hiện đầu tiên ở những vịt 2 - 3 tuần
tuổi, bệnh lây lan nhanh từ trại vịt này sang trại khác, 70 trại bị thiệt hại
nghiêm trọng, trại bị bệnh nặng tỷ lệ vịt chết lên đến 95%. Thời điểm cuối
ổ dịch chỉ còn sót lại một vài trại, khi bị nhiễm bệnh tỷ lệ chết thấp khoảng
15%. Năm 1950, bằng phơng pháp nuôi cấy trên phôi gà, Levine và
Fabricant đã phân lập đợc virus viêm gan vịt typ I.
Năm 1953, bệnh xảy ra trên các đàn vịt ở các vùng khác của nớc Mỹ.
Năm 1954 bệnh xảy ra ở Anh do Asplin và Lauchlan phát hiện. Năm 1958
ở Ai Cập do Chehata và Reuss, sau đó ở ý, Hà Lan, Nga cũng có những
công trình công bố về bệnh. Theo các báo cáo gần đây nhất, bệnh viêm gan
vịt do virus typ I xảy ra khắp nơi trên thế giới trong đó có cả Trung Quốc và
Triều Tiên. (OIE, 2000)[55].
Năm 1965 tại Norfolk của Anh, trên những đàn vịt con đã đợc tiêm
phòng vacxin nhợc độc viêm gan vịt typ I, bệnh viêm gan vịt vẫn xảy ra.

- 4 -
Bằng phơng pháp bảo hộ chéo trên vịt con ngời ta đã phân lập đợc
virus viêm gan vịt typ II (Asplin, 1965)[28]. Một thời gian sau trên các
đàn vịt không thấy bệnh xuất hiện, nhng vào năm 1983 - 1984, bệnh
lại xảy ra trên 3 đàn vịt ở Norfolk, (Anh), tỷ lệ chết đến 50% ở vịt 6 - 14
ngày tuổi, 10 - 25% ở vịt 3 - 6 tuần tuổi. Bệnh xảy ra lẻ tẻ, trong đàn vịt
chỉ có một số bị nhiễm bệnh.

Cho đến nay bệnh viêm gan vịt do virus viêm gan vịt typ II chỉ thấy
xảy ra ở nớc Anh, cha có báo cáo nào về tình hình bệnh xảy ra ở các
nớc khác.
Toth, 1969[64] cho biết ở đảo Long của Mỹ, bệnh viêm gan vịt đã xảy
ra trên đàn vịt con đã đợc dùng vacxin nhợc độc typ I. Bệnh xảy ra nhẹ
hơn so với bệnh viêm gan vịt của virus typ I, tỷ lệ chết của vịt con hiếm khi
vợt quá 30%. Haider và Calnek, 1979[41] đã đặt tên virus này là virus
viêm gan vịt typ III. Cho đến nay virus viêm gan vịt typ III mới chỉ đợc
công bố ở Mỹ.
2.1.2. Truyền nhiễm học
Loài mắc bệnh
Trong tự nhiên, bệnh viêm gan vịt do virus typ I gây ra chỉ xảy ra ở vịt
con (Nguyễn Xuân Bình, 1995)[2]. ở những đàn vịt bị bệnh, tỷ lệ nhiễm
bệnh 100%, tỷ lệ vịt chết tuỳ theo lứa tuổi: vịt dới 1 tuần tuổi chết 95%, 1
- 3 tuần tuổi chết ít hơn: 50%, 4 - 5 tuần tuổi tỷ lệ chết không đáng kể. Vịt
trởng thành bị nhiễm virus không có triệu chứng lâm sàng, không ảnh
hởng đến sản lợng trứng. Gà, gà tây và các động vật khác không mắc
bệnh. Theo Rahn, 1962[57], gia cầm non một vài ngày hay vài tuần tuổi
vẫn có thể bị nhiễm bệnh, con vật có biểu hiện triệu chứng, bệnh tích và có
kháng thể trung hoà trong máu. Asplin, 1961[27] cho biết gà con có thể bị
nhiễm bệnh, bệnh thể hiện không điển hình và có thể truyền virus cho con
khác.

- 5 -
Trong phòng thí nghiệm, dùng virus viêm gan vịt typ I gây bệnh cho
vịt con bằng cách cho uống hoặc tiêm phúc mạc, vịt có bệnh tích: gan sng,
xuất huyết lốm đốm trên gan, túi mật sng, lách sng và có thể phân lập
đợc virus từ gan 17 ngày sau khi cho uống.
Các loài vật khác nh thỏ, chuột lang, chuột nhắt trắng, chó đều
không cảm thụ với bệnh.

Trong tự nhiên và trong phòng thí nghiệm, virus viêm gan vịt typ II,
typ III chỉ gây bệnh cho vịt con.
Đờng xâm nhập và cách lây lan
Trong đàn vịt con bị bệnh, virus viêm gan vịt typ I lây lan rất nhanh từ
con bệnh sang con lành, tỷ lệ nhiễm bệnh rất cao 100%. Virus xâm nhập
vào cơ thể qua đờng tiêu hoá, hô hấp hoặc qua vết thơng.
Priz, 1973[56] đã gây bệnh cho vịt con bằng đờng lây nhiễm qua
không khí. Trong các trờng hợp gây bệnh này, virus xâm nhập vào cơ thể
qua thanh quản và đờng hô hấp trên, theo Hanson (1976)[43] có thể gây
bệnh cho vịt bằng cách cho uống.
Những vịt cha bị nhiễm virus, cho sống cùng đàn vịt bệnh, chúng sẽ
mắc bệnh và chết sau.
Bệnh không truyền lây qua trứng, vịt con nở ra từ trứng của vịt mẹ
nhiễm bệnh vẫn phát triển tốt. (Asplin, 1958)[26]
Theo Asplin, 1961[26] các loài chim hoang dã mang virus viêm gan
vịt từ vùng này sang vùng khác theo phơng thức cơ học, đây chính là
nguyên nhân gây ra các vụ dịch mới ở nơi xa. Demakov, 1975[34] cho biết:
chuột cống nâu có thể là vật chủ dự trữ của virus viêm gan vịt typ I. ở loại
động vật này virus đợc thu nhận vào cơ thể, tồn tại 35 ngày, sau đó đợc
bài tiết ra bên ngoài trong khoảng thời gian 18 - 22 ngày sau khi nhiễm.
Trong huyết thanh của chuột có kháng thể và kháng thể tồn tại 12 - 24

- 6 -
ngày. ở những vịt khỏi bệnh, virus đợc bài xuất ra ngoài theo phân sau 8
tuần. (Reuss, 1959)[59].
Virus viêm gan vịt typ II xâm nhập vào cơ thể qua đờng tiêu hoá và
đờng lỗ huyệt. ở những vịt khỏi bệnh, virus đợc bài xuất theo phân ít
nhất 1 tuần sau khi nhiễm bệnh.

2.1.3. Triệu chứng

Đối với bệnh do virus viêm gan vịt typ I gây ra, bệnh xảy ra đột ngột,
thời gian nung bệnh ngắn chỉ trong vòng 24 giờ, bệnh lây lan nhanh, vịt
chết tập trung vào ngày thứ 2, 3, 4 sau khi mắc bệnh, tỷ lệ chết rất cao có
khi lên tới 100%.
Vịt bị bệnh không theo kịp bầy đàn, ít vận động, mệt mỏi, mắt nhắm,
ngã vật ra, 2 chân co giật rồi chết, vịt chết nằm ở t thế đầu ngoẹo ra đằng
sau. Vịt chết rất nhanh trong vòng 1 giờ sau khi xuất hiện triệu chứng.
Trong thời gian dịch bệnh, vịt chết nhanh, nhiều làm cho ngời chăn nuôi
thấy ngỡ ngàng. Hình thái ngoẹo đầu ra đằng sau, chân duỗi thẳng lúc chết
thờng đợc coi nh một dấu hiệu đặc biệt của bệnh viêm gan vịt do virus.
Farmer gọi bệnh viêm gan vịt là hội chứng thận thoái hoá mỡ và hoại tử
tuyến tụy. (Farmer, 1987)[36].
ở Anh, vào giữa các năm 1978 - 1983, thiệt hại do bệnh gây ra lên đến
30% tổng số vịt nuôi, vịt ở hai nhóm tuổi: 1 - 2 tuần tuổi và 4 - 6 tuần tuổi
đợc coi là mẫn cảm với bệnh.
Triệu chứng ở đàn vịt bị bệnh do virus typ II gây ra, quan sát thấy:
vịt chết ở thể trạng tốt, chết trong vòng 1 - 2 giờ sau khi có biểu hiện
triệu chứng, vịt khát nớc, chảy nớc mắt, tăng tiết urat, vịt chết do co
giật cấp tính. Vịt bị nhiễm bệnh thờng chết, tỷ lệ chết từ 10 - 50%. Vịt
trởng thành không mắc bệnh.

- 7 -
Bệnh do virus viêm gan vịt typ III gây ra chỉ xảy ra ở vịt con, triệu
chứng giống nh ở typ I. Tỷ lệ mắc, tỷ lệ chết hiếm khi vợt quá 30%.
2.1.4. Bệnh tích
Bệnh tích đại thể: bệnh do virus viêm gan vịt typ I gây ra thờng thấy
ở gan, gan vịt bệnh sng to, xuất huyết lấm chấm hoặc từng đám đỏ sẫm
hay đỏ tím trên mặt gan, thận sng màu nhợt nhạt, tĩnh mạch thận xung
huyết, thỉnh thoảng có trờng hợp lách sng tụ máu hoặc lấm tấm xuất
huyết (Nguyễn Thát, 1975)[21].

Bệnh tích vi thể : Các tác giả Fabricant, J., C. G. Rikard và P.P. Levine
(1957)[35] cho biết: các biến đổi vi thể rất phức tạp, những biến đổi nguyên
thuỷ trong thể cấp tính bao gồm thay đổi đầu tiên là hoại tử tế bào gan, tăng
sinh ống mật cùng với tăng sinh các tế bào viêm và xuất huyết ở các mức
độ khác nhau. ở vịt con không chết có sự tái sinh của các tế bào nhu mô
gan (Fabricant, 1957)[35].
ở phôi gà 10 ngày tuổi chết do nhiễm virus viêm gan vịt typ I, quan
sát biến đổi vi thể cho thấy: tế bào hạt của nhiều cơ quan tăng sinh, gan có
các điểm hoại tử, tăng sinh ống mật, phù dới da, không quan sát thấy các
thể bao hàm trong tế bào.
Phôi vịt 10-14 ngày tuổi đợc tiêm virus viêm gan vịt typ I vào xoang
niệu mô, phôi chết trong khoảng 24-72 giờ sau khi tiêm và có biểu hiện
xuất huyết dới da, gan xuất huyết có nhiều điểm hoại tử. ở vịt 6 ngày tuổi
bị nhiễm virus viêm gan vịt typ I bằng đờng nhỏ mũi hoặc tiêm, vào thời
điểm 14 - 24 giờ sau kiểm tra bằng kính hiển vi điện tử cho thấy: glucogen
của gan giảm, trong tế bào có tiểu thể hình cầu đờng kính 100 - 300nm.
Trong trờng hợp vịt bị bệnh ở thể cấp tính, 24 giờ sau khi nhiễm virus, tế
bào gan thoái hoá, hoại tử, trong tế bào có các tiểu phần virus (Adamiker,
1969)[24]. Theo Adamiker, 1970 [25], sau khi gây nhiễm virus tế bào lách

- 8 -
bị biến đổi sau 6 giờ, bị hoại tử sau 24 giờ, thoái hoá nhân, tơng bào,
không tìm thấy tiểu thể virus, có những biến đổi nhẹ trong cơ (Woolcock và
Fabricant, 1997)[69].
Không tìm thấy thể bao hàm trong tế bào gan vịt bệnh, đây là một đặc
điểm khác biệt đối với bệnh dịch tả vịt.
Vịt bị nhiễm virus viêm gan vịt typ II bệnh tích vi thể đặc trng ở gan:
các tế bào gan hoại tử lan tràn, tế bào ống mật tăng sinh trên một phạm vi
rộng.
2.1.5. Chỉ tiêu phi lâm sàng

Vịt bị nhiễm virus viêm gan vịt typ I cho hàm lợng protein tổng số
giảm, albumin giảm, men glutamat - pyruvat - transaminase (GPT) tăng,
bilirubin tăng. Hàm lợng GPT, GOT tăng có liên quan đến quá trình nhiễm
bệnh, nghiên cứu vấn đề này, Mennella và Mandelli, 1977[54] cho biết, vịt
trời bị nhiễm bệnh, mặc dù triệu chứng bệnh không biểu hiện rõ nhng hàm
lợng men GPT, GOT của gan có thay đổi.
2.1.6. Chẩn đoán bệnh viêm gan vịt do virus
Chẩn đoán bệnh viêm gan vịt do virus có các kỹ thuật sau:
* Dựa vào triệu chứng, bệnh tích đại thể của bệnh
* Phân lập virus
Dựa vào triệu chứng, bệnh tích có thể phát hiện đợc bệnh, nhng
không phân biệt đợc typ virus gây bệnh.
Phơng pháp chẩn đoán bằng kỹ thuật phân lập virus, cho kết quả hữu
hiệu và có thể biết đợc typ của virus gây bệnh.
Bệnh phẩm dùng chẩn đoán là gan của vịt mắc bệnh, nghiền bệnh
phẩm với dung dịch PBS (Phosphate Buffer Saline) tỷ lệ 1/5 xử lý
Chloroform 5% trong thời gian 10 - 15 phút ở nhiệt độ phòng để diệt tạp
khuẩn. Tiến hành phân lập.

- 9 -

- Nuôi cấy virus viêm gan vịt typ I:
+ Dùng vịt 1 - 7 ngày tuổi, tiêm hỗn dịch bệnh phẩm vào dới da hoặc
tiêm bắp. Sau khi tiêm 18 - 48 giờ, thờng dới 24 giờ vịt chết, vịt có biểu
hiện triệu chứng, bệnh tích đặc trng của virus typ I.
+ Dùng phôi vịt 10 - 14 ngày tuổi hoặc phôi gà 8 - 10 ngày tuổi, tiêm
hỗn dịch bệnh phẩm vào xoang niệu mô. Sau khi tiêm, virus giết chết phôi
vịt trong khoảng 24 - 72 giờ, phôi gà 5 - 8 ngày.
Phôi có bệnh tích: còi cọc, xuất huyết dới da, phù phôi, gan sng, đỏ
hoặc hơi vàng.

+ Dùng môi trờng tế bào gan phôi vịt: Sau khi cấy hỗn dịch bệnh
phẩm, virus gây huỷ hoại tế bào: tế bào co tròn, hoại tử, tạo plaques đờng
kính gần bằng 1mm.
- Nuôi cấy virus viêm gan vịt typ II
+ Dùng vịt 1 - 7 ngày tuổi, tiêm hỗn dịch bệnh phẩm vào dới da hoặc
tiêm bắp. Sau khi tiêm 2 - 4 ngày vịt mới chết. Tỷ lệ chết chỉ đạt 20%. Điều
này khác hẳn so với typ I.
+ Dùng phôi vịt 10 - 14 ngày tuổi, gây nhiễm virus qua xoang niệu
mô. Trên môi trờng này, virus nhân lên hạn chế, sau 6 - 10 ngày mới phát
hiện đợc sự nhiễm virus của phôi: phôi còi cọc, hoại tử, gan có màu xanh.
+ Virus viêm gan vịt typ II không nhân lên đợc trên môi trờng tế
bào của vịt, gà.
- Nuôi cấy virus viêm gan vịt typ III.
+ Dùng vịt 1 - 7 ngày tuổi, tiêm hỗn dịch bệnh phẩm vào bắp thịt, 24 giờ
sau khi tiêm vịt không chết, sau 2 - 4 ngày vịt chết, tỷ lệ chết thấp chỉ đạt 20%.
+ Dùng phôi vịt 10 ngày tuổi, tiêm hỗn dịch bệnh phẩm vào màng
nhung niệu, virus nhân lên yếu. Sau khi tiêm 7 - 10 ngày phôi mới chết,

- 10 -
bệnh tích phôi: phôi còi cọc, phù phôi, xuất huyết dới da, màng nhung
niệu khô, dầy, gan, thận, lách sng to.
Virus viêm gan vịt typ III không nhân lên trên phôi gà. Nuôi cấy virus
trên môi trờng tế bào không thành công nhng có thể phát hiện virus trong
tế bào gan phôi vịt, thận phôi vịt bị nhiễm virus bằng phản ứng miễn dịch
huỳnh quang trực tiếp.
* Chẩn đoán huyết thanh học:
Ngay từ khi virus đợc phát hiện, ngời ta đã dùng phản ứng trung hoà
virus với mục đích: định typ virus, đánh giá phản ứng miễn dịch của cơ thể
đối với vacxin và dùng trong điều tra dịch tễ.
- Phản ứng trung hoà đợc sử dụng để định typ viêm gan vịt typ I,

(Woolcock, 1998)[68]: dùng vịt con 1-7 ngày tuổi, mỗi con tiêm 1-2ml
huyết thanh miễn dịch hoặc kháng thể đặc hiệu chế từ lòng đỏ vào dới da.
Sau 24 giờ tiến hành tiêm virus cờng độc với liều 10
3
LD
50
. Kết quả 80-
100% vịt đối chứng chết, 80-100% vịt thí nghiệm sống sót.
- Dùng phản ứng bảo hộ chéo để phân biệt virus viêm gan vịt typ I, typ
II và typ III: tiêm huyết thanh miễn dịch viêm gan vịt typ I, typ II cho vịt 2 -
4 ngày tuổi. Sau 3 ngày tiến hành công cờng độc virus phân lập đợc
(Gough, 1985)[40].
* Chẩn đoán phân biệt:
Trong chẩn đoán bệnh viêm gan do virus của vịt cần phân biệt với một
số bệnh khác:
Chẩn đoán phân biệt với bệnh Dịch tả vịt (Duck plague):
Bệnh dịch tả vịt xảy ra ở vịt mọi lứa tuổi. Vịt có triệu chứng sng đầu,
đau mắt, liệt cánh, liệt chân, tiêu chảy phân xanh, tốc độ vịt chết chậm hơn,
vịt có bệnh tích viêm kết mạc mắt, xuất huyết dới da, loét đờng tiêu hoá
nh: niêm mạc dạ dày, ruột. Virus dịch tả vịt rất mẫn cảm với chloroform

- 11 -
và có thể tìm thấy thể bao hàm trong chẩn đoán tổ chức học.
Chẩn đoán phân biệt với bệnh Salmonellosis ở vịt:
Bệnh xảy ra ở cả vịt con, vịt giống. Vịt con ỉa chảy, phân trắng, gan có
điểm hoại tử. Vịt giống bị viêm buồng trứng, trứng non teo, dị hình, vịt
giảm đẻ, vỏ trứng mỏng, dễ vỡ. Vịt con cha tiêu hết lòng đỏ; gan, thận,
lách sng, xung huyết. Bệnh có thể chữa khỏi bằng kháng sinh (Nguyễn
Vĩnh Phớc, 1978)[20]. Trong phòng thí nghiệm, vi khuẩn dễ dàng phân
lập đợc bằng một số môi trờng thông thờng: môi trờng thạch máu,

thạch thờng.
Chẩn đoán phân biệt với bệnh nhiễm độc Aflatoxin (Aflatoxicosis)
Bệnh có triệu chứng gần giống bệnh viêm gan vịt, biểu hiện bệnh tích
là gan sng, có màu nhợt nhạt; thận và lách xuất huyết, bao tim và xoang
bụng tích nớc. Vịt chết nhanh ở mọi lứa tuổi, gan sng, rắn, nhu mô gan
và thận bị phá huỷ nghiêm trọng nhng không có tế bào viêm. Không có sự
lây lan bệnh sang các đàn vịt khác khi không dùng cùng một loại thức ăn.

2.2. Virus viêm gan vịt (Duck Hepatitis virus = DHV)
Bệnh viêm gan vịt do 3 loại virus gây nên: virus viêm gan vịt typ I,
virus viêm gan vịt typ II và virus viêm gan vịt typ III.
2.2.1. Virus viêm gan vịt typ I
Hình thái
Virus viêm gan vịt typ I do Levine và Fabricant phân lập vào năm
1950 là một Enterovirus, nằm trong họ Picornaviridae, loại ARN, kích
thớc 20 - 40nm (Richter, 1964)[60], không có vỏ bọc ngoài, có 32
capxome.
Đặc tính sinh học của virus
Virus không có khả năng gây ngng kết hồng cầu của gà, vịt, cừu,

- 12 -
ngựa, chuột lang, thỏ, lợn virus không ngng kết hồng cầu khỉ khi thí
nghiệm ở pH: 6,8 - 7,4, nhiệt độ 4
0
C; 24
0
C; 37
0
C.
Sức đề kháng:

Virus có sức đề kháng cao với ete, chloroform, đề kháng tơng đối với
sức nóng, có khả năng tồn tại lâu bên ngoài môi trờng. Tế bào chứa virus
đề kháng với pH = 3 trong thời gian 9 giờ. Virus không bị vô hoạt bởi lysol
2%, formalin 0,1%, creolin 15%. ở điều kiện formalin 0,2% trong 2 giờ,
cloramin 3% trong 5 giờ, virus bị vô hoạt. Theo Haider, 1979, ở điều kiện
có 5% phenol virus bị vô hoạt hoàn toàn (Haider, 1980)[42].
Khi xét ảnh hởng bởi yếu tố nhiệt độ, các tác giả cho biết phần lớn
virus bị vô hoạt ở nhiệt độ 56
0
C trong 30 phút. Trong tự nhiên khi điều kiện
vệ sinh kém virus có thể tồn tại đợc 10 tuần. Trong phân ẩm virus sống
đợc 37 ngày. ở nhiệt độ 4
0
C virus tồn tại đợc 2 năm, nhiệt độ âm 20
0
C
đợc 9 năm.
Biến dị của virus:
Trong tự nhiên kháng nguyên của virus viêm gan vịt typ I không ổn
định, dễ bị biến dị (Rao, 1967)[58]; (Sahalaby, 1978)[63]. Ngời ta đã phân
lập đợc các typ virus biến dị ở ấn Độ, Ai Cập và chứng minh sự biến dị
của virus typ I bằng phản ứng huyết thanh học. Sandhu, 1988[62] cho biết
vịt đợc miễn dịch với typ I không đủ bảo hộ khi công cờng độc bằng
chủng virus biến dị
Đặc tính nuôi cấy:
Virus là loại ký sinh nội bào tuyệt đối (Nguyễn Đờng, 1990)[13], có
thể cấy chuyển virus viêm gan vịt trên động vật cảm thụ, trên phôi trứng và
trên môi trờng tế bào.
- Nuôi cấy trên động vật cảm thụ.
Virus viêm gan vịt có khả năng nhân lên trên vịt con, nhất là vịt con


- 13 -
nhỏ hơn 7 ngày tuổi. Các loài động vật khác nh: thỏ, chuột lang, chuột
bạch, chó virus không có khả năng nhân lên.
Dùng hỗn dịch chứa virus viêm gan vịt typ I đa vào cơ thể vịt con 1 -
7 ngày tuổi bằng phơng pháp: tiêm dới da, tiêm bắp hoặc cho uống.
Trong vòng 18 - 48 giờ sau khi gây nhiễm, thờng dới 24 giờ vịt thí
nghiệm có biểu hiện triệu chứng đặc trng của bệnh, vịt chết, mổ khám có
bệnh tích: gan sng, xuất huyết lốm đốm trên gan, túi mật sng, lách sng.
- Nuôi cấy trên phôi trứng
Virus viêm gan vịt có khả năng nhân lên trên phôi vịt và phôi gà.
Trên phôi vịt: tiêm virus viêm gan vịt vào xoang niệu mô của phôi vịt
10 - 14 ngày tuổi, 24 - 72 giờ sau khi gây nhiễm phôi chết với bệnh tích:
phôi còi cọc, xuất huyết dới da đặc biệt ở vùng đầu, bụng, chân, phôi
phù, gan sng có màu đỏ hoặc hơi vàng, có thể có điểm hoại tử. ở những
phôi chết muộn nớc xoang niệu mô có màu xanh nhạt, bệnh tích rõ hơn.
Trên phôi gà: Tiêm virus viêm gan vịt vào xoang niệu mô của phôi gà 8
- 10 ngày tuổi. ở lần cấy chuyển virus đầu tiên, sau khi gây nhiễm 5 - 6
ngày, cho tỷ lệ phôi chết 10 - 60%, phôi có bệnh tích còi cọc, phù phôi, xuất
huyết dới da (Levine và Fabricant, 1950)[50]. ở lần cấy chuyển thứ 20 - 26,
virus không còn khả năng gây bệnh cho vịt con mới nở, khi chuẩn độ virus
đạt 1 - 3log
10
, lợng virus này thấp hơn khi cấy chuyển qua phôi vịt. ở lần
cấy chuyển thứ 63 cho tỷ lệ phôi chết 100%. Theo Toth (1969)[64] sau 80
lần cấy truyền qua phôi gà cho hiệu giá virus là cao nhất, vào thời điểm 53
giờ sau khi gây nhiễm phôi, lợng virus có ở màng nhung niệu là 10
5,79
, ở
dịch niệu mô là 10

3,62
lợng virus có hiệu giá cao ở lúc 53-69 giờ sau khi
nuôi cấy. Một số trờng hợp, khi nuôi cấy virus trên phôi gà, vào thời điểm
48 giờ sau nuôi cấy hiệu giá virus trên phôi đạt 10
8
; thời gian này kéo dài 6 -
24 giờ sau (Mason, 1972)[53].

- 14 -
Trên phôi ngỗng, virus viêm gan vịt cũng có khả năng nhân lên. Sau
khi cấy virus vào xoang niệu mô, 2 - 3 ngày sau phôi chết.
- Nuôi cấy trên môi trờng tế bào
Virus typ I có khả năng nhân lên trên nhiều loại tế bào: tế bào xơ phôi
vịt, xơ phôi gà, thận phôi vịt, thận phôi gà, gan phôi vịt, thận phôi ngỗng
(Hwang, 1966[47]).
Trên môi trờng nuôi cấy có thể quan sát sự huỷ hoại tế bào của virus
sau 8 giờ gây nhiễm, đạt cực đại sau 2 - 4 ngày, sự huỷ hoại tế bào đợc
biểu hiện dới dạng những cụm tế bào co tròn (Maiboroda, 1972)[51].
Môi trờng tế bào thận phôi vịt đợc sử dụng để làm phản ứng trung
hoà, phản ứng tạo plaques với virus nhợc độc viêm gan vịt (Woolcock,
1982)[66].
2.2.2. Virus viêm gan vịt typ II
Virus viêm gan vịt typ II đợc Asplin xác định năm 1965[28], đây là
một Astrovirus có tính kháng nguyên khác với Astrovirus của gà, gà tây.
Virus có đờng kính 28 - 30nm khi quan sát bằng kính hiển vi điện tử
(Gough, 1984)[39].
ở vịt bị nhiễm virus viêm gan vịt typ II, triệu chứng, bệnh tích giống
nh khi nhiễm virus viêm gan vịt typ I.
Nghiên cứu quá trình nuôi cấy cho thấy virus có thể nhân lên trên phôi
vịt, khi gây nhiễm virus vào xoang niệu mô hay túi lòng đỏ. Trên môi

trờng này virus nhân lên yếu hơn so với virus viêm gan vịt typ I, cụ thể: 6 -
10 ngày sau khi gây nhiễm mới phát hiện đợc sự nhiễm virus của phôi,
phôi còi cọc, hoại tử gan.
Trên phôi gà, sau nhiều lần cấy truyền mù qua xoang niệu mô, virus
mới gây chết một số phôi ở thời điểm 7 ngày sau khi gây nhiễm. Những
phôi chết có biểu hiện còi cọc, gan có hoại tử màu xanh.

- 15 -
Trên môi trờng nuôi cấy tế bào, virus không có khả năng nhân lên
trên các loại tế bào của phôi gà, vịt.
Virus viêm gan vịt typ II mất khả năng gây nhiễm ở nhiệt độ 50
0
C
trong 60 phút.
2.2.3. Virus viêm gan vịt typ III
Virus viêm gan vịt typ III đợc Toth phát hiện vào năm 1969 ở
Mỹ[64], năm 1979 virus đợc Haider và Calnek đặt tên[41]. Virus là một
picornavirus, có tính kháng nguyên không quan hệ với virus viêm gan vịt
typ I, quan sát dới kính hiển vi điện tử trên tế bào thận vịt nhiễm virus cho
thấy: virus là loại ARN có đờng kính 30nm trong tế bào chất.
Nghiên cứu quá trình nuôi cấy của virus cho thấy:
Trên phôi vịt 9 - 10 ngày tuổi, sau khi gây nhiễm virus qua màng
nhung niệu, 8 - 9 ngày sau mới có phôi chết, tỷ lệ phôi chết ở mức độ thấp.
Nếu cấy truyền virus nhiều lần qua phôi vịt, thời gian phôi chết sẽ sớm hơn.
Quan sát bệnh tích trên phôi cho thấy: màng nhung niệu biến màu, dầy gấp
10 lần so với bình thờng, phôi có bệnh tích còi cọc, phù, xuất huyết dới
da, gan, thận lách sng.
Trên phôi gà, virus viêm gan vịt typ III không có khả năng nhân lên. ở
môi trờng tế bào thận, gan của phôi vịt hay của vịt con, virus có khả năng
nhân lên, có thể dùng môi trờng này để xác định virus.


2.3. miễn dịch chống virus viêm gan vịt
Miễn dịch là khả năng nhận ra và loại các vật lạ ra khỏi cơ thể (Vũ
Triệu An, 1997)[1], (Đặng Đức Trạch 1984)[22], để có đợc khả năng này,
cơ thể phải nhờ đến hệ thống miễn dịch.
Trong quá trình tiến hóa liên tục, đấu tranh sinh tồn chống lại các vi sinh
vật gây bệnh, cũng nh mọi động vật khác, gia cầm đã trang bị cho mình

- 16 -
một hệ thống bảo vệ quan trọng đó là hệ miễn dịch.
Hệ miễn dịch của cơ thể gia cầm bao gồm các cơ quan và các tế bào
tham gia trong cơ chế đáp ứng miễn dịch. Khi một kháng nguyên xâm nhâp
vào cơ thể, cơ thể bảo vệ mình trớc hết bằng cơ chế đáp ứng miễn dịch
không đặc hiệu, tham gia vào cơ chế này có vai trò của da, niêm mạc, dịch
tiết của các tuyến, đặc biệt là vai trò của các tế bào làm nhiệm vụ thực bào.
Sau đó cơ thể bảo vệ mình bằng cơ chế đáp ứng miễn dịch đặc hiệu với sự
hoạt động của các cơ quan, tế bào có thẩm quyền miễn dịch, tạo ra kháng
thể đặc hiệu để loại trừ kháng nguyên (Đỗ Trung Phấn, 1979)[19].
Cũng nh nhiều bệnh truyền nhiễm khác miễn dịch chống bệnh viêm
gan do virus của vịt gồm nhiều loại, ở đây xin đề cập đến miễn dịch tiếp thu
chủ động và miễn dịch tiếp thu bị động.
Miễn dịch bị động
ở gia cầm non, hệ thống miễn dịch cha phát triển hoàn thiện, vì vậy
ngay từ lúc sơ sinh, cơ thể của chúng hoàn toàn không có khả năng chống
lại tác nhân gây bệnh một cách chủ động và đặc hiệu (Melekhin, 1989)[18].
Trạng thái miễn dịch đặc hiệu có thể có đợc khi cơ thể gia cầm mẹ có
miễn dịch và truyền kháng thể đặc hiệu cho con non qua lòng đỏ trứng.
Trong bệnh viêm gan vịt, miễn dịch bị động ở vịt con nhận đợc từ mẹ
đợc nhiều tác giả nghiên cứu. Asplin 1958[26] dùng virus viêm gan vịt typ
I nhợc độc qua phôi gà, tiêm bắp cho vịt giống vào thời điểm 2 - 4 tuần

trớc khi lấy trứng đem ấp đã tạo đợc miễn dịch thụ động cho vịt con.
Reuss 1959[59], đã cho biết: tiêm nhắc lại vacxin cho vịt mẹ sẽ tạo đợc
kháng thể thụ động cho đàn vịt con. Rispens, 1969[61] khuyến cáo ngời
chăn nuôi nên tiêm cho đàn vịt giống 2 liều vacxin cách nhau ít nhất 6 tuần.
Vịt mẹ sẽ có khả năng truyền kháng thể thụ động cho vịt con trong khoảng
thời gian 9 tháng sau lần tiêm vacxin thứ hai.
Theo Hwang 1973[48], dùng 2 - 3 lần vacxin nhợc độc cho đàn vịt

- 17 -
giống sẽ tạo đợc miễn dịch thụ động đủ bảo hộ cho vịt con. Bezukavaya
1978[31] đã dùng virus viêm gan vịt nhợc độc qua phôi vịt tiêm cho vịt
giống, đã tạo đợc miễn dịch thụ động cho vịt con.
Golubnichi, 1984[37] cho biết: hàm lợng kháng thể ở vịt mẹ phải đạt
hiệu giá 1/64 trong phản ứng ngng kết hồng cầu thụ động hoặc 1/32 trong
phản ứng trung hòa mới có thể bảo hộ cho vịt con với bệnh.
Theo OIE, 2000[55] nếu dùng vacxin viêm gan vịt nhợc độc typ I: 2 -
3 lần vào các thời điểm 12 - 8 - 4 tuần trớc khi đẻ sẽ tạo đợc miễn dịch
thụ động cho vịt con trong suốt chu kỳ đẻ trứng. Vịt giống đợc tạo miễn
dịch cơ sở bằng vacxin nhợc độc typ I, sau đó tiêm bắp vacxin vô hoạt sẽ
tạo đợc miễn dịch thụ động cho vịt con (Woolcock, 1991)[67]. ở vịt con
hàm lợng kháng thể thụ động giảm dần trong 2 tuần đầu (Tripathy,
1986)[65].
Miễn dịch thụ động ở vịt con với bệnh viêm gan vịt còn đợc tạo ra
bằng cách dùng huyết thanh miễn dịch của vịt khỏi bệnh hoặc kháng thể từ
lòng đỏ tiêm cho vịt con. Rispens, 1969[69] cho biết có thể tạo miễn dịch
thụ động cho vịt con bằng cách tiêm kháng thể thụ động chế từ lòng đỏ
trứng của vịt đã đợc gây miễn dịch. Quy trình này sau đợc cải tiến dùng
virus cờng độc viêm gan vịt typ I gây miễn dịch cho gà thu trứng, chế
kháng thể từ lòng đỏ (OIE, 2000)[55].
ở khu vực có mặt virus viêm gan vịt typ I, typ III để tạo miễn dịch thụ

động cho vịt con nên dùng vacxin nhợc độc viêm gan vịt typ I hai đến ba
lần vào các thời điểm 12 - 8 - 4 tuần trớc khi vịt đẻ và dùng vacxin viêm
gan vịt nhợc độc typ III hai lần vào thời điểm 12 - 4 tuần trớc khi đẻ sẽ
tạo đợc miễn dịch thụ động cho vịt con với virus viêm gan vịt typ I, III.
Với vacxin viêm gan vịt typ II, cha một tài liệu nào nói về sử dụng
vacxin cho đàn vịt giống đạt hiệu quả.

- 18 -
Miễn dịch chủ động
Trong bệnh viêm gan vịt, những vịt sống sót đều có miễn dịch chắc
chắn với virus của typ gây bệnh. Asplin 1970[29] cho biết vịt đợc dùng
vacxin có thể tạo đợc miễn dịch chủ động chống lại bệnh.
Để tạo miễn dịch chủ động cho đàn vịt, ngời ta sử dụng các loại
vacxin nhợc độc và vacxin vô hoạt. Vacxin sau khi vào cơ thể, đợc đa
đến các cơ quan miễn dịch nh: hạch, lách, tổ chức lympho dới niêm mạc,
kích thích cơ thể sinh ra kháng thể đặc hiệu. Trong đó kháng thể dịch thể
đóng vai trò quan trọng. Theo Asplin 1961[27] trong huyết thanh của vịt
khỏi bệnh có kháng thể trung hòa. Davis 1987[33] cho biết ở vịt 2 ngày tuổi
kháng thể trung hòa xuất hiện 4 ngày sau khi tiêm vacxin nhợc độc viêm
gan vịt typ I. Malinovskaya 1982[52] bằng phản ứng ngng kết hồng cầu
thụ động khi nghiên cứu đáp ứng miễn dịch với virus viêm gan vịt typ I của
vịt giống và vịt con 7 ngày tuổi, cho biết: trong kháng thể dịch thể, kháng
thể 7S nhiều hơn kháng thể 19S (7S thì mẫn cảm với Cystein, 19S kháng
Cystein).
Theo Gough and Spackman 1981[38] có thể tạo đợc miễn dịch ở vịt
con sau khi dùng cho đàn vịt giống 3 lần vacxin vô hoạt nhũ dầu.
Một số phơng pháp đánh giá đáp ứng miễn dịch
Mức độ miễn dịch của vịt với các typ virus gây bệnh viêm gan có thể
đợc đánh giá bằng phơng pháp công cờng độc và huyết thanh học. :
kháng thể bảo hộ cho đàn vịt với virus viêm gan vịt là kháng thể trung hòa.

Có thể dùng phản ứng trung hòa để kiểm tra mức độ miễn dịch của vịt sau
khi dùng vacxin hoặc sau khi vịt khỏi bệnh (OIE, 2000)[55].
Phơng pháp công cờng độc đợc sử dụng với mục đích xác định
mức độ đáp ứng miễn dịch của đàn vịt sau khi tiêm vacxin, phơng pháp
cho kết quả chính xác, để đánh giá tính gây miễn dịch của vacxin viêm gan
vịt typ I, typ II có thể tiến hành: Tiêm vacxin vào dới da cho vịt, với liều

- 19 -
10
3,3
ELD
50
, 72 giờ sau dùng virus cờng độc tiêm cho vịt liều 10
3
LD
50
.
Vacxin viêm gan vịt typ I có hiệu quả khi ít nhất 80% vịt tiêm vacxin sống
sót, 80% vịt đối chứng chết. Vacxin typ II có 20% vịt đối chứng biểu hiện
bệnh.

2.4. vacxin phòng bệnh và vấn đề phòng chống bệnh
2.4.1. Vacxin phòng bệnh viêm gan do virus ở vịt
Bệnh viêm gan do virus ở vịt là bệnh truyền nhiễm, do 3 typ virus viêm
gan vịt khác nhau gây ra. Cho đến nay virus viêm gan vịt typ I có ở khắp
nơi trên thế giới, typ II có ở Anh, typ III có ở Mỹ, gây thiệt hại lớn cho
ngành chăn nuôi vịt. Biện pháp quan trọng nhất để khống chế, thanh toán
dịch bệnh là dùng vacxin tạo miễn dịch cho đàn vịt.
Vacxin phòng bệnh viêm gan vịt có 2 loại: vacxin nhợc độc và vacxin
vô hoạt.

Vacxin nhợc độc
Virus cờng độc dới tác động của các yếu tố sinh học: tiêm truyền
nhiều lần qua động vật ít cảm thụ, qua phôi, độc lực của virus giảm đi, virus
vẫn có khả năng nhân lên trong cơ thể vật chủ nhng không gây bệnh.
Virus này đợc dùng làm vacxin.
Nghiên cứu virus viêm gan vịt: Asplin, 1958[26]; Reuss, 1959[59] cho
biết virus viêm gan vịt cờng độc sau khi truyền đời qua phôi gà, khả năng
gây bệnh cho vịt con giảm.
Theo Hwang, 1965[45]: các chủng virus viêm gan vịt cờng độc sau
khi đã cấy truyền qua phôi gà không còn khả năng gây bệnh cho vịt con
nhng virus vẫn nhân lên trong tế bào các mô, so với chủng virus viêm gan
vịt cờng độc thì mức độ nhân lên của virus này là thấp hơn.
Trên cơ sở nghiên cứu này nhiều chủng virus viêm gan vịt nhợc độc

- 20 -
ra đời bằng phơng pháp giảm độc trên phôi: Asplin tạo ra chủng TN sau
khi đã giảm độc virus qua cấy truyền trên phôi gà (Asplin, 1958)[26]. Theo
Asplin, virus viêm gan vịt giảm độc sau khi cấy chuyển trên phôi gà từ đời
thứ 23. Hwang và Dougherty (1964)[44] thấy ở đời 26 và Reuss thấy sau 55
đời virus mới giảm độc lực.
Hiện nay vacxin viêm gan vịt nhợc độc typ I loại dùng chủ yếu ở
châu Âu đợc giảm độc sau 53 - 55 lần truyền đời qua phôi gà, ở Mỹ loại
giảm độc sau 84 - 89 lần cấy truyền. Vacxin nhợc độc viêm gan vịt typ I
đợc sản xuất trên phôi gà 8 - 10 ngày tuổi, vị trí tiêm xoang niệu mô, nuôi
cấy ở nhiệt độ 37
0
C. Sau khi tiêm phần lớn phôi chết trong vòng 2 - 3 ngày
với bệnh tích gây ra trên phôi: phôi còi cọc, phù phôi, xuất huyết trên da,
gan sng, xuất huyết. Sau 3 - 5 ngày thu vacxin, thời điểm này lợng virus
đạt số lợng cao nhất. Phôi chết trớc thời điểm 24 giờ loại bỏ. Vacxin bảo

quản ở nhiệt độ âm 70
0
C trong vài năm.
- Vacxin viêm gan vịt nhợc độc typ II đợc giảm độc khi cấy truyền
qua phôi gà 25 lần. Quy trình sản xuất vacxin giống virus nhợc độc viêm
gan vịt typ I, loại vacxin này không dùng trong sản xuất chỉ sử dụng cho vịt
con trong điều kiện phòng thí nghiệm.
- Vacxin viêm gan vịt nhợc độc typ III đợc giảm độc khi cấy truyền
30 lần trên màng nhung niệu của phôi vịt. Vacxin đợc sản xuất trên phôi
vịt 10 ngày tuổi, vị trí tiêm màng nhung niệu, nuôi cấy ở nhiệt độ 37
0
C. Sau
khi tiêm phôi chết trong vòng 6 - 10 ngày với bệnh tích của virus gây ra
trên phôi. Thu nớc và màng nhung niệu, bảo quản ở nhiệt độ âm 70
0
C
trong vài năm.
Nghiên cứu đờng đa vacxin vào cơ thể: Asplin 1961[27]; Balla
1984[30] cho biết: phơng pháp cho uống, tiêm dới da, tiêm bắp với
vacxin nhợc độc viêm gan vịt typ I đều tạo đợc miễn dịch tốt.
Theo OIE, 2000[55], đa vacxin nhợc độc viêm gan vịt typ II bằng

- 21 -
đờng cho uống, tiêm dới da, tiêm bắp, virus viêm gan vịt typ III bằng
đờng tiêm dới da sẽ tạo đợc đáp ứng miễn dịch cao cho đàn vịt.
Vacxin viêm gan vịt đợc giảm độc trên phôi khi sử dụng cho vịt rất
an toàn, độc lực của chủng virus vacxin ổn định và không trở lại độc lực với
vịt mẫn cảm.
Nghiên cứu hiệu lực của vacxin viêm gan vịt nhợc độc trên phôi, các
tác giả cho biết vacxin có khả năng tạo miễn dịch tốt. Vịt con mới nở đợc

tiêm vacxin viêm gan vịt typ I, sau 48 - 72 giờ có miễn dịch, miễn dịch kéo
dài trong suốt thời gian vịt mẫn cảm với bệnh (Crighton, 1978)[32].
Cha có tài liệu bào nói về dùng vacxin viêm gan vịt nhợc độc typ III
cho vịt con 1 ngày tuổi.
Vacxin viêm gan vịt nhợc độc có khả năng tạo miễn dịch cao cho đàn
vịt khi sử dụng phơng pháp tiêm nhắc lại. Theo Reuss, 1959 [59], OIE,
2000 [55]: muốn tạo đợc miễn dịch cao cho đàn vịt giống để truyền kháng
thể bị động cho vịt con phải tiêm vacxin nhắc lại. Với vacxin typ I tiêm 2 -
3 lần vào các thời điểm 12 - 18 - 4 tuần trớc khi đẻ. Sau khi đẻ 3 tháng 1
lần tiêm nhắc lại. Với vacxin typ III tiêm 2 lần vào các thời điểm 12 - 4
tuần trớc khi đẻ, sau khi đẻ 6 tháng 1 lần tiêm nhắc lại.
Sử dụng vacxin viêm gan vịt nhợc độc kết hợp với vacxin vô hoạt
cũng tạo đợc miễn dịch cao ở đàn vịt giống: sử dụng vacxin viêm gan vịt
nhợc độc typ I, sau đó tiêm bắp 1 lần vacxin vô hoạt cho vịt sẽ tạo đợc
miễn dịch thụ động tốt ở đàn vịt con trong suốt chu kỳ đẻ trứng.
Vacxin vô hoạt
Trong quá trình nghiên cứu vacxin phòng bệnh viêm gan vịt, ngoài
vacxin nhợc độc còn có vacxin vô hoạt. Theo Woolcock 1991[67], vacxin
viêm gan vịt vô hoạt đợc sản xuất từ virus viêm gan vịt typ I, virus đợc
nuôi cấy trên phôi gà, thu hoạch dịch phôi, vô hoạt virus bằng BEI (Binary
Ethylenimine), dùng bổ trợ dạng nhũ dầu LES - STM (Lipid Emulsion

- 22 -
System - Salmonella typhimurium) và có lympho B phân bào.
Bảo quản ở 4
0
C trong thời gian 20 tháng vẫn giữ đợc hiệu lực của
vacxin.
Nghiên cứu hiệu lực của vacxin viêm gan vịt vô hoạt, các tác giả đều
cho biết vacxin có khả năng tạo miễn dịch cao cho đàn vịt. Theo Gough

1981[38], vacxin vô hoạt chế từ virus nuôi cấy trên phôi gà. Sử dụng 3 lần
vacxin viêm gan vịt typ I vô hoạt nhũ dầu cho đàn vịt giống sẽ tạo đợc
miễn dịch thụ động cho đàn vịt con. Theo tác giả dùng vacxin viêm gan vịt
nhợc độc cho vịt lúc 2 - 3 ngày tuổi vào thời điểm 22 tuần tuổi tiêm lại
bằng vacxin vô họat sẽ tạo đợc lợng kháng thể trung hòa cao hơn khi sử
dụng 3 lần vacxin vô hoạt.

2.4.2. Vấn đề phòng và chống bệnh
* Phòng bệnh: trong phòng bệnh biện pháp có hiệu quả là phòng
bệnh bằng vệ sinh kết hợp sử dụng vacxin.
Phòng bệnh bằng vệ sinh thú y trớc hết phải áp dụng biện pháp vệ
sinh thú y với các cơ sở chăn nuôi vịt. Cách ly nghiêm ngặt đối với vịt con,
nhất là trong 4-5 tuần đầu. Nhiều tác giả nghiên cứu đã cho thấy tính khả
thi của việc thanh toán bệnh ở những khu vực đã đợc lựa chọn thí nghiệm.
Những nơi này đã thành công trong việc cách ly để bảo vệ đàn vịt con với
bệnh, bên cạnh công tác vệ sinh phòng bệnh phải dùng vacxin cho đàn vịt
Sử dụng vacxin viêm gan vịt để phòng bệnh nhằm mục đích tạo cho vịt
con ở lứa tuổi cảm thụ với bệnh có miễn dịch và đề kháng đợc với bệnh.
Phơng pháp tạo miễn dịch cho vịt con có nhiều cách:
Theo Crighton 1978[32], với trờng hợp vịt con mới nở, khi tiêm
vacxin nhợc độc typ I, sau 48-72 giờ vịt có miễn dịch, miễn dịch kéo dài
suốt giai đoạn mẫn cảm với bệnh.

- 23 -
Vịt con của đàn vịt giống không có miễn dịch với bệnh viêm gan vịt có
thể dùng vacxin viêm gan vịt nhợc độc typ I lúc 1 ngày tuổi bằng đờng
cho uống hoặc tiêm dới da để gây miễn dịch. Vịt con nở từ đàn mẹ có
miễn dịch, kháng thể thụ động giảm dần trong 2 tuần đầu, nên dùng vacxin
nhợc độc typ I cho vịt vào thời điểm 7 - 10 ngày tuổi (Tripathy, 1986)[65].
Để tạo miễn dịch cho đàn vịt con với bệnh viêm gan vịt, ngoài việc sử

dụng vacxin, còn có thể dùng kháng thể viêm gan vịt chế từ lòng đỏ trứng.
Vịt con mẫn cảm với virus viêm gan vịt typ I có thể đợc phòng bệnh bằng
cách tiêm kháng thể viêm gan vịt typ I chế từ lòng đỏ trứng gà. Tuy nhiên
miễn dịch này cho thời gian miễn dịch với bệnh ngắn. (OIE 2000)[55]
Vịt con còn có khả năng miễn dịch đợc với bệnh khi chúng nhận
đợc kháng thể đặc hiệu từ mẹ truyền sang qua lòng đỏ trứng.
Theo OIE, 2000[55] vịt giống đợc dùng vacxin viêm gan vịt typ I vào
các thời điểm 12-8-4 tuần trớc khi đẻ sẽ tạo đợc miễn dịch thụ động cho
đàn con trong mùa giống.
Theo Rispens, 1969[61] nên tiêm hai lần vacxin cho đàn vịt giống
cách nhau ít nhất 6 tuần, sẽ tạo đợc kháng thể thụ động cho vịt con khoảng
9 tháng sau lần tiêm thứ 2.
Theo Gough và Spackman, 1981[38] có thể tạo đợc miễn dịch cao
cho đàn vịt con nếu sử dụng 3 lần vacxin vô hoạt nhũ dầu cho vịt mẹ. Các
tác giả còn cho biết: dùng vacxin nhợc độc typ I tiêm cho vịt con lúc 2-3
ngày tuổi, đến 22 tuần sau tiêm nhắc lại bằng vacxin vô hoạt sẽ tạo đợc
lợng kháng thể trung hoà cao hơn khi sử dụng 3 lần vacxin vô hoạt.
Golubnichi, 1984[37] cho biết mức kháng thể trung hoà ở vịt mẹ phải
đạt hiệu giá 1/32 mới có thể tạo cho đàn con bảo hộ đợc với bệnh.
* Điều trị và khống chế bệnh: đối vớibệnh viêm gan do virus của vịt,
để làm giảm thiệt hại do bệnh gây ra, có thể tiến hành một số biện pháp
sau:

- 24 -
- Phát hiện bệnh sớm, can thiệp bằng cách tiêm huyết thanh miễn dịch
hay kháng thể viêm gan vịt chế từ lòng đỏ cho vịt. Bệnh do virus viêm gan vịt
typ I gây ra, dùng huyết thanh miễn dịch của vịt khỏi bệnh typ I tiêm cho vịt
con liều 0,5ml cho 1 con, hay dùng kháng thể viêm gan vịt typ I chế từ lòng
đỏ.
- Tiêm thẳng vacxin vào ổ dịch.

- Ngăn không cho mầm bệnh lây lan: không bán chạy vịt, không mua
vịt ở nơi có dịch, xử lý xác chết, dụng cụ chăn nuôi

2.5. những nghiên cứu về bệnh viêm gan vịt và vacxin
phòng bệnh ở việt nam
ở Việt Nam từ năm 1978, Trần Minh châu và cộng sự đã nghi có bệnh
viêm gan do virus của vịt, nhng vào thời điểm đó cha phân lập đợc mầm
bệnh (Trần Minh Châu, Lê Thu Hồng, 1985)[5].
Năm 1979-1983, bệnh xảy ra ở nhiều địa phơng làm chết rất nhiều vịt
con. Theo các tác giả Lê Thanh Hoà, Nguyễn Nh Thanh, Nguyễn Bá Hiên,
1984[14], ở Gia Lâm - Hà Nội bệnh viêm gan vịt do virus đã xảy ra làm
chết hàng ngàn vịt con.
Năm 1983, Trần Minh Châu và cộng sự đã phân lập đợc một chủng
virus cờng độc (chủng TT) tại một trại nuôi vịt ở Phú Xuyên - Hà Sơn
Bình (cũ). Tác giả cho biết khi nuôi cấy trên phôi vịt 12 ngày tuổi, virus gây
chết phôi 100%, thời gian chết phôi từ 48-96 giờ, phôi có bệnh tích xuất
huyết (Trần Minh Châu, Lê thu Hồng, 1985)[5].
Nguyễn Văn Cảm, Nguyễn Thu Hà, Nguyễn Khánh Ly, 2001[4] cho
biết từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2001 khi điều tra 20 ổ dịch tại các địa
phơng Hng Yên, Hà Tây, Hà Nam, Hà Nội, Tuyên Quang đã cho kết luận
đó chính là bệnh viêm gan vịt do virus với tỷ lệ nhiễm trong đàn lên tới

- 25 -

×