Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

XÂY DỰNG CHỈ DẪN ĐỊA LÝ VÀ THƯƠNG HIỆU NÔNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.07 KB, 24 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây khi Việt Nam mở cửa thị trường, gia nhập thị trường
thế giới, khi mà nền sản xuất hàng hoá theo cơ chế tập trung chuyển sang sản xuất theo
cơ chế thị trường, sản xuất của Việt Nam nói chung và sản xuất nông sản nói riêng
tăng trưởng thấy rõ. Việc Việt Nam từ một nước thiếu ăn sang xuất khẩu gạo đứng thứ
hai thế giới là một minh chứng. Bên cạnh đó Việt Nam còn là một trong những nước
dẫn đầu về xuất khẩu cà phê, chè, hồ tiêu…Tuy nhiên với xu hướng tiêu dùng chuộng
sản phẩm có thương hiệu, nhãn mác nổi tiếng như hiện nay thì tăng năng suất, tăng sản
lượng cũng không đem lại cho người sản xuất nguồn lợi lớn, thậm chí như nông sản,
càng được mùa nông sản càng mất giá. Vì vậy để nông sản xuất khẩu và xuất khẩu
được với giá cao yêu cầu cần phải có thương hiệu và phải là thương hiệu mạnh, nổi
tiếng, có uy tín trên thương trường. Đây là nguyên nhân giải thích cho tình trạng hiện
nay ở Việt Nam là dù sản lượng sản xuất nông sản hàng năm đều tăng nhưng nông dân
và cả doanh nghiệp kinh doanh nông sản vẫn chưa có được thu nhập cao và ổn định.
Bên cạnh đó ở Việt Nam có rất nhiều nông sản nổi tiếng, có nhiều cở hội tạo
dựng được danh tiếng lớn trên thị trường, trong đó phải kể đến tiềm năng xây dựng chỉ
dẫn địa lý cho nông sản. Bởi ở Việt Nam hiện nay có hàng trăm mặt hàng nông sản có
thể có được chỉ dẫn địa lý mạnh như: bưởi Ðoan Hùng (Phú Thọ), Phúc Trạch (Hà
Tĩnh), Năm Roi (Vĩnh Long); cam Vinh (Nghệ An); vải thiều Lục Ngạn (Bắc Giang);
nhãn lồng Hưng Yên…là một trong các cách nhanh chóng tạo ra thương hiệu và
thương hiệu nổi tiếng cho nông sản. Đây là một vấn đề rất đáng được quan tâm khi mà
Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO. Tuy nhiên ở Việt Nam thuật ngữ xây dựng thương
hiệu, xây dựng chỉ dẫn địa lý vẫn còn mới mẻ, xa lạ với mọi người, từ nông dân, doanh
nghiệp và cả nhà nước. Bởi vậy em mong muốn nghiên cứu đề tài này đề tài này để
làm rõ hơn khái niệm thương hiệu, xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, nêu nên một
số vấn đề về xây dựng thương hiệu và xây dựng chỉ dẫn địa lý cho nông sản ở Việt
Nam hiện nay. Trình bày một số giải pháp mà Việt Nam đang làm để thúc đẩy quá
trình này. Nhanh chóng tăng sức mạnh của nông sản Việt Nam ở thị trường trong nước
cũng như ở thị trường quốc tế.
1


Website: Email : Tel (: 0918.775.368
I. XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU
1. Khái niệm về thương hiệu.
1.1. Khái niệm.
Thương hiệu là một thuật ngữ quen thuộc của giới kinh doanh quốc tế, nhưng ở
Việt Nam thuật ngữ này mới chỉ được nhắc nhiều trong thời gian gần đây. Bởi vậy mà
ngay cả trong các văn bản hiện hành của nước ta chưa có văn bản nào định nghĩa về
thương hiệu. Trong các nghị định 45/CP, nghị định 54/2000/NĐ-CP, nghị định 63/CP
có quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, cũng chỉ
có các khái niệm về nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ. Trong thực tế cũng có nhiều
cách hiểu khác nhau về thương hiệu, nhưng phần lớn các khái niệm này được dùng để
chỉ nhãn hiệu hàng hoá.
Ngày nay thương hiệu được dùng như tên của người sản xuất, nhãn hiệu thương
mại hay một kí hiệu trên hàng hoá, và thường được đăng kí bảo hộ. Ở đây trình bày
một quan niệm phổ biến hiện nay về thương hiệu:
“Thương hiệu là một cái tên, một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ
hay tổng hợp tất cả các yếu tố trên, nhằm xác định các sản phẩm hay dịch vụ của một
(hay một nhóm) người bán và phân biệt các sản phẩm (dịch vụ) đó với các đối thủ
cạnh trạnh”.
Thương hiệu được dùng nhằm mục đích để người sử dụng có thể dễ dàng phân
biệt sản phẩm hay chất lượng sản phẩm của các hàng hoá khác nhau.
Hiện nay trên báo chí và các phương tiện truyền thông thường sử dụng thuật
ngữ “thương hiệu” và “nhãn hiệu” (hay còn gọi là nhãn hiệu hàng hoá) khi cùng đề cập
các vấn đề liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Trong marketing, thuật ngữ “Thương hiệu” rất quen thuộc. Người ta hay nhắc
đến những thuật ngữ liên quan như “xây dựng thương hiệu”, “quản trị thương hiệu”,
“nhận diện thương hiệu”, “định vị thương hiệu”,…vv. Trong tiếng Anh, có sự khác
nhau giữa 2 thuật ngữ “Trademark” và “Brand” (hay còn gọi là “Brand name”).
Trademark (Nhãn hiệu hàng hoá), là một thuật ngữ chỉ một loại đối tượng của quyền
sở hữu công nghiệp được bảo hộ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, có nghĩa là tất cả

những dấu hiệu dưới dạng hình, chữ miễn là có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ
của các cơ sở khác nhau. Như vậy, khái niệm Trademark có ý nghĩa tương đương như
khái niệm Nhãn hiệu hàng hoá quy định tại điều 785 Bộ luật dân sự đã nêu trên.

2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
“Brand” (Thương hiệu) là sự biểu hiện tổng hợp tất cả các thông tin liên quan
đến một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Một Thương hiệu (Brand) được biểu hiện
đặc thù thông qua một cái tên (cà phê Trung Nguyên), một mẫu logo (hình cánh chim
của Honda), hay các yếu tố khác có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Nhưng đặc thù
hơn cả ở chỗ nó có thể biểu đạt tất cả niềm mong đợi trong trí nhớ người tiêu dùng gắn
liền với một loại sản phẩm hoặc dịch vụ chẳng hạn sự trung thành, sự thích thú của
người tiêu dùng đối với một nhãn hiệu nào đó; hoặc niềm tin của người này đối với
chất lượng của sản phẩm mang nhãn hiệu,…vv. Như vậy, khái niệm Thương hiệu
(Brand) rộng hơn khái niệm Nhãn hiệu hàng hoá (Trademark). Nói cách khác, khái
niệm Thương hiệu (Brand) bao trùm khái niệm Nhãn hiệu hàng hoá (Trademark), có
nghĩa Thương hiệu cũng được coi là một đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, và
nó cũng cần thiết phải được bảo hộ. Tuy nhiên, do yếu tố lịch sử, trong ngữ cảnh pháp
lý, người ta thường sử dụng thuật ngữ Nhãn hiệu hàng hoá (Trademark) hơn là sử
dụng thuật ngữ Thương hiệu (Brand).
Một số ý kiến cho rằng nhận thức về thương hiệu có 2 dạng. Một là nhận thức
thương hiệu do ảnh hưởng của yếu tố tâm lý, và hai là nhận thức thương hiệu do ảnh
hưởng của yếu tố kinh nghiệm. Yếu tố kinh nghiệm bao gồm tổng cộng các điểm tiếp
xúc với Thương hiệu và được gọi là kinh nghiệm thương hiệu (brand experience). Yếu
tố tâm lý đôi khi gọi là hình ảnh thương hiệu (brand image) là một biểu tượng xây
dựng trong đầu người tiêu dùng, bao mọi thông tin và sự mong đợi của họ gắn liền với
một loại sản phẩm hoặc dịch vụ.
Có các loại đối tượng sở hữu công nghiệp sau được gọi là thương hiệu, gồm:
nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, tên thương mại và chỉ
dẫn địa lý.

Vậy thương hiệu có thể là biểu tượng, biểu trưng, âm thanh, kiểu dáng, hay
thậm chí là các quy cách phi chức năng riêng biệt của sản phẩm. Nhưng thông thường
một thương hiệu phải thoả mãn đồng thời các yêu cầu sau: Tính riêng biệt, tính tổng
quát, tính biểu tưọng, tính gợi mở, tính tuỳ ý, tính kì lạ và tính miêu tả.
1.2. Các thành tố của thương hiệu.
- Tên nhãn hiệu: Là sự kết hợp của từ ngữ hoặc chữ cái có khả năng phân biệt sản
phẩm của doanh nghiệp với sản phẩm của doanh nghiệp khác đã được bảo hộ và không
thuộc các dấu hiệu loại trừ. Tên nhãn hiệu là thành tố cơ bản của thương hiệu vì nó
thường là thành tố chính hoặc là liên hệ chính của sản phẩm, thể hiện khả năng phân
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
biệt của người tiêu dùng khi nghe hoặc nhìn thấy nhãn hiệu và cũng là yếu tố cơ bản
gợi nhớ sản phẩm khi mua hàng.
-Logo: có thể là một hình vẽ, một cách trình bày chữ viết,hoặc kết hợp cả hình vẽ và
chữ viết tạo ra bản sắc riêng của thương hiệu. Logo cung tạo ra khả năng phân biệt sản
phẩm.
-Tính cách nhãn hiệu: thể hiện đặc điểm con người gắn với nhãn hiệu. Tính cách nhãn
hiệu thưòng mang đậm ý nghĩa văn hoá và giàu hình tượng nên đây là phương tiện hữu
hiệu trong quá trình xây dựng nhận thức nhãn hiệu.
-Khẩu hiệu.
-Đoạn nhạc.
-Bao bì.
2. Sự cần thiết phải có thưong hiệu cho hàng nông sản Việt Nam.
2.1. Khái quát về hàng nông sản VN.
VN là một nước nông nghiệp có truyền thống, gần 80% người dân làm nông
nghiệp, lâm nghiệp, nên sản phẩm nông sản của VN rất lớn, nhiều chủng loại. Từ sản
phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, sản phẩm của các ngành công nghiệp chế
biến như chè, cà phê, rau, quả….
Trong những năm gần đây nông sản nước ta không ngừng gia tăng năng suất,
tổng lượng nông sản xuất khẩu tăng 15% mỗi năm, có mặt trên 80 quốc gia và vùng

lãnh thổ. Hầu hết các mặt hàng nông sản chủ lực đều tăng mạnh cả về sản lượng và
kim ngạch xuất khẩu.Tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt khoảng 4 tỷ USD. Ngành chế
biến điều lần đầu tiên đạt tới con số 100.000 tấn nhân điều xuất khẩu/năm và kim
ngạch 400 triệu USD/năm, hiện hạt điều Việt Nam chiếm lĩnh 15% thị phần hạt điều
tại Mỹ, tổng sản lượng xuất khẩu g ạo 3,9 triệu tấn m ỗi năm, riêng cà phê của đăc lăc
đã xuất khẩu đi 52 nước trên thế giới, mỗi năm thu về hàng trăm triệu đô la, hồ tiêu
Việt Nam đã được xuất khẩu đến hơn 70 quốc gia ở khắp thế giới, trong đó 72% sản
lượng xuất khẩu vào 10 nước Ấn Độ, Pakistan, Đức, Mỹ, Nga, Hà Lan, Singapore,
Malaysia, Ai Cập và Ba Lan. Việt Nam đã vươn lên vị trí hàng đầu trong xuất khẩu
một số mặt hàng nông sản quan trọng như đứng đầu thế giới về xuất khẩu hồ tiêu với
số lượng xuất khẩu hàng năm là 14 nghìn tấn, đứng thứ 2 về xuất khẩu gạo, cà phê,
chè, hạt điều.
Nhiều loại cây trồng, vật nuôi đặc sản có điều kiện phục hồi, phát triển, đem lại
thu nhập đáng kể cho nông dân. Với riêng mặt hàng trái cây nước ta có hàng chục loại
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trái cây ngon nổi tiếng như bưởi Đoan Hùng, cam sành Hà Giang, xoài cát Hoà Lộc,
sầu riêng bến tre….
Tuy đạt được nhiều thành tựu trong sản xuất nông sản như vậy, nhưng nông sản
Việt Nam vẫn còn một số hạn chế như công tác dự báo còn kém dẫn đến tình trạng sản
xuất theo đuôi thị trường, vì vậy mà dù được mùa, sản phẩm bán ra giá rất thấp, thậm
chí là càng được mùa thì giá càng hạ. Bên cạnh đó chất lượng nông sản của chúng ta
không cao và không ổn định qua các vụ, thất thoát sau thu hoạch rất cao, việc bảo quản
nông sản còn kém, tỷ lệ thất thoát từ 15-20%. Mỗi năm doanh nghiệp Việt Nam mất
khoảng 100 triệu đô la do hư hao sản phẩm. Khi xuất khẩu lại chủ yếu xuất ở dạng thô
hay qua trung gian.
2.2. Vai trò của thương hiệu đối với nông sản.
2.2.1.Thương hiệu tạo ra giá trị gia tăng cho nông sản.
Thực tế đã chứng minh rằng hàng hoá nói chung và nông sản nói riêng, khi bán
ra thị trường, sản phẩm có thương hiệu được bán với giá cao hơn hẳn, có khi cao hơn

đến 40% giá trị của những sản phẩm không có thương hiệu. Ở những nước phát triển,
hay tầng lớp người tiêu dùng có thu nhập cao, họ không chỉ sẵn sàng trả tiền cho giá
trị sản phẩm mà còn sẵn sàng trả tiền cho sự hài lòng của mình khi mua được sản
phẩm có thương hiệu nổi tiếng.
2.2.2. Thương hiệu làm tăng sức cạnh tranh của nông sản trên thị trường.
Thương hiệu được coi như là giấy chứng nhận đảm bảo cho chất lượng của
nông sản, thương hiệu càng mạnh, càng nổi tiếng, thì sự đảm bảo này càng lớn, và
đồng nghĩa với nó là uy tín của doanh nghiệp cao. Nông sản có thương hiệu dễ dàng
tạo được lòng tin của người tiêu dùng về chất lượng, giá cả của sản phẩm mà họ tiêu
dùng, khuyến khích tâm lý tiêu dùng sản phẩm có thương hiệu, đặc biệt ở tầng lớp
người tiêu dùng có thu nhập cao. Vì vậy mà trên thị trường, dù có nhiều sản phẩm
cùng loại, cùng công dụng, nhưng sản phẩm có thương hiệu vẫn dễ dàng được người
tiêu dùng, được thị trường chấp nhận. Từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của nông
sản, đáp ứng được nhu cầu, tâm lý tiêu dùng hàng có chất lượng, có danh tiếng, có
thương hiệu nổi tiếng.
2.2.3.Với doanh nghiệp nông sản:
+Thương hiệu là tài sản vô hình, thậm chí vô giá, góp phần quan trọng tăng thu
lợi nhuận cho doanh nghiệp trong tương lai bằng những giá trị tăng thêm của hàng
hoá.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+Thương hiệu nổi tiếng giúp doanh nghiệp tạo ra và củng cố lòng trung thành
của khách hàng truyền thống, giúp doanh nghiệp duy trì lượng khách hàng truyền
thống, đồng thời thu hút thêm các khách hàng mới, các khách hàng tiềm năng, thậm
chí là cả khách hàng của đối thủ cạnh tranh. Thực tế cho thấy ngưòi tiêu dùng thường
bị lôi kéo, chinh phục bởi những hàng hoá có thương hiệu nổi tiếng, được ưa chuộng
và ổn định.
+Thương hiệu còn giúp doanh nghiệp giảm các khoản chi phí cho hoạt động xúc
tiến thương mại, hoạt động maketing. Thực chất Thương hiệu cũng chính là một công
cụ maketing, xúc tiến thương mại hữu hiệu của doanh nghiệp.

+Giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, có điều kiện phòng thủ và
chống lại các đối thủ khác.
Thương hiệu như là một sự cam kết ngầm của nhà sản xuất với người tiêu dùng
về chất lượng. Thương hiệu càng nổi tiếng, uy tín của doanh nghiệp càng cao. Đồng
nghĩa với chất lượng sản phẩm cao và được bảo đảm.Trong môi trường cạnh tranh
khốc liệt như hiện nay không giữ được chữ tín với khách hàng là doanh nghiệp đã thất
bại, khó có khả năng tồn tại và phát triển trong tương lai. Sản phẩm không có thương
hiệu sẽ không có khả năng phát triển, và sẽ dần bị mai một, lãng quên. Nhất là đối với
sản phẩm nông sản, dù chất lượng sản phẩm là rất quan trọng, nhưng nếu không có
thương hiệu, thương hiệu không nổi tiếng, sản phẩm sẽ khó được người tiêu dùng chấp
nhận. Thực tế 90% nông sản Việt Nam Xuất khẩu phải thông qua trung gian hay dưới
nhãn hiệu của nước khác.Bởi nông sản Việt Nam một mặt là chưa có thương hiệu, một
mặt là chưa có đầu tư xứng đáng cho xây dựng, củng cố thương hiệu, nên những sản
phẩm mang thương hiệu Việt Nam hầu như chưa được khách hàng ở những thị truờng
trọng điểm quốc tế công nhận Điều này đã gây cho Việt Nam và đặc biệt là nông dân,
doanh nghệp nông sản những thiệt hại lớn. Xuất khẩu một lưọng lớn nông sản hàng
năm, nhưng lợi nhuận thu về lại không đáng bao nhiêu.
3. Những yếu tố ảnh hưởng tới thương hiệu hàng nông sản.
3.1 Nhận thức của doanh nghiệp về thương hiệu và xây dựng thương hiệu.
Ở các nước phát triển, thương hiệu là một khái niệm quen thuộc đối với mọi
doanh nghiệp, với mọi người, từ giám đốc đến người công nhân, từ người sản xuất đến
người tiêu dùng. Nhưng ở Việt Nam thì hầu hết các doanh nghiệp vẫn chưa hiểu hết về
thương hiệu, chưa nhận thức được thương hiệu với những vai trò và tác dụng to lớn
của nó trong kinh doanh. Đi đôi với sự thiếu hiểu biết về thương hiệu là doanh nghiệp
chưa định vị được thị trường, khách hàng mục tiêu và thiếu niềm tin vào giá trị gia
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tăng do thương hiệu tạo ra. Điều này đã cản trở việc đầu tư cho xây dựng thương hiệu.
Đa số các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng nông sản hiện nay ở Việt Nam vẫn chỉ
quan tâm đến sản xuất và tìm cách tiêu thụ một cách thụ động. Hầu hết các doanh

nghiệp không quan tâm, tìm hiểu thị hiếu điều tra nghiên cứu thị trường, xây dựng một
chiến lược kinh doanh, quảng bá thương hiệu một cách bài bản nhằm tìm một chỗ
đứng cho thương hiệu của mình. Hay nói chính xác là các doanh nghiệp vẫn chưa có
những đầu tư tương xứng cho việc xây dựng thương hiệu.
Các doanh nghiệp lấy lý do thiếu vốn, thiếu nhân lực, hay cở sở pháp lý cho việc
xây dựng, quản lý thương hiệu ở Việt Nam là chưa đủ, còn rườm rà, …v.v. Xong
nguyên nhân lớn nhất vẫn là do các doanh nghiệp vẫn chưa nhận thấy hết những lợi
ích do thương hiệu mang lại, không nhận thấy những nguồn lợi to lớn mà thương hiệu
sẽ đem lại cho doanh nghiệp trong tuơng lai. Bởi theo các chuyên gia của công ty luật
sở hữu trí tuệ Lê Lê (Hà Nội) khẳng định chi phí xây dựng thương hiệu cho sản phẩm
nông sản trung bình chỉ ở mức phí trên dưới 2 triệu đồng. Hay như nhãn hiệu coffee
G7 của công ty cà phê Trung Nguyên đăng kí bảo hộ tại 24 nước, mức phí phải bỏ ra
cũng chỉ là 4.500 USD.
Từ việc doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về thương hiệu dẫn đến thiếu
chiến lược, thiếu sự đầu tư chuyên sâu, cũng như thiếu tính chuyên nghiệp, trong công
tác maketing nói chung và xây dựng thương hiệu nói riêng.
3.2 Chính sách, vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng thương hiệu cho nông sản.
Kinh doanh hàng nông sản, ngoài các doanh nghiệp còn nhiều cơ sở của người
nông dân đứng lên kinh doanh trên thị trường địa phương, thị trường trong nước. Nên
hạn chế trong nhận thức về thương hiệu càng lớn. Hơn nũa với một nước nông nghiệp
nghèo như nước ta thì vai trò của nhà nước là rất quan trọng. Tuy không thể làm thay
doanh nghiệp, nhưng những chính sách của nhà nước ảnh hưởng lớn tới việc xây dựng
thương hiệu cho nông sản. Những chính sách đúng đắn sẽ khuyến khích, hỗ trợ các
doanh nghiệp. Ngược lại những quy định không rõ ràng, rườm rà, mang nặng tính
hành chính sẽ cản trở quá trình xây dựng, đăng kí thương hiệu, từ đó làm nản chí các
doanh nghiệp.
Nhà nước có vai trò to lớn trong việc làm thay đổi nhận thức của doanh nghiệp
về thương hiệu, giúp doanh nghiệp ý thức được việc cạnh tranh bằng chất lượng sản
phẩm, giá cả là chưa đủ, cần phải có chiến lược hoàn chỉnh để xây dựng và tìm chỗ
đứng cho thương hiệu của mình. Để xây dựng thành công một thương hiệu cần phải có

sự phối kết hợp của nông dân, doanh nghiệp, nhà nước, nhà khoa học… Tuy nhiên
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nhà nước cần phải giữ vai trò chủ đạo để thống nhất hành động của mọi người, hướng
hành động của mọi người theo đúng những chính sách, kế hoạch chiến lược của Nhà
nước.
4 Quá trình xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam bắt đầu từ đâu?
Xây dựng thương hiệu là cả một quá trình đầu tư lâu dài và khó khăn, nhất là đối
với nước ta, vì sự hiểu biết về thương hiệu còn quá hạn chế. Không thể ngay một lúc
có thể thay đổi nhận thức của mọi người, đặc biệt là các doanh nghiệp, người nông dân
về thương hiệu. Và không phải chỉ một sớm, một chiều là có thể có được thương hiệu
mạnh, thương hiệu nổi tiếng. Để có một thương hiệu nổi tiếng sản phẩm cần phải được
kiểm chứng qua thực tế tiêu dùng, được chính người tiêu dùng công nhận. Bởi vậy xây
dựng thương hiệu cần phải có kế hoạch, chiến lược lâu dài, một sự nỗ lực hết sức của
mọi người, từ nông dân, doanh nghiệp và Nhà nước.
Trước hết cần phải thay đổi suy nghĩ của người nông dân - những người trực
tiếp sản xuất nông nghiệp. Giúp họ hiểu việc cần thiết phải có một thương hiệu khi
xuất khẩu hàng hoá ra thị trường, nhất là ra thị trường quốc tế. Khẳng định điều này
liên quan trực tiếp đến lợi ích của họ bằng việc nâng cao giá thành sản phẩm và mở
rộng thị trường. Người nông dân có thể hưởng lợi từ thương hiệu, không chỉ khi trực
tiếp kinh doanh sản phẩm có thương hiệu mà cả khi cung cấp sản phẩm cho các doanh
nghiệp đã có thương hiệu hay đang xây dựng thương hiệu. Việc sản xuất các sản phẩm
đã có thương hiệu đòi hỏi sự điều phối chặt chẽ, nỗ lực cố gắng của cả nước trực tiếp
sản xuất cũng như các công đoạn khác trong toàn bộ quy trình sản xuất để đảm bảo
chất lượng sản phẩm, giữ vững thương hiệu và đem lại lợi ích nhiều hơn cho tất cả các
bên tham gia. Mặt khác, hộ nông dân cũng rất có thể bị loại ra quá trình hưởng lợi, nếu
như họ thiếu các kỹ năng cần thiết, thiếu nguồn lực nhất định và khả năng tiếp cận thị
trường, vì nó không đảm bảo được chất lượng cho sản phẩm, cơ sở quan trọng nhất để
duy trì và phát triển thương hiệu. Vậy thương hiệu là gì? Làm thế nào để duy trì, phát
triển thương hiệu và người nông dân có thể tham gia và được hưởng lợi từ chuỗi giá trị

của nông sản có thương hiệu đem lại.
Thứ hai, những doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh, mua, bán nông sản cũng phải
nhận thức được tầm quan trọng của thương hiệu trong thương mại hiên nay. Chính họ
chứ không phải là những người nông dân sẽ xây dựng thương hiệu mạnh cho nông sản
Việt Nam.
Thứ ba, cần có sự phối hợp giữa bộ ba: Các doanh nghiệp - nông dân - Nhà
nước để mở rộng quy mô sản xuất nhằm nâng cao chất lượng nông sản. Chất lượng
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nông sản chính là yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại, vững mạnh của thương hiệu.
Ví dụ như gạo, chúng ta đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo nhưng việc xây dựng
thương hiệu cho gạo lại không hề đơn giản. Đến nay hầu như các doanh nghiệp xuất
khẩu gạo đều chưa có thương hiệu. Một số doanh nghiệp cho biết, khách hàng đồng ý
về bao gói, quy cách của gạo Việt Nam, nhưng về chất lượng gạo Việt Nam còn thua
Thái Lan. Gạo thơm là loại gạo được ưa thích, nhưng do chất lương không đồng đều,
dễ bị lẫn tạp chất, giữ mùi thơm không lâu nên chưa xuất khẩu được với số lượng lớn.
Do vậy, xây dựng thưong hiệu phải đi liền với việc nâng cao chất lượng sản phẩm
nông sản, đây là hai yếu tố không thể tách rời.
Thứ tư, cần tăng cường quảng cáo sản phẩm. Việc quảng bá sản phẩm sẽ dựa
trên những thương hiệu, những hình ảnh, những nông sản mang tinh thần văn hoá dân
tộc.
Ngoài ra chúng ta cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, điều chỉnh để phù hợp với
hệ thống pháp luật quốc tế giúp các doanh nghiệp thích ứng với thị trường lớn.
II. XÂY DỰNG CHỈ DẪN ĐỊA LÝ CHO NÔNG SẢN VIỆT NAM
Xây dựng chỉ dẫn địa lý là một trong các hình thức nhằm tạo ra thương hiệu cho
nông sản. Ở Việt Nam có nhiều chỉ dẫn địa lý tiềm năng, đây là một sự thuận lợi dể
thúc đẩy quá trình xây dựng thương hiệu nông sản. Bởi đây là một cách tạo thương
hiệu cho sản phẩm nông sản dễ, đơn giản, chí phí không cao, đăng kí bảo hộ chỉ dẫn
địa lý đơn giản, nhưng lại có hiệu lực pháp lý cao hơn việc đăng kí nhãn hiệu hàng
hoá, tên gọi xuât xứ… phù hợp với một nước còn nghèo như nước ta.

Vậy chỉ dân địa lý là gì ? Việc xây dựng chỉ dân địa lý cho nông sản ở Việt Nam hiện
nay đang diễn ra như thế nào ? chúng ta cùng xem xét một số vấn đề sau để rõ hơn về
vấn đề này.
1. Khái niệm chỉ dẫn địa lý ( Geographical Indication - IG ).
1.1. Khái niệm
Chỉ dẫn địa lý (CDĐL) là một yếu tố mà một sản phẩm, hàng hoá được mang
một cách tự nhiên, nói lên sự gắn kết của sản phẩm với tên một miền lãnh thổ, thường
là gắn với truyền thống, tập tục của địa phương, từ tay nghề truyền thống của người
dân địa phương, tạo nên sự khác biệt hay nổi tiếng của sản phẩm.
Theo định nghĩa của tổ chức thương mại thế giới (WTO): “ Chỉ dẫn địa lý là một chỉ
dẫn, được dùng để xác định một hàng hoá có nguồn gốc từ lãnh thổ của một quốc gia
9

×