Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

ôn tâp phần văn học trung đại - NV9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.19 KB, 19 trang )

ngữ văn9 –văn học trung đai. 1
ƠN TẬP NGỮ VĂN 9:
(PHẦN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI)
Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ
Câu 1: Giới thiệu sơ lược về Nguyễn Dữ và tác phẩm Truyền kì mạn lục.
TL: -Về tác giả:
+Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI,giai đoạn chế độ phong kiến đang từ đỉnh cao của sự phát triển cuối thế kỉ XV,bắt
đầu rơi vào tình trạng loạn ly suy yếu.
+Nguyễn Dữ là một dật só tiêu biểu,chỉ làm quan một năm rồi cáo quan về ở ẩn giữ cách sống thanh cao đến trọn
đời. Dùvậy,qua tác phẩm,ông vẫn tỏ ra quan tâm đến xã hội và con người.
-Về tác phẩm:
+Truyền kỳ mạn lục gồm hai mươi truyện viết bằng chữ HÁN,theo lối văn biền ngẫu có xen lẫn một số bài thơ.
+Nhân vật chính trong các truyện là phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp,khao khát hạnh phúc lứa đôi nhưng gặp nhiều bất
hạnh,những trí thức phong kiến sốùng ngoài vòng cương toả của lễ giáo.
+Kết thúc mỗi tác phẩm có lời bình,bàn luận về ý nghóa câu chuyện (hiện nay chưa xác đònh được lời bình của tác
giả hay của người đời sau thêm vào).
+Truyền kì mạn lục được Vũ Khâm Lân đời hậu Lê khen là”Thiên cổ kì bút”,”Chuyện người con gái Nam xương”
là một trong hai mươi truyện trên.
Câu 2:Trình bày những hiểu biêt của em về giá trò nghệ thuật của những đoạn đôái thoại và những lời tự bạch
trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ?
TL:Giá trò nghệ thuật của hững đoạn đối thoại và những lời tự bạch trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của
Nguyễn Dữ.
Chuyện có nhiều lời thoại và tự bạch của nhân vật,được sắp xếp rất đúng chỗ làm cho câu chuyện trở nên sinh động
hơn,góp phần không nhỏ vào việc khắc hoạ quá trình tâm lí và tính cách nhân vật (lời của bà mẹ Trương Sinh là của
một người nhân hậu và từng trải; lời của Vũ Nương bao giờ cũng chân thật,dòu dàng,mềm mỏng có tình, có lý,ngay
cả trong lúc tức giận nhất,là lời của một người phụ nữ hiền thục,nếùt na,trong trắng,không có gì khuất tất;lời của bé
Đản hồn nhiên thật thà)
Câu 3:Tóm tắt “Chuyện người con gái Nam Xương”.
TL:Xưa có chàng Trương vừa cưới vợ xong đã đầu quân đi lính để lại người mẹ già và người vợ trẻ là Vũ Thò Thiết,
còn gọi là Vũ Nương,bụng mang dạ chửa. Mẹ Tương Sinh ốm chết Vũ Nương lo ma chay chu tất.Giặc tan,Trương Sinh
trở về nhà,nghe lời con trai bèn nghi vợ mình không chung thuỷ.Vũ Nương bò oan,thanh minh không được,bèn gieo


mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.Sau khi vợ trầm mình tự sát,một đêm Trương Sinh cùng con trai ngồi bên
đèn,đứa con chỉ chiếc bóng trên tường và nói đó chính là người hay tới với me ïđêm đêm.Lúc đó Trương Sinh mới
hiểu vợ mình bò oan.
Phan Lang là người cùng làng với Vũ Nương,do cứu thần rùa Linh Phi,vợ vua Nam Hải,nên khi chạy nạn,chết đuối
ở biển được Linh Phi cứu sống để trả ơn.Phan Lang gặp Vũ Nương trong động của Linh Phi. Hai người nhận ra nhau.
Phan Lang trở về trần gian,Vũ Nương gởi chiếùc hoa vàng cùng lời nhắn với Trương Sinh.Trương Sinh nghe Phan Lang
kể,thương nhớ vợ vô cùng bèn lập đàn giải oan trên bờ Hoàng Giang.Vũ Nương trở về”Ngồi trên kiệu hoa,đứng giữa
dòng…lúc ẩn,lúc hiện”.
Câu 4:Phân tích tấn bi kòch và vẻ đẹp người phụ nữ qua văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương”
* Tích hợp (tiếng Việt)

1.Có mấy cách dẫn lời nói hay ý nghó của một người,một nhân vật?(2:dẫn trực tiếp,dẫn gián tiếp)
2.Thế nào là dẫn trực tiếp?(Nhắc lại nguyên văn lời nói hay ý nghó của người hoặc nhân vật và đặt lời nói hay ý nghó
đó vào trong dấu ngoặc kép)
3.Thế nào là cách dẫn gián tiếp?(Thuật lại lời nói hay ý nghó của người hoặc nhân vật và thay đổi các dấu câu).
4.Lời trao đổi của nhân vật trong tác phẩm văn học (nhất là văn xuôi) thường được dẫn bằng cách nào?(trực tiếp).
5.Dấu hiệu để nhận ra lời nói của nhân vật được dẫn ra trong tác phẩm văn xuôi?(Thường được viết tách ra như kiểu
viết đoạn văn; có thêm dấu gạch ngang ở đầu lời nói.)
*Phân tích tấn bi kịch và vẻ đẹp người phụ nữ qua văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
Gợi ý bài làm:
Gợi ý Bài làm
ngữ văn9 –văn học trung đai. 2
I Mở bài:

-Giới thiệu “Chuyện người con
gái Nam Xương” –Nguyễn Dữ.
-Nội dung của truyện
-Nêu vấn đề
II- Thân bài:


1-Phân tích những nét phẩm
chất tốt đẹp của Vũ nương:
+Vũ Nương vừa có nhan sắc
vừa có đức hạnh
+Trong đạo vợ chồng, Vũ
Nương là người vợ hết mực
thương chồng và thủy chung.
+Vũ Nương là người phụ nữ
đảm đang, hiếu thảo
2-Phân tích bi kịch (nỗi oan của
Vũ Nương):
-Nỗi oan
-Ý nghĩa cái chết của Vũ
Nương (giá trị hiện thực, giá
trị tố cáo)
I-
“Chuyện người con gái Nam Xương” rút trong tác phẩm “Truyền kì mạn lục”, áng
văn xuôi viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ trong thế kỉ 16, một kiệt tác văn chương
cổ.Truyện kể lại một câu chuyện truyền kì có nhiều yếu tố hoang đường lưu truyền
trong dân gian về bi kịch gia đình.Qua nhân vật Vũ Nương( Vũ Thị Thiết), tác giả
đã ca ngợi vẻ đẹp của đức hạnh, của lòng vị tha và thể hiện số phận bi kịch của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
II-
-Số phận của Vũ Nương là một bi kịch thương tâm, Nguyễn Dữ đã dành sự đồng
cảm sâu sắc và lòng cảm phục đối với nàng.
+Vũ Nương vừa có nhan sắc vừa có đức hạnh: “tính tình thùy mị nết na, lại thêm
có tư dung tốt đẹp”.Nhờ vậy nên Trương Sinh, con nhà hào phú “mến vì dung hạnh”
đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về.
+Trong đạo vợ chồng, Vũ Nương là người vợ hết mực thương chồng và thủy
chung. Biết chồng có tính “đa nghi” nàng đã“ giữ gìn khuôn phép” không để xảy ra

cảnh vợ chồng phải “thất hòa”. Sống giữa thời loạn lạc, Trương Sinh phải tòng quân
đi chinh chiến ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã rót chén rượu
đầy chúc chồng “được hai chữ bình yên”; nàng chẳng mong được đeo ấn phong hầu
mặc áo gấm trở về quê cũ Ước mong của nàng thật bình dị, vì nàng coi trọng hạnh
phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. Những năm tháng xa cách, Vũ
Nương thương nhớ chồng khôn kể xiết : “ mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây
che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Tâm trạng nhớ
thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh
phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời không thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
(Ching phụ ngâm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương,
vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
+Vũ Nương là người phụ nữ đảm đang, hiếu thảo. Chồng ra trận mới được một
tuần thì nàng sinh ra một đứa con trai đặt tên là Đản. Mẹ chồng già yếu, ốm đau,
nàng “hết sức thuốc thang”, “ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Vừa phụng dưỡng
mẹ già, vừa chăm sóc nuôi dạy con thơ . Lúc mẹ chồng qua đời, nàng đã “hết lời
thương xót”, việc ma chay tế lễ được lo liệu, tổ chức rất chu đáo “như đối với cha
mẹ đẻ mình”. Qua đó, ta thấy trong Vũ Nương cùng xuất hiện ba con người tốt đẹp:
nàng dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang chung thủy, người mẹ hiền đôn hậu.
Đó là hình ảnh người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.
-Cũng như bao nhiêu người phụ nữ ngày xưa, cuộc đời của Vũ Nương là những
trang buồn đầy nước mắt.Sau ba năm đợi chờ, Trương Sinh đã bình yên trở về. Đây
cũng là lúc đất bằng nổi sóng, bi kịch lại đến với nàng. Trương Sinh trở về, con thơ
vừa học nói. Tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ. Nhưng rồi
chuyện “cái bóng” từ miệng đứa con thơ đã làm cho Trương Sinh ngờ vực, “đinh
ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu,không có gì gỡ ra được”. Vốn tính hay
ghen lại gia trưởng , vũ phu, ít học hành. Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn

nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi. Vợ
phân trần, không tin; hàng xóm khuyên can cũng chẳng ăn thua gì cả! Chính chồng
và con – những người thân yêu nhất của Vũ Nương đã xô đấy nàng đến bên bờ vực
thẳm. Thời chiến tranh loạn lạc, nàng đã trải qua những năm tháng cô đơn, giờ đây
đứng trước nỗi oan, nàng chỉ biết nuốt nước mắt vào lòng Vũ Nương chỉ có một
con đường để bảo toàn danh tiết : nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử. Lời nguyền
của nàng với trời và thần sông đã làm cho người đời xót xa đối với người con gái
“bạc mệnh duyên phận hẩm hiu”. Vũ Nương không phải làm “làm mồi cho cá
tôm”, “làm cơm cho diều quạ”, không bị người đời phỉ nhổ mà nang đã được các
nàng tiên trong cung nước thương tình vì nàng vô tội, rẽ một đường nước cho nàng
thoát chết. Và cũng chẳng bao lâu sau đó, Trương Sinh biết vợ mình chết oan chỉ vì
ngữ văn9 –văn học trung đai. 3
III- Kết luận :
-Giá trị của truyện
-Cảm nghĩ về người phụ nữ
trong xã hội cũ.
chuyện “chiếc bóng”. Nàng tuy được hầu hạ Linh Phi, nhưng hạnh phúc của nàng ở
trần thế bị tan vỡ “trâm gãy bình rơi”,quyền làm mẹ , làm vợ của nàng vĩnh viễn
khơng còn nữa. Đó là nỗi đau đớn nhất của ngườ phụ nữ.
Nguyễn Dữ đã ghi lại câu chuỵện cảm động thươg tâm này với tất cả tấm lòng nhân
đạo. Cái chết đau thương của Vũ Nương có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Nó lên
án chiến tranh phong kiến đã làm cho đơi lứa phải li biệt, người vợ trẻ sống vất vả
cơ đơn; lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đốn, gây nên bi
kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó mà “Chuyện người con gái Nam
Xương” có giá trị nhân bản sâu sắc.
III- “Tryền kì mạn lục” là kiệt tác của nền văn học cổ Việt Nam, xứng đáng là “thiên
cổ kì bút”. Người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những người
phụ nữ tài hoa bạc mênh. “Chuyện người con gái Nam Xương” tố cáo hiện thực xã
hội phong kiến Việt Nam thế kỉ 16, nêu bật thân phận và hạnh phúc người phụ nữ
trong bi kịch gia đình. Gần 500 năm sau, “Chuyện người con gái Nam Xương” mà

nỗi xót thương đối với số phận bi thảm của người vợ, người mẹ như vẫn còn mãi
trong ta.
-CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH
(Trích Vũ trung tùy bút)
Câu hỏi:
Theo em, thể văn tùy bút trong bài “Chuyện cũ trong phủ chúa Trònh” có gì khác so với thể truyện trong “Chuyện
người con gái Nam Xương”?
Trả lời:

-Truyện thì có cốt truyện và một hệ thống nhân vật. Cốt truyện được triển khai bằng các chi tiết nghệ thuật
phong phú, đa dạng có tính xung đột, nhânvật được miêu tả từ ngoại hình đến nội tâm thể hiện tính cách nhân vật. Với
truyện trung đại còn có các chi tết tưởng tượng, hoang đường.
-Tùy bút nhằm ghi chép về những con người, những sự việc cụ thể, có thực qua đó tác giả bộc lộ những cảm
xúc, suy nghó , nhận thức, đánh giá của mình về con người, về cuộc sống,…Sự ghi chép ở đây tùy theo cảm hứng chủ
quan, có thể tản mạn, không cần gò bó theo hệ thống, tuy nhiên kết cấu vẫn tuân theo một tư tưởng chu ûđạo ( ở bài
này là thái độ phê phán đối với thói ăn chơi xa xỉ và tệ nhũng nhiễu dân của bọn vua chúa và quan lại hầu cận). Tùy
bút cổ ở bài này có chất trữ tình kín đáo (đoạn dự báo về tình hình xã hội, đoạn than thở về hoàn cảnh của bản thân).
-HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ – Trích Hồi thứ mười bốn
Câu hỏi:

Cảm nhận về hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ qua chiến công thàn tốc đại phá quân Thanh trong hồi 14 của
“Hoàng Lê nhất thống chí” ?
Trả lời:

+Đoạn trích hồi 14 trong “Hoàng Lê nhất thống chí” không chỉ ghi chép lại sự kiện lòch sử diễn biến gấp gáp qua từng
mốc thời gian mà còn chú ý miêu tả hành động, lời nói của nhân vật, sự đối lập giữa hai đạo quân, đặc biệt là hình
ảnh người anh hùng Quang Trung có tính cách quả cảm, mạnh mẽ có trí tuệ sáng suốt nhạy bén, có tài dụng binh như
thần, người tổ chức và linh hồn của chiến công vó đại.
+Khi nghe quân Thanh chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ đònh xuất quân ngay, nhưng lại dừng lại để lên ngôi hoàng
đế .Nguyễn Huệ đã biết nghe tướng só dù đang cơn giận. Ý kiến về việc lên ngôi, ân xá để lấy lòng người đã thuyết

phục Nguyễn Huệ vì đó là ý kiến sáng suốt. Nguyễn Huệ Đã thể hiện tính chất dân chủ của một vò tướng.
+Nguyễn Huệ là người hành động là người có hành động quyết đoán : nghe giặc chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương
giận lắm, đònh thân chinh cầm quân đi ngay. Trong vòng một tháng Bắc Bình Vương đã làm được bao nhiêu việc lớn:
tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, đốc suất đại binh ra Bắc, gặp gỡ người cống só ở huyện La Sơn, tuyển mộ quân lính
và mở duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng só, đònh kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà
Thanh sau chiến thắng.
ngữ văn9 –văn học trung đai. 4
+Nguyễn Huệ có trí sáng suốt, sâu xa, nhạy bén: Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc; đưa ra lời phủ dụ
quân lính được xem như là bài hòch ngắn, gọn có tác động kích thích lòng yêu nước; xét đoán và dùng người tài trí qua
việc xử trí các tướng só ở Tam Điệp; hiểu sở trường, sở đoản của tướng só, khen chê đúng người, đúng việc.
+Trong chiến đấu , Nguyễn Huệ đã thể hiện ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa rộng( tầm nhìn chiến lược): Mới khởi
binh, đã dám chắc phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, tính cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng đối với một
nước lớn gấp mười nước mình.
+Xuất quân thần tốc :Ngày 25/12 ( tháng chạp) xuất quân từ Phú Xuân, ngày 29/12 (tháng chạp) đến Nghệ An vượt
350 km núi đèo, ngày 30/12 (tháng chạp) tuyển quân, duyệt binh ở Nghệ An và ra Tam Điệp (150km), đêm
30/12(tháng chạp) tiến ra Thăng Long đến ngày 5/1 (tháng giêng) ăn tết ở Thăng Long vượt dự tính 2 ngày . Hành
quân xa bằng chân (đi bộ), bằng cáng, võng liên tục như vậy nhưng quân lính vẫn chỉnh tề.
+Hình Quang Trung trong chiến trận thật lẫm liệt: Quang Trung thân chinh cầm quân thể hiện một tổng chỉ huy thật
sự qua việc họach đònh phương lược tiến đánh, tự mình thống lónh một mũi quân, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha tên
đạn, lãnh đạo đánh các trận thật đẹp,thắng áp đảo quân thù, tạo thế bất ngờ trong chiến đấu, công phá đồn Ngọc Hồi
một cách sáng tạo. Hình ảnh của vua nổi bật trong trận Ngọc Hồi: khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, nhà
vua cưỡi voi đi đốc thúc. Hình ảnh Quang Trung ngổi trên bành voi, chiến bào đỏ đã sạm đen vì khói súng, dẫn đầu
đoàn tượng binh vào Thăng Long quả thật lẫm liệt oai hùng hiếm có trong lòch sử.
+Hồi mười bốn là bức tranh sinh động về người anh hùng Nguyễn Huệ, vò vua văn võ song toàn chỉ huy tài tình cuộc
hành binh thần tốc tiêu diệt bọn xâm lược Mãn Thanh, làm thất bại âm mưu xâm lược của chúng.

TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU
Đê: Hãy viết một bài văn thuyết minh ngắn giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Du và giá trị tác phẩm “truyện Kiều”.
Gợi ý bài làm: Nội dung cụ thể
I- Mở bài:


-Giới thiệu khái qt về Nguyễn Du
(thiên tài văn học-“thi sĩ của các thi
sĩ”
-Giới thiệu truyện Kiều (tác phẩm
lớn của Nguyễn Du, đỉnh cao của
nghệ thuật thi ca tiếng Việt).
II-Thân bài :

a/ Thuyết minh về cuộc đời và sự
nghiệp văn học của Nguyễn Du:
-Thân thế: sinh mất, bút hiệu, q
qn, gia đình
-Thời đại: đầy biến động
-Về cảnh đời :+Năng khiếu văn học
bâm sinh
+Trải qua mười năm
gió bụi => có vốn sống phong phú.
-Sự nghiệp văn chương : thơ chữ
Hán, chữ Nơm.
I- Nguyễn Du được coi là một thiên tài văn học, một tác gia văn học tài hoa
và lỗi lạc nhất của văn học Việt Nam “thi sĩ của các nhà thi sĩ”. Truyện Kiều
(Đoạn trường tân thanh) là tác phẩm lớn nhất của ơng, là đỉnh cao chói lọi
nhất của nghệ thuật thơ ca tiếng Việt.
II-
a/ Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Nguyễn Du:
-Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ là Tố Như,hiệu là Thanh Hiên;q ở làng
Tiên Điền , huyện Nghi Xn, tỉnh Hà Tĩnh; sinh trong một gia đình đại q
tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống văn học.
Q hương ơng vẫn lưu truyền câu ca:

Bao giờ ngàn Hống hết cây
Sơng Lam hết nước , họ này hết quan.
Cuộc đời của Nguyễn Du gắn bó với những biến cố lịch sử của giai đoạn
cuối thế kỷ XVIII đầu hế kỷ XIX . Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động với
hai đặc điểm nổi bật : chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng ,
bão táp phong trào nơng dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là cuộc
khởi nghĩa Tây Sơn.
Trong hồn cảnh ấy, Nguyễn Du sống phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc
(1786-1796). “Ơng trải qua mười năm gió bụi”, có lúc ốm đau khơng có
thuốc, mái tóc sớm bạc. Năm 1802, Gia Long triệu Nguyễn Du ra làm quan.
Ơng được làm chánh sứ sang Trung Quốc (1913-1914). Năm 1820, ơng được
cử làm chánh sứ lần thứ hai, nhưng chưa kịp đi ,ơng đã mất.
Năng khiếu văn học bẩm sinh, vốn sống vơ cùng phong phú, kết hợp với
trái tim u thương vĩ đại đã tạo nên thiên tài Nguyễn Du
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du vơ cùng rạng rỡ, để lại nhiều thơ
ngữ văn9 –văn học trung đai. 5
b/ Thuyết minh về giá trị của truyện
Kiều:
-Nguồn gốc.
-Giá trị :
+Nội dung: hiện thực, nhân đạo.
+Nghệ thuật?
III- Kết bài :

Phát biểu chung về tác giả, tác
phẩm.
chữ Hán và chữ Nơm:
Về chữ Hán có 3 tập thơ : Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục, Thanh
Hiên thi tập.
Về chữ Nơm có Truyện Kiều, Văn chiêu hồn

b/ Truyện Kiều:
Nguyễn Du đã lấy cốt truyện từ “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm
Tài Nhân (Trung Quốc) mà sáng tạo ra truyện Kiều bằng thơ lục bát dài 3254
câu, đậm đà màu sắc dân tộc.
Giá trị nội dung và nghệ thuật:
Về nội dung: Truyện Kiều có hai giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá
trị nhân đạo:
Giá trị hiện thực : Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất
cơng , tàn bạo.
Giá trị nhân đạo: Truyện Kiều là tiếng nói thương cảm trước số phận bi
kịch của con người, tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, tiếng nói
khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của
con người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do, cơng lý, khát vọng
tình u, hạnh phúc.
Về nghệ thuật :
Truyện Kiều là kết tinh hành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương
diện ngơn ngữ, thể loại. Với truyện Kiều, ngơn ngữ văn học dân tộc và thể thơ
lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ. Với tryuện Kiều , nghệ thuật tự sự đã có
bước phát triển vượt bậc từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tả
thiên nhiên, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lý nhân vật.
III-
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, niềm tự hào của nhân dân ta, đất nước ta:
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
(Kính gửi cụ Nguyễn Du - Tố Hữu)
Truyện Kiều là tập đại thành của ngơn ngữ văn học dân tộc.
Đoạn: CHỊ EM THÚY KIỀU (Trích truyện Kiều)
1. Qua đoạn trích “Chò em Thúy Kiều” em có nhận xét gì về nghệ thuật tả người của Nguyễn Du ?
-Đoạn thơ miêu tả nhân vật theo bút pháp nghệ thuật ước lệ quen thuộc trong văn học cổ. Nghóa là sử dụng
những qui ước trong biểu hiện nghệ thuật như dùng hình tượng thiên nhiên đẹp: trăng , hoa , ngọc, tuyết,….để nói về

vẻ đẹp con người. Để gợi lên vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao, trong trắng của người thiếu nữ :
Mai cốt cách , tuyết tinh thần
Vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của Thúy Vân được so sánh với hình tượng thiên nhiên, với những thứ cao đẹp trên
đời: trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc:
Vân xem trang trọng khác vời
Khn trăng dầy dặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả vẫn dùng những hình tượng ước lệ:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm , liễu hờn kém xanh
Hình ảnh ước lệ “làn thu thủy” – làn nước mùa thu gợn sóng gợi lên thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng,
long lanh, linh hoạt,…Còn hình ảnh ước lệ “nét xuân sơn” – nét núi mùa xuân lại gợi lên đôi mày thanh tú trên giương
mặt trẻ trung.
Cái tài của Nguyễn Du là tuy sử dụng bút pháp ước lệ nhưng chân dung hai chò em Thúy Vân, Thúy Kiều hiện lên
thật sinh động, đa dạng , “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.
Khi miêu tả chân dung nhân vật là chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp của Thúy Vân tạo sự hòa hợp,
êm đềm với xung quanh, “mây thua”, “tuyết nhường” nên nàng sẽ có cuộc đời bình lặng, suôn sẻ . Còn vẻ đẹp của
ngữ văn9 –văn học trung đai. 6
Thúy Kiều làm cho tạo hóa phải ghen ghét, các vẻ đẹp khác phải đố kò – “hoa ghen”, “liễu hờn” – nên số phận nang
phải éo le đau khổ.
-Sự tinh tế của tác giả là khi miêu tả nhân vật Thúy Kiều, tác giả miêu tả chân dung Thúy Vân trước để làm
nền nổi bật lên chân dung Thúy Kiều. Có thể coi đây là thủ pháp nghệ thuậït đòn bẩy. Nguyễn Du chỉ dành bốn câu
để gợi tả Vân, trong khi đó dành tới mười hai câu thơ để cực tả vẻ đẹp của Kiều. Vẻ đẹp của Vân chủ yếu là ngoại
hình, còn vẻ đẹp của Kiều là nhan sắc , tài năng , tâm hồn.
Thúy Vân, Thúy Kiều là những nhân vật chính diện nên khi miêu tả tác giả chủ yếu tác giả dùng bút pháp ước lệ. Vì
vẻ đẹp của hai chò em Kiều là vẻ đẹp lí tưởng nên Nguyễn Du đã dùng những khuôn mẫu, ước lệ để diễn tả vẻ đẹp
vượt ra ngoài, vượt lên trên khuôn mẫu của tuyệt sắc giai nhân.
2-Em có nhận xét gì về cách sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du trong việc miêu tả ngoại hình hai chò em Thuý Kiều
,cách miêu tả ấùy đã dự báo số phận của hai nhân vật như thế nào?

-“Chò em Thuý Kiều” là đoạn thơ miêu tả nhân vật vô cùng đặc sắc trong thơ trung đại, một trong những nét đặc sắc
ấùy là việc sử dụng từ ngữ.
+Miêu tả ngoại hình hai chò em Thuý Kiều , Nguyễn bút pháp ước lệ – truyền thống của văn học cổ điển, dùng hình
tượng thiên nhiên đẹp : trăng, hoa, ngọc, tuyết, để nói về vẻ đẹp con người.
+Cách sử dụng ngôn ngữ để miêu tả hai nhân vật có điểm khác. Với Thuý Vân thì dùng “thua”, “nhường”:
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Còn Thuý Kiều thì dùng “ghen”, “hờn”:
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
*Vẻ đẹp của Vân là vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, một vẻ đẹp mà thiên nhiên (mây,tuyết) cũng phải chòu thua,
nhường! Nhưng chỉ đến mức ấy thôi, nghóa là ở trong vòng trời đất , vẫn trong qui luật tự nhiên. Vẻ đẹp của Vân tạo
sự hoà hợp, êm đềm với xung quanh . Vẻ đẹp này báo hiệu tính cách ,số phận cuộc đời sau này của Thuý Vân là một
cuộc đời êm ả, bình lặng.
*Vẻ đẹp của Thuý Kiều là vẻ đẹp sắc sảo mặn mà, khác nhiều với vẻ đẹp trang trọng hiền hoà của Vân. Một vẻ đẹp
đếùn độ “hoa ghen”, “liễu hờn”. Điều đó chứng tỏ nhan sắc Thuý Kiều đã vượt ra ngoài khuôn khổ, ngoài tưởng
tượng ,ngoài qui luật tự nhiên. Thiên nhiên ,tạo hoá có sự ganh ghét , đố kò , báo hiệu một sự trả thù sau này của trời
đất (thiên nhiên) đối với số phận của Kiều .Hai từ ghen hờn đã báo trước cuộc đời Kiều chắc sẽ trải qua nhiều tai ương
, bất hạnh.
Trong miêu tả, Nguyễn Du đã dự cảm về thân phận mỗi người trong tương lai : Thuý Vân thì êm đềm phẳng
lặêng, còn tương lai Thuý Kiều đầy sóng gió bất trắc.
CẢNH NGÀY XN (Đoạn thơ tả cảnh thiên nhiên)
1- Phân tích bức tranh cảnh thiên nhiên ở bốn câu thơ đầu trong đoạn trích “Cảnh ngày xn”?
“Cảnh ngày xn” (Trích truyện Kiều - Nguyễn Du) là bức tranh thiên nhiên mùa xn cùng với cảnh lễ hội xn
nhộn nhịp, tươi vui. Trong dó, bốn câu đầu gợi tả khung cảnh mùa xn :
Ngày xn con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bơng hoa.
Hai câu đầu:
Ngày xn con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi

gợi tả mùa xn theo cách riêng. Trước hết hình ảnh “con én đưa thoi”là hình ảnh ẩn dụ nhân hóa vừa gợi thời gian vừa
gợi khơng gian, Hình ảnh chim én bay liệng trong bầu trời xn ất nhanh như chiếc thoi chạy đi chạy lại trên khung dệt
khơng những nêu lên nét đặc trưng của mùa xn (mùa xn chim én về) mà còn gợi thời gian trơi đi rất nhanh (như thoi
đưa), ngày xn , ngày vui trơi rất nhanh. Cảm giác nuối tiêc thời gian thống hiện ở câu thơ “Thiều quang chín chục đã
ngồi sáu mươi” khi tác giả tả ánh sáng đẹp của mùa xn đã trải qua hơn sáu mươi ngày, đã hết tháng hai sang tháng ba.
Những số từ “chín chục, ngồi sáu mươi” cùng với từ “đã” nói lên điều ấy. Trong tháng cuối cùng của mùa xn chim én
vẫn rộn ràng bay liệng giữa bầu trời trong sáng.
Hai câu thơ tiếp theo khơng hồn tồn là sáng tạo của Nguyễn Du. Ơng đã tiếp thu và đổi mới từ hai câu thơ cổ
Trung Quốc :
Phương thảo thiên liên bích
Lê chi sổ điểm hoa
( cỏ non liền với trời xanh, tên cành lê có mấy bơng hoa)
ngữ văn9 –văn học trung đai. 7
So với hai câu thơ xưa, rõ ràng hai câu thơ của Nguyễn Du trở thành một bức họa tuyệt đẹp về mùa xn:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bơng hoa.
Gam màu làm nền cho bức tranh xn là thảm cỏ xanh non trải rộng tới chân trời . Trên cái nền xanh dịu mát đó điểm
xuyết một vài bơng hoa lê trắng. Câu thơ cổ Trung Quốc chỉ nói cành lê điểm vài bơng hoa mà khơng nói tới màu sắc của
hoa lê. Nguyễn Du chỉ thêm một chữ “trắng” cho hoa lê mà bức tranh xn đã khác . Trong câu thơ của Nguyễn Du , chữ
trắng đã thành điểm nhấn, làm nổi bậc thần sắc của hoa lê, của bức tranh. Màu xanh của cỏ non và sắc trắng của hoa lê
làm cho màu sắc có sự hài hòa tới mức tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xn: “cỏ non” mới mẻ, tinh
khiết, giàu sức sống; “xanh tận chân trời” khống đạt trong trẻo; “trắng điểm một vài bơng hoa” thanh khiết. Chữ “điểm”
làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ khơng tĩnh tại.
Màu trắng –xanh hài hòa gợi cảm giác mênh mơng mà khơng quạnh vắng, trong sáng mà tẻ trung, nhẹ nhàng mà
thanh khiết. Đúng là một bức họa tuyệt tác về cảnh ngày xn trong sáng.
2- Hãy phân tích sáu câu cuối trong đoạn trích “Cảnh ngày xn”?
Sáu câu cuối trong đoạn thơ “Cảnh ngày xn” ghi lại cảnh chị em Thúy Kiều đi chơi xn đang dần bước trở về
nhà. Mặt trời đã “tà tà” gác núi. Ngày hội ngày vui đã trơi qua nhanh:
Tà tà bóng ngã về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nhịp thơ chậm rải.Nhịp sống như ngừng trơi. Tâm tình thì “thơ thẩn”, cử chỉ thì “dan tay”, nhịp chân thì “bước dần” . Một
cái nhìn man mác, bâng khng: “lần xem” đối với cảnh vật. Tất cả đều nhỏ bé: khe suối chỉ là “ngọn tiểu khê”, “dịp cầu
nho nhỏ”; phong cảnh “thanh thanh”; dòng nước “nao nao”. Cả một khơng gian êm đềm , vắng lặng.Tâm tình chị em
Kiều như dịu lại trong bóng tà dương. Như đang đợi chờ một cái gì sẽ đến, sẽ nhìn thấy? Cặp mắt cứ “lần xem” gần xa:
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Tác giả đã sử dụng liên tiếp một loạt từ láy: “tà tà”, “thơ thẩn”, “thanh thanh”, “nao nao”, việc dùng từ của thi
nhân vừa chính xác vừa tinh tế , vừa có tác dụng gợi nhiều cảm xúc cho người đọc. Các từ láy vừa gợi tả được hình ảnh sự
vật, vừa thể hiện tâm trạng con người.
Cảnh vẫn mang cái thanh , cái dịu của mùa xn : nắng nhạt, khe nước nhỏ, một dịp cầu nhỏ bắc ngang. Mọi chuyển động
đều nhẹ nhàng : mặt trời từ từ ngã bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh; tất cả nhạt dần , lặng dần.
Cảnh ở đây được cảm nhận qua tâm trạng. Những từ láy “tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao” khơng chỉ biểu đạt sắc thái
cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. hai chữ “nao nao”(nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng
lên cảnh vật. Nỗi niềm man mác bâng khng thấm sâu , lan tỏa trong tâm hồn giai nhân đa tình , đa cảm. Cảm xúc bâng
khng, xao xuyến về một ngày vui xn đang còn mà sự linh cảm một điều xảy ra đã xuất hiện. Dòng nước “nao nao”
uốn quanh như báo trước ngay lúc này thơi Kiều sẽ gặp nấm mộ Đạm Tiên :
Sè sè nắm đất bên đường
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Sẽ gặp chàng thư sinh “phong tư tài mạo tót vời” – Kim Trọng.
Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút pháp ước lệ tượng tưng nhưng rất sống động, gần gũi, thân quen đối
với bất cứ người Việt Nam nào. Khơng còn xa lạ vì “ngọn tiểu khê” ấy, “dịp cầu nho nhỏ” ấy là màu sắc đồng q, là
cảnh q hương đất nước mình. Tính dân tộc là một nét đẹp đậm đà trong thơ Nguyễn Du, nhất là những vần thơ tả cảnh.
Đoạn trích: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH (Tryện Kiều – Nguyễn Du)
Đặc điểm nghệ thuật: +Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại.
+Tả cảnh ngụ tình.
*Ngôn ngữ nhân vật: có hai hình thức tồn tại

-ngôn ngữ độc thoại :thường là lời nói thầm bên trong, nhân vật tự nói với chính
mình.
-ngôn ngữ đối thoại là lời nhân vật được bộc lộ ra bên ngoài, đối thoại với nhân
vật khác.
*Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình: là mượn cảnh vật để gửi gắm(ngụ) tâm trạng. Cảnh ở đây không đơn thuần là bức
tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Cảnh ở đây là phương tiện miêu tả còn tâm trạng là mục đích
miêu tả.
(so sánh với đoạn “Cảnh ngày xuân” – đơn thuần tả cảnh; còn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” –tả cảnh ngụ tình).
ngữ văn9 –văn học trung đai. 8
Câu hỏi:
1- Nghệ thuật tả cảnh và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình giống và khác nhau như thế nào?
2-
Phân tích những điểm thành công trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du ở đoạn trích “Cảnh
ngày xuân” và tả cảnh ngụ tình trong tám câu cuối đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”?
Trả lời:
1- Nghệ thuật tả cảnh và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình:
+Giống nhau: ở tả cảnh
+Khác nhau :ở ngụ tình
-Nghệ thuật tả cảnh đơn thuần thì đối tượng, mục đích miêu tả là thiên nhiên, tác giả tực tiếp miêu tả cảnh vật.
-Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là mượn cảnh vật để gửi gắm (ngụ) tâm trạng. Cảnh khi ấy không đơn thuần là bức
tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Cảnh là phương tiện miêu tả còn tâm trạng là mục đích miêu tả.
Đoạn “Cảnh ngày xuân” là tả cảnh còn đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là tả cảnh ngụ tình.
2- Phân tích:
a/ Đoạn “ Cảnh ngày xuân”
-Giới thệu đoạn thơ: “Cảnh ngày xuân” là đoạn thơ trích trong phần đầu của “truyện Kiều” – Nguyễn Du có
những điểm thành công trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du
-Phân tích:
+Đoạn thơ có kết cấu theo trình tự thời gian, rất phù hợp với cuộc du xuân của chò em Thúy Kiều:
*Bốn câu đầu gợi tả khung cảnh ngày xuân.
*Tám câu tiếp theo gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh.

*Sáu câu cuối là cảnh chò em Kiều du xuân trở về.
Kết cấu theo thời gian này cũng phù hợp với diễn biến tâm trạng con người trong cuộc du xuân.
+Tác giả sử dụng rất thành công bút pháp nghệ thuật kết hợp giữa tả và gợi:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Vừa miêu tả thời gian vừa gợi không gian mùa xuân.Ngày xuân thấm thoắt trôi mau, tiết trời đã bước sang tháng ba.
Trong tháng cuối cùng của mùa xuân, những cánh chim én vẫn rộn ràng bay liệng giữa bầu trời trong sáng như thoi
đưa.
+Để gợi không khí lễ hội thật rộn ràng , một loạt từ hai âm tiết(cả từ ghép và từ láy) là tính từ, danh từ, động từ xuất
hiện :gần xa, nô nức, yến anh, chò em,tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu,…Cách nói ẩn dụ “nô nức yến anh” gợi lên
hình ảnh những nam thanh nữ tú, những tài tử giai nhân, từng đoàn người nhộn nhòp đi chơi xuân như chim én, chim
oanh bay ríu rít .
+Chỉ bằng vài nét gợi tả mà khung cảnh chiều xuân hiện lên thật rõ nét :nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhòp cầu nhỏ
bắc ngang. Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngã bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn
quanh. Tất cả đều nhạt dần, lặng dần. Những từ láy:”tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao” không chỉ biểu đạt sắc thái
cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ “nao nao”(nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm
trạng lên cảnh vật.
-Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du : kết hợp bút pháp tả và gợi, sử dụng từ ngữ giàu chất gợi hình để
miêu tả cảnh ngày xuân với những đặc điểm riêng. Tác giả miêu tả cảnh mà nói lên được tâm trạng nhân vật.
b/ Tám câu cuối trong đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
-Cảnh trong truyện Kiều vừa là bức tranh thiên nhiên vừa là bức tranh tâm trạng.Đoạn:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
……………… tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Là một trong những đoạn thơ tiêu biểu nhất cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình , mêu tả kết hợp hài hòa giữa ngoại cảnh
và tâm cảnh.
-Bao trùm tâm trạng kiều khi ở lâu Ngưng Bích là một nỗi buồn: buồn nhớ người yêu, buồn nhớ cha mẹ và
buồn cho chính mình. Để diễn tả một tâm trạng ôm trọn ba nỗi buồn với những sắc thái không giống nhau, Nguyễn Du
đã chọn cách biểu hiện “tình trong cảnh”.Mỗi biểu hiện của cảnh vật là một tâm trạng buồn:
+Khi nhớ cha mẹ , quê hương và cũng thấm thía nỗi cô đơn trống vắng của mình,thì:
Buồn trông cửa bể chiều hôm

ngữ văn9 –văn học trung đai. 9
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
+Khi nhớ người yêu, xót xa cho duyên phận thì:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
+Khi buồn cho cảnh ngộ của mình:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
+Lúc Kiều trong tâm trạng lo âu, dự cảm về tương lai hiểm nguy đón đợi phía trước thì hiện ra cảnh tượng hãi
hùng:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
m ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua con mắt và tâm trạng của Kiều: cảnh từ xa đến gần,màu sắc từ nhạt đến đậm, âm
thanh từ tónh đến động, nỗi buồn Kiều từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ.
“Gió cuốn” , sóng “ầm ầm”kêu quanh ghế ngồi” là cảnh hãi hùng nhất, báo hiệu số phận của Kiều sau
đó:mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào đời “thanh lâu”.
-Điệp ngữ “buồn trông” mở đầu câu thơ sáu chữ,tạo âm hưởng trầm buồn. Là điệp khúc của cái nhìn với
cảnh, cũng là điệp khúc của tâm trạng, một tâm trạng nặng nề và kéo dài.
Có thể nói dưới ngọn bút của Nguyễn Du, hình tượng thiên nhiên cùng một lúc đảm nhận hai chức năng: thể
hiện ngoại cảnh và thể hiện tâm cảnh. Ở chức năng thứ hai, hình tượng thiên nhiên là phương tiện nghệ thuật đặc sắc
để Nguyễn Du miêu tả nội tâm và khắc họa tính cách nhân vật.
3- Câu hỏi tích hợp: Phân biệt nghóa các từ: man mác, tan tác và giải thích cụm từ “hoa trôi man mác” là trôi
thế nào? Tại sao nói từ man mác là từ tả tâm trạng Kiều chứ không phải là hình dáng hoa?
(man mác:(cảnh vật, màu sắc )chiếm cả một khoảng không bao la, như trải ra trong không gian vắng lặng, gợi tâm
trạng cô đơn – có tâm trạng lâng lâng, đượm buồn – tan tác : rời rã , tả tơi mỗi nơi một mảnh – hoa trôi man mác : trôi
trong một không gian rộng vắng lặng – man mác từ tả tâm trạng buồn , cô đơn chứ không phải tả hình dáng hoa).
Đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều (Trích truyện Kiều – Nguyễn Du)
*Nét nội dung , nghệ thuật cơ bản của đoạn trích:

Nộâi dung: Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du trên cả hai phương diện: vừa lên án những thế lực xấu

xa tàn bạo , vừa thương cảm trước sắc đẹp, tài năng nhân phẩm bò chà đạp.

Nghệ thuật: miêu tả nhân vật phản diện bằng nét bút hiện thực, khắc họa tính cách qua diện mạo cử
chỉ ( khác với miêu tả nhân vật chính diện bằng bút pháp nghệ thuật ước lệ có phần lí tưởng hóa nhân
vật)
Câu hỏi:

1- Phân tích những nét ngoại hình và tính cách để làm nổi bật bản chất xấu xa của Mã Giám Sinh?
Mã Giám Sinh được xem là một viễn khách (khách ở phương xa) đến nhà Kiều với mục đích trang trong đẹp đẽ: vấn
danh (hỏi tên tuổi người caon gái sẽ lấy làm vợ) :
Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
-Về lai lòch, tông tích không rõ ràng:ngườiø “viễn khách” mà quê “ cũng gần”; tên Mã Giám Sinh nhưng Giám
sinh đâu phải tên, mà chỉ chung chung người họ Mã, học trường Quốc tử giám mà thôi! Không nói tên thật của
mình.Cách giới thiêu như vậy phải chăng là có dụng ý lừa dối mẹ con Thúy Kiều (lấy chồng gần , người có học, dù là
làm lẻ cũng an ủi được phần nào).Để chứng tỏ là giám sinh , hắn đến nha øKiều cũng có cả một đám tôi tớ theo sau,
nhưng cái cảnh:
Trước thầy sau tớ xôn xao
Cho thấy “thầy” và “tớ” đều là lũ người ô hợp ; từ láy “xôn xao” đã tả được bộ dạng hàng tôm, hàng cá của y.
ngữ văn9 –văn học trung đai. 10
-Ngoại hình: Miêu tả ngoại hình Mã Giám Sinh, tác giả tác giả kết hợp giữa “chụp cận cảnh” và “quay lướt”.
Nguyễn Du chụp cận cản làm rõ bộ mặt và trang phục của Mã:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi , áo quần bảnh bao
Hắn đã ngoài bốn mươi tuổi tuổi đứng đắn , tuổi làm cha , làm ông mà đi hỏi vợ là hơi lạ ( nhưng ở đây là vợ bé, vợ lẽ
-thiếp hay nàng hầu). Cái điều khiến ta nghi ngờ chính là cái “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” của hắn. Có cái
gì đó làm dáng, làm đỏm quá đáng , kệch cỡm, khoe khoang lộ liễu không hợp với lứa tuổi .Ngoài ra, “mày râu nhẵn
nhụi”, phải chăng Nguyễn Du muốn nói hắn là đàn ông mà không râu là kẻ “vô nghì” ( kẻ bất nhân , bất nghóa :đàn
ông không râu vô nghì). Từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn , phẳng lì. o quần “bảnh bao” là áo quần
trưng diện cũng thiếu tự nhiên Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ bên ngoài của nhân vật, tác giả đã chế giễu, mỉa mai

tên buôn người họ Mã. Sự đả kích ấy càng sâu cay hơn khi một người “trạc ngoại tứ tuần” lại tỉa tót công phu, lại tô
vẽ cho mình ra dáng trẻ.
-Nguyễn Du đã rất nhanh tay ghi lại (quay lướt) cái hành động:
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
“Ghế trên” là ghế ở vò trí quan trọng, dành cho bậc cao niên , bậc huynh trưởng , bậc đáng kính .Thế mà, Mã vừa vào
nhà đả nhảy “tót” lên ngồi , hắn đã quên rằng mình là kẻ đi hỏi vợ, bản chất con buôn của hắn đã bộc lộ, hắn cho
rằng mình là kẻ bề trên , kẻ có tiền , muốn làm gì chẳng đươc. “Tót” là hành động rất nhanh nhẹn .Khác với “tót vời”
là tuyệt vời. Ngồi tót là một hành động hết sức bất nhã của Mã Giám Sinh. Mã vô tình hay cố ý? Đó là bản chất thói
quen hay do sơ suất? Theo dõi Mã từ đầu, biết nguồn gốc của Mã, chúng ta dễ đoán rằng đây là hành động theo thói
quen của y, thói quen của kẻ hạ lưu, vô học, cậy mình có tiền chẳng coi ai ra gì. Hành động “ngồi tót” là quá bất ngờ,
quá nhanh,”ống kính” không nhanh, không nhạy thì làm sao có thể ghi lại được.
-Nhàthơ cũng đã rất nhanh ghi lại cách nói năng cộc lốc của Mã ( cũng có thể là của mụ mối):
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Câu trả lời nhát gừng, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi chỉ có thể là lời của kẻ vô học hoặc hợm
của , cậy tiền, của kẻ sợ nói nhiều lộ cái bòp bợm giả dối.
Với cách giới thiệu lai lòch , tông tích cũng như qua việc miêu tả ngoại hình , cử chỉ , ngôn ngữ của Mã Giám
Sinh, nhà thơ đã lột trần bộ mặt hợm hónh, khoe của, bất lòch sự của một tên “buôn người” bòp bợm ,gian ngoa.
- Về bản chất , Mã Giám Sinh là điển hình của bản chất con buôn lưu manh với đặc tính giả dối, bất nhân và
vì tiền Bản chất bất nhân , vì tiền của Mã Giám Sinh bộc lộ qua cảnh mua bán Thúy Kiều.
+Mã bất nhân trong tâm lí lạnh lùng vô cảm, xem Kiều như đồ vật:
Mối càng vén tóc bắt tay
……….
Đắn đo cân sắt cân tài
p cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ
Nếu là lễ “vấn danh” thì làm gì có chuyện “vén tóc bắt tay” “đắn đo cân ép thử ”. Cảnh trên là cảnh của kẻ đi
mua hàng “người” cân nhắc để tính lời lãi. Dưới con mắt của Mã Giám Sinh, Kiều tài sắc lúc này chỉ là một món
hàng không hơn không kém, đẻ hắn kiếm chác.Mã đã gật gù tán thưởng món lời:”Mặn nồng một vẻ một ưa”, chẳng
khác gì cư chỉ đê tiện “lẩm nhẩm gật đầu” của Sở Khanh sau này. Khi đã ưa, đã vừa ý món hàng, Mã mới tùy cơ dặt
dìu, lựa lời nói khách sáo văn hoa. Y trở về giọng điệu của chàng trai đi hỏi vợ:

Rằng:”Mua ngọc đến Lam Kiềup
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường
Vì sao Mã lại nói như vậy? Hẳn vì Mã đã khoe y là gíam sinh mà! Người có học phải nói văn hoa khác người thường
chứ! Tuy nhiên, cách nói hoàn toàn mâu thuẫn với chuỗi hành động trên của Mã. Rồi ngay tiếp sau, khi nghe mụ mối
phát giá, y bắt đầu mặêc cả, cò kè thêm bớt chi li hồi lâu.
Bản chất vì tiền của tên họ Mã thẻ hiện trong hành động mặc cả keo kiệt, đê tiện:
Cò kè bớt một thêm hai
Nếu trước đó, khi giành “ghế trên”, Mã vộ vàng “ngồi tót” thì lúc mua Kiều, hắn lại hết sức chậm rãi, tính toán chi li,
hết “đắn đo”, hết “thử tài” lại “cò kè”, “thêm”,”bớt”. Từ láy “cò kè” đã lột tả chân dung và bản chất con buôn keo
kiệt, dìm giá, đầy mánh lới của Mã. Y mặc cả mãi , lâu lắm mới ngã giá chỉ còn non một nửa theo giá phát ban đầu
ngữ văn9 –văn học trung đai. 11
của mụ mối. Mã xứng là tay mua hàng sành sỏi. Cuối cùng, Mã nói vài câu hẹn ước các nghi lễ tiếp theo: nạp thái, vu
qui… nhưng thực chất là đònh ngày đưa người đi (lấy hàng)
Với bút pháp kết hợp giữa kể và tả, bằng một số nét phác họa về mối quan hệ mờ ám, vẻ ngoài chải chuốt,
nói năng vô lễ, cử chỉ vô học,hành động vô lương, Nguyễn Du đã khắc họa sắc nét hình tượng Mã Giám Sinh, kẻ
buôn ngươiø từ ngoại hình, đến tính cách, Mã giám Sinh đã trở thành một điển hình bất hủ cho sự đê tiện, tàn ác.
2- Cảm nhận của em về hình ảnh Thúy Kiều qua đoạn trích “ Mã Giám Sinh mua Kiều”? (xem SBT
trang 44-45)
3-Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du thể hiện qua đoạn trích “ Mã Giám Sinh mua Kiều”?
-Tác giả tỏ thái độ khinh bỉ và căm phẫn sâu sắc bọn buôn người, đồng thời tố cáo thế lực đồng tiền chà đạp lên con
người:
+Qua cách miêu tả Mã Giám Sinh với cái nhìn mỉa mai châm biếm, lên án :bộ mặêt nhẵn nhụi, quần áo bảnh bao
không hợp với tuổi tứ tuần. Hành động “ghế trên ngồi tót”, gật gù tán thưởng món hàng “ mặn nồng một vẻ một ưa”.
+Tố cáo thế lực đồng tiền đã biến con người tài sắc trở thành món hàng , để bọn buôn người mua bán , kiếm chác.
Thái độ ấy còn thể hiện qua lời nhận xét: “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong” . Lời nhận xét có vẻ khách quan
nhưng chứa đựng trong đó cả sự chua xót, căm phẫn. Đồng tiền biến nhan sắc thành món hàng tủi nhục , biến kẻ tán
tận lương tâm thành kẻ mãn nguyện tự đắc. Thế lực đồng tiền với thế lực lưu manh, thế lực quan laiï đã hùa vào nhau
tàn phá gia đình Kiều, tàn phá cuộc đời Kiều.
-Nguyễn Du còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước thực trạng con người bò hạthấp, bò chà đạp. Nhà thơ như hóa
thân vào nhân vật để noiù lên nỗi đau đớn, tủi hổ của Thúy Kiều.


Đề: Nhận xét nghệ thuật tả người của Nguyễn Du qua hai đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” và “Mã Giám Sinh mua
Kiều” (Trích truyện Kiều)
Gợi ý bài làm

I- Giới thiệu truyện Kiều ,nêu nét đặc sắc nghệ thuật tả người (Truyện Kiều là kiệt tác của Nguyễn Du , khơng những có
giá trị về nội dung ,Truyện Kiều còn là kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngơn ngữ, thể
loại. Đặc biệt là nghệ thuật tả người , nhất là miêu tả và khắc họa tính cách, tâm lý nhân vật. ¸nêu tên hai đoạn trích theo đề
bài (qua hai đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” và Mã Giám Sinh mua Kiều” ta cũng cảm nhận được tài năng tả người cua
Nguyễn Du)
II-
a/ Nhân vật trong truyện Kiều được chia làm hai tuyến : -Chính diện ( Thúy Kiều , Thúy Vân , Kim Trọng, Từ Hải )-
phản diện (Mã Giám Sinh, Tú bà, Hoạn Thư, Sơ Khanh )
b/ Cách miêu tả đối với nhân vật chính diện ( Trong đoạn “Chị em Thúy Kiều” ):
+Cách giới thiệu của tác giả đầy trân trọng và ưu ái. Khi giới thiệu chị em Thúy Kiều:
Đầu lòng hai ả Tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
+Khi miêu tả nhân vật chính diện thường là những con người lý tưởng , nên tác giả dùng bút pháp ước lệ , tượng
trưng:Nghóa là sử dụng những qui ước trong biểu hiện nghệ thuật như dùng hình tượng thiên nhiên
đẹp: trăng , hoa , ngọc, tuyết,….để nói về vẻ đẹp con người. Để gợi lên vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao,
trong trắng của người thiếu nữ :
Mai cốt cách , tuyết tinh thần
Vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của Thúy Vân được so sánh với hình tượng thiên nhiên, với những thứ
cao đẹp trên đời: trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc:
Vân xem trang trọng khác vời
Khn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả vẫn dùng những hình tượng ước lệ:
Làn thu thủy, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm , liễu hờn kém xanh
Hình ảnh ước lệ “làn thu thủy” – làn nước mùa thu gợn sóng gợi lên thật sống động vẻ đẹp của đôi
mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt,…Còn hình ảnh ước lệ “nét xuân sơn” – nét núi mùa xuân lại gợi
lên đôi mày thanh tú trên giương mặt trẻ trung.
ngữ văn9 –văn học trung đai. 12
Cái tài của Nguyễn Du là tuy sử dụng bút pháp ước lệ nhưng chân dung hai chò em Thúy Vân,
Thúy Kiều hiện lên thật sinh động, đa dạng , “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.
Khi miêu tả chân dung nhân vật là chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp của Thúy Vân
tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh, “mây thua”, “tuyết nhường” nên nàng sẽ có cuộc đời bình
lặng, suôn sẻ . Còn vẻ đẹp của Thúy Kiều làm cho tạo hóa phải ghen ghét, các vẻ đẹp khác phải đố kò
– “hoa ghen”, “liễu hờn” – nên số phận nang phải éo le đau khổ.
-Sự tinh tế của tác giả là khi miêu tả nhân vật Thúy Kiều, tác giả miêu tả chân dung Thúy Vân
trước để làm nền nổi bật lên chân dung Thúy Kiều. Có thể coi đây là thủ pháp nghệ thuậtï đòn bẩy.
Nguyễn Du chỉ dành bốn câu để gợi tả Vân, trong khi đó dành tới mười hai câu thơ để cực tả vẻ đẹp
của Kiều. Vẻ đẹp của Vân chủ yếu là ngoại hình, còn vẻ đẹp của Kiều là nhan sắc , tài năng , tâm hồn.
Thúy Vân, Thúy Kiều là những nhân vật chính diện nên khi miêu tả tác giả chủ yếu tác giả
dùng bút pháp ước lệ. Vì vẻ đẹp của hai chò em Kiều là vẻ đẹp lí tưởng nên Nguyễn Du đã dùng những
khuôn mẫu, ước lệ để diễn tả vẻ đẹp vượt ra ngoài, vượt lên trên khuôn mẫu của tuyệt sắc giai nhân.
-“Chò em Thuý Kiều” là đoạn thơ miêu tả nhân vật vô cùng đặc sắc trong thơ trung đại, một trong
những nét đặc sắc ấy là việc sử dụng từ ngữ:
+Cách sử dụng ngôn ngữ để miêu tả hai nhân vật có điểm khác. Với Thuý Vân thì dùng “thua”,
“nhường”:
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Còn Thuý Kiều thì dùng “ghen”, “hờn”:
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
*Vẻ đẹp của Vân là vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, một vẻ đẹp mà thiên nhiên (mây,tuyết) cũng phải
chòu thua, nhường! Nhưng chỉ đến mức ấy thôi, nghóa là ở trong vòng trời đất , vẫn trong qui luật tự
nhiên. Vẻ đẹp của Vân tạo sự hoà hợp, êm đềm với xung quanh . Vẻ đẹp này báo hiệu tính cách ,số
phận cuộc đời sau này của Thuý Vân là một cuộc đời êm ả, bình lặng.
*Vẻ đẹp của Thuý Kiều là vẻ đẹp sắc sảo mặn mà, khác nhiều với vẻ đẹp trang trọng hiền hoà của

Vân. Một vể đẹp đến độ “hoa ghen”, “liễu hờn”. Điều đó chứng tỏ nhan sắc Thuý Kiều đã vượt ra ngoài
khuôn khổ, ngoài tưởng tượng ,ngoài qui luật tự nhiên. Thiên nhiên ,tạo hoá có sự ganh ghét , đố kò ,
báo hiệu một sự trả thù sau này của trời đất (thiên nhiên) đối với số phậncủa Kiều .Hai từ ghen hờn
đã báo trước cuộc đời Kiều chắc sẽ trải qua nhiều tai ương , bất hạnh.
Trong miêu tả, Nguyễn Du đã dự cảm về thân phận mỗi người trong tương lai : Thuý Vân thì
êm đềm phẳng lặêng, còn tương lai Thuý Kiều đầy sóng gió bất trắc.
Thúy Kiều là một nhân vật tuyệt đẹp trong truyện Kiều, Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Kiều bằng những vần thơ lục
bát đẹp nhất. Ơng đã dành cho nhân vật bao tình cảm u mến, trân trọng sâu sắc. Sự kết hợp tài tình bút pháp ước lệ
tượng trưng, sử dụng các biện pháp tu từ, nhất là ẩn dụ , so sánh, một ngơn ngữ thơ tinh luyện, hàm súc, hình tượng và gợi
cảm để vẽ nên bức chân dung mỹ nhân bằng thơ sáng giá nhất trong nền văn học cổ nước nhà. Thúy Kiều hiện lên với bao
phẩm chất tốt đẹp, đậm đà bản sắc dân tộc.
c/ Đối với nhân vật phản diện :
+ Cách giới thiệu đầy khinh ghét :
Hỏi tên rằng:”Mã Giám Sinh”
Hỏi q rằng :”Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Nhà thơ cũng đã rất nhanh ghi lại cách nói năng cộc lốc của Mã ( cũng có thể là của mụ mối).Câu
trả lời nhát gừng, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi chỉ có thể là lời của kẻ vô học hoặc hợm
của , cậy tiền, của kẻ sợ nói nhiều lộ cái bòp bợm giả dối.
Với cách giới thiệu lai lòch , tông tích cũng như qua việc miêu tả ngoại hình , cử chỉ , ngôn ngữ
của Mã Giám Sinh, nhà thơ đã lột trần bộ mặt hợm hónh, khoe của, bất lòch sự của một tên “buôn
người” bòp bợm ,gian ngoa.
+ Dùng bút pháp tả thực :
Khi miêu tả Mã giám Sinh tác giả dùng các từ : nhẵn nhụi, bảnh bao ,xơn xao, cò kè
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
ngữ văn9 –văn học trung đai. 13
Mày râu nhẵn nhụi , áo quần bảnh bao
Hắn đã ngoài bốn mươi tuổi tuổi đứng đắn , tuổi làm cha , làm ông mà đi hỏi vợ là hơi lạ ( nhưng ở
đây là vợ bé, vợ lẽ -thiếp hay nàng hầu). Cái điều khiến ta nghi ngờ chính là cái “mày râu nhẵn nhụi,
áo quần bảnh bao” của hắn. Có cái gì đó làm dáng, làm đỏm quá đáng , kệch cỡm, khoe khoang lộ liễu
không hợp với lứa tuổi .Ngoài ra, “mày râu nhẵn nhụi”, phải chăng Nguyễn Du muốn nói hắn là đàn

ông mà không râu là kẻ “vô nghì” ( kẻ bất nhân , bất nghóa :đàn ông không râu vô nghì). Từ “nhẵn
nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn , phẳng lì. o quần “bảnh bao” là áo quần trưng diện cũng thiếu
tự nhiên Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ bên ngoài của nhân vật, tác giả đã chế giễu, mỉa mai tên
buôn người họ Mã. Sự đả kích ấy càng sâu cay hơn khi một người “trạc ngoại tứ tuần” lại tỉa tót công
phu, lại tô vẽ cho mình ra dáng trẻ.
-Nguyễn Du đã rất nhanh tay ghi lại cái hành động:
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
“Ghế trên” là ghế ở vò trí quan trọng, dành cho bậc cao niên , bậc huynh trưởng , bậc đáng kính .Thế
mà, Mã vừa vào nhà đả nhảy “tót” lên ngồi , hắn đã quên rằng mình là kẻ đi hỏi vợ, bản chất con
buôn của hắn đã bộc lộ, hắn cho rằng mình là kẻ bề trên , kẻ có tiền , muốn làm gì chẳng đươc. “Tót”
là hành động rất nhanh nhẹn .Khác với “tót vời” là tuyệt vời. Ngồi tót là một hành động hết sức bất
nhã của Mã Giám Sinh. Mã vô tình hay cố ý? Đó là bản chất thói quen hay do sơ suất? Theo dõi Mã
từ đầu, biết nguồn gốc của Mã, chúng ta dễ đoán rằng đây là hành động theo thói quen của y, thói
quen của kẻ hạ lưu, vô học, cậy mình có tiền chẳng coi ai ra gì. Hành động “ngồi tót” là quá bất ngờ,
quá nhanh, khơng tinh làm sao ghi lại được cái cảnh , hành động ấy của tên họ Mã.
Trong cảnh mua bán :

Về bản chất , Mã Giám Sinh là điển hình của bản chất con buôn lưu manh với đặc tính giả dối, bất
nhân và vì tiền Bản chất bất nhân , vì tiền của Mã Giám Sinh bộc lộ qua cảnh mua bán Thúy Kiều.
+Mã bất nhân trong tâm lí lạnh lùng vô cảm, xem Kiều như đồ vật hắn “đắn đo” , “cân” ,”thử’, “ép” đủ
điều.Bản chất vì tiền của tên họ Mã thẻ hiện trong hành động mặc cả keo kiệt, đê tiện:
Cò kè bớt một thêm hai
Nếu trước đó, khi giành “ghế trên”, Mã vộ vàng “ngồi tót” thì lúc mua Kiều, hắn lại hết sức
chậm rãi, tính toán chi li, hết “đắn đo”, hết “thử tài” lại “cò kè”, “thêm”,”bớt”. Từ láy “cò kè” đã lột tả
chân dung và bản chất con buôn keo kiệt, dìm giá, đầy mánh lới của Mã. Y mặc cả mãi , lâu lắm mới
ngã giá chỉ còn non một nửa theo giá phát ban đầu của mụ mối. Mã xứng là tay mua hàng sành sỏi.
Cuối cùng, Mã nói vài câu hẹn ước các nghi lễ tiếp theo: nạp thái, vu qui… nhưng thực chất là đònh
ngày đưa người đi (lấy hàng)
Với bút pháp kết hợp giữa kể và tả, bằng một số nét phác họa về mối quan hệ mờ ám, vẻ ngoài
chải chuốt, nói năng vô lễ, cử chỉ vô học,hành động vô lương, Nguyễn Du đã khắc họa sắc nét hình

tượng Mã Giám Sinh, kẻ buôn ngươiø từ ngoại hình, đến tính cách, Mã giám Sinh đã trở thành một
điển hình bất hủ cho sự đê tiện, tàn ác.
Qua nhân vật Mã Giám Sinh ,ta càng thấy rõ bút pháp tả thực trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Nét nào
cũng sắc sảo tạo nên tính cách xấu xa, đồi bại của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi tiết nghệ thuật nào cũng sống , đằng sau
nét vẽ là thái độ khinh bi của nhà thơ đối với con người bạc ác tinh ma này! Bức chân dung phản diện Mã Giám Sinh có
giá trị tố cáo hiện thực đặc sắc, lên án bọn bn thịt bán người vơ nhân đạo, đạo dức giả trong xã hội phong kiến suy tàn.
d/ Nhận xét chung:
- Khi miêu tả ngoại hình nhân vật : Nguyễn Du đã tạo nên những diện mạo đặc sắc. Đạt được kết quả ấy là do Nguyễn
Du miêu tả từ cách phục sức, hình dung diện mạo, thái độ cử chi, đặc biệt là lời ăn tiếng nói riêng biệt của từng nhân
vật , từng loại người. Khi miêu tả những nhân vật chính diện, Nguyễn Du có sử dụng thi liệu, ngơn ngữ cơng thức ,
ước lệ có sẵn nhưng đối với những nhân vật phản diện, Nguyễn Du đã lấy chất liệu sinh động từ hiện thực cuộc sống.
Miêu tả nội tâm: Nguyễn Du lấy bản chất nhân vật làm yếu tố trung tâm khi xây dựng nhân vật. Ngoại hình của nhân vật
bao giờ cũng dựa trên bản chất con người. Nàng Kiều xinh đẹp, dun dáng cũng là nàng Kiều thơng minh, trong trắng
giàu tình cảm. Mã Giám Sinh một tên bn người bịp bợm, tàn nhẫn thì lời lẽ cộc lốc , dối trá, cử chỉ thơ lỗ ỷ mình có
tiền, trả giá thì “cò kè” Khác với một số truyện Nơm khác (như Lục Vân Tiên ) thường thiên về miêu tả hành động và
ngữ văn9 –văn học trung đai. 14
sự việc, Nguyễn Du rất quan tâm đến việc tả tình khi xây dựng nhân vật. Với cái nhìn sắc sảo và ngòi bút tài tình, Nguyễn
Du đã khắc họa được những nét tâm lý, những tính cách rất chân thực và sinh động.
III- Kết hợp đúng mức những yếu tố nghệ thuật cổ truyền và tài năng sáng tạo của một nghệ sĩ thiên tài khi miêu tả nhân
vật, Nguyễn Du đã tạo ra những nhân vật sống , đã trở thành những điển hình bất hủ của cuộc sống xã hội Việt Nam.
Đề tổng hợp: Qua việc tìm hiểu cốt truyện và các đoạn trích trong sách giáo khoa NV9, tập một,em hãy phân tích nhân vật
Thúy Kiều để làm nổi bật giá trị nhân đạo của truyện Kiều.
Gợi ý làm bài

Gợi ý:

*Phải xác định giá trị nhân đạo của Truyện Kiều là gì?
+ Tiếng nói thương cảm sâu sắc trước số phận bi kịch
+Là tiếng nói khẳng định , ca ngợi con người
+Đề cao những khát vọng chân chính của con người.

*Những nội dung trên toát từ hình tượng Thúy Kiều như thế nào?
+ (Thương cảm)Số phận bi kịch của Thúy Kiều : 2 bi kịch lớn - Mối tình lý tương nhưng tan vỡ - Kiều có ý thức
về nhân phẩm nhưng bị chà đạp về nhân phẩm.
+Kiều là hiện thân vẻ đẹp nhan sắc, tài hoa , tâm hồn (tiếng nói khẳng định , ca ngợi con người)
+Kiều là hiện thân cua khát vọng tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc và khát vọng về quyền sống.
Dàn ý Nội dung cụ thể
I-MB:
-Giới thiệu truyện Kiều
-Nêu giá trị nội dung nhân đạo thể
hiện qua nhân vật Thúy Kiều
II- TB:
(Lần lược phân tích các nội dung:)
1-Truyện Kiều là tiếng nói cảm
thương sâu sắc trước số phận bi
kịch:
Nhân vật Thúy Kiều là hiện thân
những bi kịch của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến:
+Có mối tình lý tưởng nhưng bị tan
vỡ.
+Kiều có ý thức về nhân phẩm
(nàng luôn tìm cách vươn lên và
thoát ra khỏi chốn bùn nhơ) nhưng
bị chà đạp về nhân phẩm (nang bị
dìm xuống sâu hơn)
I-
(Phần mở bài viết thành một đoạn văn có 2 ý):
-Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc. Truyện Kiều của ông là kiệt tác
của nền thơ ca cổ, sáng ngời tinh thần nhân đạo.
-Giá trị nhân đạo của Truyện Kiều thể hiện ở tiếng nói cảm thương sâu sắc

trước số phận bi kịch, tiếng nói khẳng định, ngợi ca con người và những khát
vọng chân chính của con người. Tiếng nói nhân đạo ấy toát lên từ hình tượng
Thúy Kiều.
II-
1- Trước hết,Truyện Kiều là tiếng nói cảm thương sâu sắc trước số phận bi
kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nhân vật Thúy Kiều là hiện
thân những bi kịch của người phụ nữ. Đời Kiều là “tấm gương oan khổ”, chịu
đủ những bi kịch. Tuy nhiên, hai bi kịch lớn nhất của Kiều là bi kịch tình yêu bị
tan vỡ và bi kịch bị chà đạp về nhân phẩm.
+ Mối tình Kim - Kiều là một mối tình của tình yêu lý tưởng. Đó là mối
tình giữa “Người quốc sắc kẻ thiên tài”, nhưng cuối cùng “Giữa đường đứt
gánh tương tư”, “ nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Tình yêu tan vỡ không bao
giờ hàn gắn được, “màn đoàn viên” có hậu về cơ bản cũng chỉ là “một cung
gió thảm mưa sầu”.
+Kiều đau đớn cùng cực vì thình yêu tan vỡ và nhất là giá trị , phẩm
chất trong sạch của nàng bị xúc phạm. Khi mối tình đầu đẹp đẽ vừa chớm nở
thì cũng chính ngay sau đó Kiều phải trao duyên lại cho em , đành từ bỏ Kim
Trọng để bán mình chuộc cha cứu gia đình (bị vu oan giá họa để làm tiền của
bọn quan lại). Nàng trở thành món hàng để kẻ buôn người họ Mã “Cò kè bớt
một thêm hai”, thất thân với tên buôn người bịp bợm , tàn ác này, để rồi phải :
Thanh lâu hai lược, thanh y hai lần.
Và Kiều đã tìm mọi cách để thoát khỏi cuộc sống nhục nhã đau đớn ấy. Khi
biết bị lừa vào lầu xanh ,nàng tự vận nhưng không thành, theo Sở Khanh để
thoát khỏi chốn thanh lâu, lại bị đánh đập hành hạ và phải vào lầu xanh lần thứ
nhất. Biểu hiện nỗi đau xót của Kiều là:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
Có nỗi đau nào lớn hơn khi con người trọng nhân phẩm, luôn ý thức về nhân
phẩm mà cuối cùng tuyên bố từ bỏ nhân phẩm, “xin chừa”?
Lấy Thúc Sinh ,chấp nhận làm vợ lẻ để khỏi phải làm gái lầu xanh thì rơi vào

tay mẹ con Hoạn Thư. Nàng bị đánh đập , hành hạ và trở thành Hoa nô,làm kẻ
ở , người hầu.Chế độ đa thê, sản phẩm của giai cấp phong kiến, tất nhiên cũng
ngữ văn9 –văn học trung đai. 15
2- Nội dung thứ hai: Khẳng định ca
ngợi những vẻ đẹp của con người:
+Tài sắc của Thúy Kiều
+Tâm hồn :trong trắng ,thủy chung
(mối tình Kim-Kiều), giàu lòng vị
tha, nhân hậu (Đ/v cha mẹ, với
người yêu, với những người mình
mang ơn)
3-
+Khát vọng tình yêu tự do,hạnh
phúc (yêu Kim Trọng)
không thể bảo vệ hạnh phúc cho những kẻ “sắn bìm chút phận con con” như
nàng . Trốn khỏi nhà Hoạn Thư , thì lại bị bán vào lầu xanh lần hai, lấy Từ Hải
thì bị Hồ Tôn Hiến lừa và trở thành kẻ giết chồng, Mỗi lần tìm cách vươn lên
để thoát ra thì nàng bị dìm xuống sâu hơn.
Thân thế trầm luân của Kiều là kết quả tất yếu của một xã hội do thế lực hắc
ám thống trị. Cuộc đời người con gái có nhan sắc “nghiêng nước ,nghiêng
thành”, có tài hoa “pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”, có tâm hồn tình cảm
trong trắng nồng nàn ấy rút cục cũng chỉ là “một cung gió thảm mưa sầu”.
Kiều đã trải qua hầu hết những kiếp đời đau khổ , tủi nhục của người phụ nữ
dưới chế độ phong kiến: tình duyên tan vỡ, làm gái lầu xanh, làm nô tì, làm vợ
lẻ, đi tu, bị làm nhục khi chồng (Từ Hải) vừa chết Nhà thơ vĩ đại giàu lòng
nhân đạo đã tổng kết cuộc đời ấy bằng những lời thơ đau xót:
Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu ly
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân

2- Thúy Kiều không chỉ xuất hiện với tư cách là một nạn nhân đau khổ mà còn
là hiện thân của vẻ đẹp, nhan sắc, tài hoa, tâm hồn.
+ Sắc và tài của Kiều đạt tới mức lý tưởng. Thể hiện vẻ đẹp, tài năng của
Kiều , Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ của văn học cổ có phần lý tưởng
hóa để trân trọng một vẻ đẹp “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” . Đẹp
đến độ “nghiêng nước nghiêng thành” . Và tài “Sắc đành đòi một tài đành họa
hai” . Kiều thông minh , đa tài - cầm, kỳ, thi, họa.
+Cái thông minh tài hoa của Kiều cũng chính là sự biểu hiện phong phú
của một trái tim nồng nàn yêu đương, sôi nổi, một tấm lòng giàu vị tha.
Nàng dám yêu thương sôi nổi của một cô gái sống cách đây mấy trăm năm, khi
quan hệ chân chính giữa nam nữ thanh niên còn bị ngăn cấm bỡi muôn vàn luật
lệ khắt khe của chế độ phong kiến . Chỉ mới gặp gỡ, nàng đã để trái tim rung
động trước hình ảnh một chàng trai xa lạ, với những ước mơ thầm kín nhưng
vô cùng tha thiết:
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không!
Mối tình vượt lễ giáo phong kiến cũng là một mối tình rất trong sạch, thủy
chung. Kiều chính là người phụ nữ ngay thẳng trong sạch. Yêu đương sôi nổi
nhưng nàng cũng biết giữ những bước đi quá trớn có hại cho tình yêu.
+Tâm hồn đẹp đẽ của người con gái họ Vương còn thể hiện ở tấm lòng vị
tha nhân hậu. Nàng hy sinh tình yêu để cứu gia đình, cha mẹ. Khi bị giam
lỏng ở lầu Ngưng Bích của mụ Tú Bà, nàng như quên mình ,nghĩ về người
khác. Kiều nhớ tới cha mẹ với những tình cảm chân thực. Nàng tưởng bóng
dáng tội nghiệp “tựa cửa hôm mai” của người đã sinh dưỡng nàng. Kiều day
dứt không nguôi vì nỗi không chăm sóc được cha mẹ già : “Quạt nồng ấp lạnh
những ai đó giờ”.Thúy Kiều “tưởng” Kim Trọng “rày trông mai chờ”, day dứt
vì như mình đã phụ bạc người yêu “tấm son gọt rửa bao giờ cho phai” . Kiều
còn là người chí nghĩa chí tình “Ơn ai một chút chẳng quên”. Khi có điều kiện,
hậu tạ những người đã cưu mang mình, nàng thấy những công ơn đó không gì
có thể đền đáp nổi:

Nghìn vàng gọi chut lễ thường,
Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân.
3- Kiều còn là hiện thân của khát vọng tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc và
khát vọng về quyền sống.
+Khát vọng tình yêu tự do đầy màu sắc lãng mạn đựợc thể hiện qua mối quan
hệ Thúy Kiều-Kim Trọng. Nguyễn Du đã dành tất cả tài năng và tâm huyết để
viết lên một bản tình ca say đắm có một không hai trong lịch sử văn học Việt
Nam. Mối tình Kim-Kiều vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến bằng tình yêu tự do,
chủ động của hai người . Khác với nhiều phụ nữ xưa chịu sự sắp đặt của cha
mẹ, Kiều chủ động đến với tình yêu theo tiếng gọi của trái tim. Kiều táo bạo,
ngữ văn9 –văn học trung đai. 16
+Khát vọng về quyền sống (việc
Kiều báo ân ,báo ốn)
III-KL : Khẳng định lại giá trị nhân
đạo qua nhân vật Kiều
chủ động đồng thời cũng thủy chung như nhất trong tình u.
+Khát vọng về quyền sống về hạnh phúc đã đưa Kiều trở thành đại diện cho
con người bị áp bức vùng lên làm chủ số phận của mình trong tư thế chiến
thắng, tư thế chính nghĩa.
Nàng rằng: lồng lộng trời cao
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta
Ở đâyThúy Kiều đã gặp gỡ bao người phụ nữ bị áp bức khác cũng vùng lên đòi
quyền sống, đòi lẽ cơng bằng, trừng trị kẻ ác trong Tấm Cám, trong Thạch
Sanh và trong nhiều truyện Nơm khuyết danh khác , về căn bản khơng có gì
khác nhau, chỉ khác là một bên còn mượn những yếu tố thần linh phù tợ, còn
một bên đã vươn tới tư tưởng tự con người quyết định theo cơng lý của mình.
III-
Với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du nhà nhân đạo chủ nghĩa rất mực u
thương, rất mực trân trọng , rất mực đề cao con người, đề cao những khát vọng
chân chính của con người

TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN – Nguyễn Đình Chiểu
1- Truyện Lục Vân Tiên được kết cấu như thế nào? Nhân vật được miêu tả những yếu tố nào? Nhận xét về ngôn ngữ
trong đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”?
TL:-Truyện Lục Vân Tiên được kết cấu theo kiểu thông thường của các loại truyện đời xưa. Đó là kiểu kết cấu truyền
thống của loại truyện phương Đông, nghóa là theo chương hồi, xoay theo diễn biến cuộc đời các nhân vật chính.
Truyện viết ra nhằm mục đích trực tiếp truyền dạy đạo lí làm người.
-Nhân vật được miêu tả chủ yếu qua hành động , cử chỉ, lời nói. Do mục đích sáng tác ban đầu là để đọc truyền
miệng, kể thơ , vì thế tác giả ít chú ý khắc họa chân dung ngoại hình, cũng ít đi sâu vào diễn biến nội tâm, giống như
truyện cổ dân gian .Hai nhân vật chính trong đoạn trích được giới thiệu bằng vài nét ước lệ còn chủ yếu được đặt trong
những mối quan hệ xă hội, trong những tình huống xung đột của đời sống, rồi bằng hành động, cử chỉ, lời nói của
mình tự bộc lộ tính cách.
-Ngôn ngữ của tác giả mộc mạc, bình dò gần với lời nói thông thường, mang màu sắc điạ phương Nam Bộ. Nó có
phần thiếu trau chuốt, uyển chuyển nhưng phù hợp với ngôn ngữ kể, rất tự nhiên, dễ đi vào quần chúng. Ngôn ngữ đa
dạng, phù hợp với diễn biến trình tự tính cách nhân vật.
2- Phân tích hình ảnh Lục Vân Tiên trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.
*Nội dung phân tích cần làm nổi rõ các ý sau:
+Hình ảnh Lục Vân Tiên được khắc họa qua mô típ ở truyện nôm truyền thống: một chàng trai tài giỏi, cứu một cô gái
thoát khỏi hiểm nghèo, từ ân nghóa đến tình yêu.
+Lục Vân Tiên là một nhân vật lí tưởng của tác phẩm. Đây là một chàng trai vừa rời trường học bước vào đời, lòng
đày hăm hở muốn lập công danh, mong thi thố tài năng cứu người giúp đời. Tnhf huống đánh cướp là thử thách đầu
tiên, là cơ hội hành động cho chàng.
+Hành động đánh cướp, trước hết bộc lộ tính cách anh hùng , tài năng và tấm lòng vò nghóa của Vân Tiên. Vẻ đẹp của
Lục Vân Tiên là vẻ đẹp riêng của người dũng tướng. Hành động của Vân Tiên chứng tỏ cái đức của con người “vò
nghóa vong thân, cái tài của bậc anh hùng và sức mạnh bênh vực kẻ yếu chiến thắng nhiều thế lực bạo tàn.”
+Thái độ cư xử với Kiều Nguyệt Nga sau khi đánh cướp lại bộc lộ tư cách con người chính trực, hào hiệp , trọng nghĩa
khinh tài, cũng rất từ tâm, nhân hậu.
* Phân tích cụ thể:
A- Mở bài: Giới thiệu đoạn trích , giới thiệu nhân vật và nêu khái quát dặc điểm nhân vật:
“Truyện Lục Vân Tiên” là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu sáng tác vào giai đoạn trước khi thực dân Pháp
xâm lược nước ta . Trong đó, Nguyễn Đình Chiểu trong đã xây dựng Lục Vân Tiên là một nhân vật lí tưởng, nhân vật

đẹp nhất . Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trọng nghóa khinh tài.
B- Thân bài: (làn lượt phân tích 4 ý trên)
ngữ văn9 –văn học trung đai. 17
-Hình ảnh Lục Vân Tiên được khắc họa qua mô típ ở truyện nôm truyền thống: một chàng trai tài giỏi, cứu một cô gái
thoát khỏi hiểm nghèo, từ ân nghóa đến tình yêu.
-Lục Vân Tiên là một nhân vật lí tưởng của tác phẩm. Đây là một chàng trai vừa rời trường học bước vào đời, lòng
đầy hăm hở muốn lập công danh, mong thi thố tài năng cứu người giúp đời. Tnhf huống đánh cướp là thử thách đầu
tiên, là cơ hội hành động cho chàng.
-Sau khi từ biệt thầy học, trên đường đi thi thì gặp đám cướp làm cho dân chúng tán loạn “Đều đem nhau chạy vào
rừng, lên non”. Hỏi rõ nguyên nhân, Vân Tiên khảng khái xin nhận việc diệt cướp:
Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này
Mặc cho mọi người khuyên can, Vân Tiên vẫn cứ xông ra tìm vũ khí:
Vân Tiên ghé lại bên đường
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Chàng chỉ có một mình, vũ khí chỉ là chiếc gậy thô sơ, trong khi bọn cướp đông người, gươm giáo đầy đủ,
thanh thế lẫy lừng “Người đều sợ nó có tài khôn đương”.Điều đó càng chứng tỏ tinh thần dũng cảm của chàng.
Cách đánh của Lục Vân Tiên cong khai , đàng hoàng, quang minh chính đại như các anh hùng hảo hán: gọi
tên, trách mắng:
Kêu rằng : Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Đánh bọn cướp là vì chúng hại dân, đó một hành độâng hoàn toàn vì nghóa.
Hình ảnh Lục Vân Tiên trong trận đánh được miêu tả thật thật đẹp:
Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dang
Vân Tiên tả xung hữu đột như mãnh tướng Triệu Tử Long trong truyện Tam quốc diễn nghóa, phút chốc làm cho lâu la
bốn phía vỡ tan, tướng cướp Phong Lai cũng toi mạng bỡi một gậy của Vân Tiên.Trận đánh kết thúc nhanh chóng, bất
ngờ như trong truyện cổ tích. Đó không phải là trận đánh của vũ lực mà là trận đánh của chính nghóa chống gian tà.
Và chính nghóa dù vũ khí thô sơ , dù một than một mình nhưng nhất đònh thắng lợi . Đó là niềm tin và ước vọng của
nhân dân.

+Hành động đánh cướp, trước hết bộc lộ tính cách anh hùng , tài năng và tấm lòng vò nghóa của Vân Tiên. Vẻ đẹp
của Lục Vân Tiên là vẻ đẹp riêng của người dũng tướng. Hành động của Vân Tiên chứng tỏ cái đức của con người
“vò nghóa vong thân, cái tài của bậc anh hùng và sức mạnh bênh vực kẻ yếu chiến thắng nhiều thế lực bạo tàn.”
-Thái độ cư xử với Kiều Nguyệt Nga sau khi đánh cướp lại bộc lộ tư cách con người chính trực, hào hiệp , trọng
nghiã khinh tài, cũng rất từ tâm, nhân hậu.
+Thấy hai cô gái còn chưa hết hãi hùng, Vân Tiên “động lòng” tìm cách an ủi họ “Ta đã trừ dòng lâu la” và ân cần
hỏi han.
+Khi nghe họ nói muốn được lạy tạ ơn , Vân Tiên vội gạt ngay:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
đây có phần câu nệ lễõ giáo (nam nữ thụ thụ bất thân), nhưng chủ yếu là do đức khiêm nhường của Vân Tiên:
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Chàng không muốn nhận cái lạy tạ trả ơn của hai cô gái.
+ Vân Tiên từ chối lời mời về thăm nhà để cha nàng đền đáp công ơn, chàng cho rằng làm ơn không cần trả ơn.
Dường như đối với Lục Vân Tiên, làm việc nghóa là bổn phận, một lẽ tự nhiên, con người trọng nghóa khinh tài ấy
không coi đó là công trạng. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghóa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán:
Nhớ câu kiến nghóa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
C – Kết bài:
Qua nghệ thuật đặc trưng khắc họa tính cách nhân vật bằng ngôn ngữ kể mang tính dân gian, ta cảm nhận
phẩm chất nghiã hiệp của Lục Vân Tiên. Với những nét tính cách đó , hình ảnh Lục Vân Tiên là một hình ảnh đẹp,
hình ảnh lí tưởng mà Nguyễn Đình Chiểu gởi gắm niềm tin và ước vọng của mình.
ngữ văn9 –văn học trung đai. 18
Đoạn trích: LỤC VÂN TIÊN GẶP NẠN
Câu hỏi:

Chứng minh hai nhân vật Trònh Hâm và ông Ngư (trong đoạn trích “ Lục Vân Tiên gặp nạn” là hai nhân vật đối
lập như nước với lửa?
Trả lời:


+Trên đời cái thiện và cái ác có nhiều khi đi liền nối tiếp nhau như là một sự sắp xếp vô tình hay hữu ý của
hóa công để thử thách và kiểm nghiệm lòng người , tình người. Tình huống “Lục Vân Tiên gặp nạn” trên sông và
được cứu là một trong những tình huống để nói lên quan niệm về cái thiện cái ác ,về nhân dân lao động .Trong đó hai
nhân vật Trònh Hâm và ông ngư là hai nhân vật đối lập như nước với lửa.
+Ơâng Ngư là đại diện cho cái thiện , còn Trònh Hâm đại diện cho cái ác .Tính chất thiện ác trong hai nhân vậït
này được thể hiện qua những hành động cụ thể và được đẩy lên đến mức tột cùng.
-Nếu như Trònh Hâm quyết tìm cách hãm hại Vân Tiên: Trong lúc thầy trò Lục Vân Tiên lâm vào tình cảnh
khổ sở, đáng thương: tiền hết, mù lòa, một thầy một tớ bơ vơ nơi xa lạ, công danh Vân Tiên lở dở… vậy mà với tư cách
người bạn, Trònh Hâm không những không hề giúp đỡ lại còn tìm cách hãm hại một cách dã man. Y sắp xếp cả một
kế hoạch tỉ mỉ và chu đáo: dùng mưu mẹo ti tiện lừa tiểu đồng vào rừng, trói lại bỏ mặc , rồi đưa Vân Tiên lên thuyền
với lời hứa đưa bạn về đến tận quê nhà. Nhưng
Đêùn đêm khuya lặng lễ như tờ

Trònh Hâm khi ấy ra tay
Vân Tiên bò gã xô ngay xuống vời.
Sau đó y hô hoán mọi người dậy và giả vờ kêu cứu, giả bộ thương xót để phi tan tội ác:
Trònh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phôi pha.
Hành động của y thật độc ác, bất nhân bất nghóa bỡi vì nạn nhân của y hoàn toàn bất ngờ, không cách chống đỡ, vì
nạn nhân chính là bạn của y,từng nhờ y giúp đỡ và y đã nhận lời.
-Thì ông Ngư lại tìm mọi cách để cứu Vân Tiên. Thấy người bò nạn thì liền “vớt ngay lên bờ” và đem về nhà
chạy chữa để cứu sống Vân Tiên:
Hối con vầy lửa một giờ,
ng hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Câu thơ thật mộc mạc chân chất, giàu màu sắc Nam Bộ. Hiển hiện trước mắt người đọc cảnh vội vã, lo lắng cấp cứu
người bò nạn của vợ chồng,con cái ông chài. Mỗi người một việc, ông chài giục giã vợ con nhanh tay, nhanh chân làm
cho Vân Tiên tỉnh lại: Hối con vầy lửa, ông hơ, mụ hơ không gì cụ thể và sinh động hơn.
Đó là tình người tự nhiên, hồn hậu, vô tư nhất, cảm động nhất. Đối lập hoàn toàn vơiù những mưu toan thấp
hèn, độc ác của Trònh Hâm.
-Trònh Hâm hãm hại Vân Tiên chẳng có lí do gì chính đáng, Chỉ vì Vân Tiên giỏi giang hơn hắn, chỉ vì trong

cuộc thi thơ phú hắn kém tài. Đó chính là xuất phát từ tính đố kò, ghen ghét tài năng, không muốn người khác hơn
mình:
Kiệm, Hâm là đứa so đo
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa này Tiên ắt đầu công
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
Thế nhưng nay Vân Tiên đã mù, đã bỏ thi còn hắn thì đã đỗ cử nhân. Vân Tiên hoàn toàn vô hại đối với bước
đường công danh của hắn. Vậy tại sao hắn vẫn tìm cấch giết hại? Chỉ có thể nói đó là loại người độc ác từ trong bản
chất, từ trong máu thòt, loại tiểu nhân đắc chí. Mối oán thù nhân một câu chuyện văn chương trong tâm đòa đứa tiểu
nhân đã dẫn đến những chuyện độc ác không ngờ mà người bình thường thật khó hình dung tưởng tượng.
* Chỉ với tám dòng thơ mà Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lại một hành động tội ác, một âm mưu đê hèn của
một loại người trong xã hội. Tàn nhẫn và xảo quyệt xuất phát từ tính đố kò nhỏ nhen, lại cũng có chút ít trình độ văn
hóa đã khiến Trònh Hâm trở thành nhân vật khá tiêu biểu cho cái ác trong truyện Lục Vân Tiên.
-Đối lập với tính ích kỉ ,nhỏ nhen đến thành độc ác của Trònh Hâm là tấm lòng bao dung nhân ái, hào hiệp của
ông Ngư: không những cứu sống Vân Tiên mà ông còn sẵn lòng cưu mang chàng:
ngữ văn9 –văn học trung đai. 19
Ngư rằng : người ở cùng ta,
Hôm mai hẩm hút với già cho vui.
Từ “hẩm hút” thật Nam Bộ, thật ân cần vừa nói lên cuộc sống nghèo khổ vừa bộc lộ tấm lòng nghóa khí của người dân
lao động sẵn sàng cưu mang,giúp đỡ người bất hạnh ,cơ nhỡ . Ông cũng không hề tính toán đến cái ơn cứu mạng mà
Vân Tiên chẳng thể báo đáp:
Dốc lòng nhân nghóa, há chờ trả ơn
-Trònh Hâm chỉ lo đến công danh cá nhân còn ông Ngư lại mơ ước một cuộc sống tự do ngoài vòng danh lợi. Một cuộc
sống hoàn toàn xa lạ với những toan tính nhỏ nhen, ích kỉ, mưu danh , trục lợi, sẵn sàng chà đạp lên cả đạo đức, nhân
nghóa,…
+Trònh Hâm và ông Ngư là hai nhân vật đối lập nhau như lửa với nước trong “Truyện Lục Vân Tiên”. Trònh
Hâm với lòng ghen ghét, đố kò đã biến hắn thành một kẻ độc ác, bất nhân, bất nghóa. Còn ông Ngư hiện lên giữa đời,
sống trong sạch, thanh thản, khinh ghét sự đen bạc, tráo trở, sự bạo ngược hung tàn, và bao giờ cũng có mặt đúng lúc
để cứu giúp người hoạn nạn với tấm lòng trọng nghóa “ Xin tròn nhân ngãi còn hơn bạc vàng”.

×