Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

SKKN Bien phap ren ki nang doc thanh tieng cho hoc sinh L4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.82 KB, 11 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp nâng cao chất lượng luyện đọc thành tiếng cho học sinh Tiểu học”

Sáng kiến kinh nghiệm:
“Biện pháp nâng cao chất lượng luyện đọc thành
tiếng cho học sinh Tiểu học”
PHẦN THỨ NHẤT
I/ Đặt vấn đề:
* Lí do chọn đề tài:
1/ Xuất phát từ tầm quan trọng môn Tiếng việt ở Tiểu học:
Môn Tiếng việt ở cấp Tiểu học rất được coi trọng trong chương trình
giáo dục phổ thông. Quyết đònh số 16/ 2006/ QĐ – BGD&ĐT ngày 05 tháng
05 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ghi rõ:
Môn Tiếng việt ở cấp Tiểu học nhằm:
a/ Hình thành và phát triển cho học sinh các kó năng sử dụng tiếng
việt( đọc, viết, nghe, nói ) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt
động của lứa tuổi.
Thông qua việc dạy học tiếng việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư
duy.
b/ Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng việt; về tự
nhiên,xã hội và con người; về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước
ngoài.
c/ Bồi dưỡng tình yêu tiếng việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của tiếng việt, góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghóa cho học sinh.
Nội dung trên khẳng đònh: Tiếng việt đối với giáo dục tiểu học không
chỉ là một môn khoa học mà còn là một môn học công cụ. Học sinh tiểu học
học tiếng việt để sử dụng được tiếng việt trong học tập các môn học khác,
trong rèn luyện tư tưởng, tình cảm, trong hình thành nhân cách con người
Việt Nam cũng như trong giao tiếp xã hội.
Nội dung trên cũng khẳng đònh: Học tiếng việt phải hình thành và phát
triển đầy đủ 4 kó năng sử dụng tiếng việt: đoc, nói. nghe, viết. Trong đó đọc


là một kó năng quan trọng hàng đầu của con người. Không biết đọc, con
người không thể tiếp thu nền văn minh của nhân loại, không thể sống một

1
Sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp nâng cao chất lượng luyện đọc thành tiếng cho học sinh Tiểu học”
cuộc sống bình thường, có hạnh phúc với đúng nghóa từ này trong xã hội
hiện đại. Nhờ biết đọc con người có thể tự học, học nữa, học mãi, học suốt
đời. Chính vì vậy, dạy học ở trường phổ thông nhất là các lớp đầu cấp là rất
quan trọng.
2/ Xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vò:
Là một Phó hiệu trưởng chuyên môn của một trường vùng xâu, đòa
bàn đi lại khó khăn, đối tượng học sinh không đồng đều. Qua nhiều năm làm
công quản lí chuyên môn, có dòp đi thăm lớp dự giờ nhất là dự giờ phân môn
Tập đọc tôi nhận thấy:
Trong thực tế dạy học người ta thường hay phiến diện và cực đoan
không hiểu khái niệm đọc một cách đầy đủ. Có người cho rằng: “Luyện đọc
cho học sinh đọc thành tiếng mới là dạy đọc, còn việc tìm hiểu bài là dạy
văn , không phải dạy đọc”.Vì vậy họ đánh giá giờ dạy chỉ dựa vào căn cứ
duy nhất đếm xem có bao nhiêu em đứng dậy đọc. Mặt khác có người lại
cho rằng: “Trong giờ Tập đọc việc tìm hiểu văn bản mới là quan trọng”.Vì
vậy thầy trò sa đà vào hỏi đáp văn bản, sa đà vào bình giá mà không chòu
đọc thành tiếng văn bản đó. Vậy cần hiểu về “đọc” và nhiệm vụ của “dạy
đọc”ở tiểu học như thế nào?.Đọc chính là một sự tổng hợp của hai quá trình
này. Vì vậy trong dạy đọc phải coi trọng cả việc “đọc thành tiếng”và cả
việc “tìm hiểu bài”. Trong khi đó ở trường Tiểu học Hòa Bình, việc dạy đọc
bên cạnh những thành công còn nhiều hạn chế, học sinh của trường tôi chưa
đọc được như mong muốn. Kết quả học đọc của học sinh chưa đáp ứng được
nhu cầu của việc hình thành kó năng đọc. Các em chưa nắm chắc được công
cụ hữu hiệu để lónh hội tri thức, tư tưởng, tình cảm của người khác chứa đựng
trong văn bản được đọc, làm thế nào để phối hợp đọc thành tiếng và đọc

hiểu , làm thế nào để cho những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống
của các em,… có biết bao trăn trở, boăn khoăn, thắc mắc của giáo viên
trường tôi khi dạy Tập đọc. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tôi chỉ đề
cập đến vấn đề “Luyện đọc thành tiếng cho học sinh”
PHẦN THỨ HAI
II/ Giải quyết vấn đề:
Xuất phát từ tình hình thực tế nêu trên với kó năng đọc thành tiếng còn
hạn chế của học sinh trường Tiểu học Hòa Bình, tôi đã áp dụng các biện
pháp sau:

2
Sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp nâng cao chất lượng luyện đọc thành tiếng cho học sinh Tiểu học”
* Giáo viên cần có những hiểu biết để luyện đọc thành tiếng cho học
sinh:
1/ Giáo viên cần nắm nguyên tắc tổ chức luyện đọc thành tiếng:
a/ Các mục tiêu luyện tập phải rõ ràng, tường minh, trực quan và
lượng hóa được. Nghóa là các mục tiêu luyện tập, các chỉ dẫn, các yêu cầu
cần đạt, các thông số âm thanh của lời phải đo đếm được.
b/ Cường độ luyện tập phải cao. Nghóa là về nguyên tắc, luyện càng
nhiều càng tốt và một nội dung luyện tập phải được nhắc đi nhắc lại nhiều
lần trên những ngữ liệu khác nhau, được cũng cố nhiều lần để thành kó sảo.
c/ Phải lựa chọn ngữ liệu(từ ngữ, câu, đoạn) để luyện đọc sao cho tiết
kiệm thời gian luyện tập. Vì vậy, các ví dụ đưa ra luyện tập phải là những
chỗ dự tính, sẽ tập trung các lỗi của học sinh về đọc thành tiếng cao.
d/ Trong khi luyện tập cần phối hợp đồng bộ, tối đa các biện pháp
luyện đọc.
2/ Giáo viên cần có kó năng luyện theo mẫu:
Luyện theo mẫu là phương pháp chủ yếu để luyện đọc thành tiếng cho
học sinh. Để luyện theo mẫu, giáo viên cần phải làm được các việc sau:
a/ Biết làm mẫu:

Giáo viên không được quyền yêu cầu học sinh làm cái gì mà chính
mình cũng không làm được. Muốn học sinh đọc thành tiếng tốt. Khả năng
đọc của giáo viên phải được chuẩn bò ngay từ khi còn học ở trường sư phạm.
Hiện nay vẫn còn nhiều giáo viên phát âm lười quá tự nhiên chũ
nghóa, thoải mái làm cho môi trường văn hóa ngữ âm của chúng ta bò giảm
vẽ đẹp. Vì những lí do khác nhau, nhiều giáo viên đọc theo giọng đòa
phương rất nhiều lỗi phát âm. Trong khi đó giáo viên tiểu học phải là người
phát âm đúng, hay bởi họ là những người thầy đầu tiên đặt nền móng trang
bò cho trẻ em ý thức về chuẩn ngôn ngữ và chuẩn văn hóa của lời. Họ có
nhiệm vụ phải đem đến cách phát âm của mình: tự quan sát, tự đánh giá, xét
nét hơn đến cách nói, đọc của mình để dạy đọc có hiệu quả.
Biết làm chủ âm thanh giọng đọc cũng chính là biết làm chủ ngữ điệu
– tốc độ, cường độ, cao độ – để đọc diễn cảm. Giáo viên phải đọc đúng,
diễn cảm một cách chắc chắn, nghóa là với nhiều lần làm mẫu khác nhau,
mười lần như một, điều tạo ra một mẫu đọc thành tiếng không đổi. Nếu đọc
mỗi lần một khác thì không thể gọi là đọc mẫu được. Và như thế học sinh
không biết đằng nào mà đọc theo. Đáng tiếc rằng hiện nay có nhiều giáo
viên của chúng ta lại đọc mẫu không lần nào giống lần nào.

3
Sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp nâng cao chất lượng luyện đọc thành tiếng cho học sinh Tiểu học”
b/ Biết quan sát cách đọc của học sinh:
Sau khi đã có mẫu chắn chắn, việc tiếp theo giáo viên phải làm là
quan sát giọng đọc của học sinh, biết nghe học sinh đọc. Biết nghe đọc nghóa
là có khả năng nhanh chóng nhận ra hiệu số sai lệch giữa bài đọc của các
em và mẫu của thầy. Nhiều giáo viên khi học sinh đọc thì không chú ý nghe
hoặc chưa biết nghe nên sau đó chỉ nhận xét chung chung( em đọc như thế
còn yếu lắm, hoặc chưa tốt, chưa hay hoặc tương đối tốt, lần sau cố gắng hơn
hoặc lần sau cố gắng đọc cho đúng, cho hay hơn). Như thế thì mới chỉ nêu
những mong mỏi, mơ ước mà chưa tập, rèn luyện đọc cho học sinh.

c/ Biết tái hiện lời đọc của học sinh trong thế đối chiếu với lời đọc
mẫu:
Để luyện đọc cho học sinh, giáo viên phải tạo điều kiện cho các em tự
quan sát lời đọc của mình một cách khách quan. Muốn thế, thầy cô giáo phải
có khả năng thay thế một máy ghi âm: ghi và phát lại lời đọc của học sinh.
Theo thuật ngữ phương pháp thì đó là khả năng biết tái hiện lại cách đọc của
học sinh. Nói nôm na đó là khả năng biết mô phỏng để khi cần thiết có thể
trình ra trước mắt học sinh(em đọc như thế này “….” Và bây giờ chúng ta cần
đọc như thế này “…”
Ở đây có vấn đề cần phải bàn. Liệu việc mô phỏng lỗi của học sinh có
phải là cách làm có tính sư phạm, có tính giáo dục không? Nó có làm tổn hại
đến tình cảm của học sinh, nhất là có thể đụng tới tình cảm của học sinh,
nhất là có thể đụng tới tình cảm thân thương của các em đối với tiếng nói
đòa phương không? Thứ nhất, chúng ta không lạm dụng thủ pháp “tái hiện”
để đưa ra lỗi mà chủ yếu trình ra mẫu đúng. Việc mô phỏng lỗi được thực
hiện khi học sinh không nhận ra cách đọc mẫu. Thứ hai, và điều này đáng
nói hơn, điều quan trọng là ở mục đích và các cách chúng ta trình ra lỗi:
chúng ta mô phỏng lại cách đọc của học sinh không phải để giễu cười mà
với một thái độ chân thành, một mong mõi tha thiết: lúc này không phải là
vấn đề giọng của cô, giọng của em mà là tiếng nói chung của chúng ta. Cô
muốn giúp cho các em đọc được đúng, hay bài đọc của chúng ta… Cô mong
mỏi các em có một bài đọc văn hóa hơn về mặt phát âm.
d/ Biết phối hợp nhòp nhàng lời mô tả giọng đọc và làm mẫu:
Nhấn mạnh kó năng làm mẫu không có nghóa là xem nhẹ khả năng
mô tả giọng đọc bằng lời của giáo viên. Việc giáo viên có thể chỉ ra một
cách rõ ràng, tường minh, đònh lượng được các thông số âm thanh như: đọc to
hơn, nhỏ hơn, nhanh hơn, chậm lại, nhấn giọng, lơi giọng ,lên giọng, hạ

4
Sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp nâng cao chất lượng luyện đọc thành tiếng cho học sinh Tiểu học”

giọng, kéo dài giọng… chỗ này chỗ này chỗ kia chứng tỏ rằng họ có ý thức
về cách đọc của mình.
Nhưng điều đáng nói ở đây là trong thực tế dạy học, nhiều khi điều thầy
giáo ý thức được và việc thầy giáo làm lại không khớp với nhau. Thầy nói
phải lên giọng nhưng khi thầy đọc lại không lên giọng. Thầy nói phải đọc
với giọng ngân dài tha thiết nhưng khi thầy đọc thì không ngân dài tha thiết
… Những lúc đó thì quả đúng là “hãy đọc như thầy nói, đừng đọc như thầy
đọc”. Rồi khi lên lớp, thầy cho học sinh mô tả cách sẽ đọc – cần phải đọc
như thế nọ, cần phải đọc như thế kia – nhiều hơn là để các em đọc. Vì vậy
cũng như thầy, trò giỏi mô tả cách làm mà không làm được.
Ngược lại cũng có giáo viên, số này ít hơn, làm mẫu được nhưng
không gọi tên được chính xác các thông số âm thanh. Vì vậy khi luyện cho
học sinh họ gặp khó khăn do không chỉ ra được bằng lời những điểm sai lệch
của học sinh, không giúp cho học sinh chú ý vào những điểm nào cần điều
chỉnh. Những giáo viên này thường chỉ dùng một lệnh đơn điệu: “Hãy đọc”,
“Đọc lại”, “Nghe cô đọc và đọc lại”.
Phối hợp nhòp nhàng giữa lời mô tả và làm mẫu nghóa là có sự hài hòa
giữa những lời yêu cầu, chỉ dẫn về cách đọc và khả năng biểu diễn những
yêu cầu, chỉ dẫn này bằng giọng đọc của giáo viên.
3/ Giáo viên phải có vốn sống, có năng lực cảm thụ văn học:
Vốn sống năng lực cảm thụ văn học sẽ giúp giáo viên thâm nhập vào
tác phẩm, thấm đượm vào máu thòt của bài văn, tái hiện được hình tượng tác
phẩm. Như vậy, muốn đọc thành tiếng được tốt, trước hết giáo viên phải
hiểu, cảm nhận được văn bản.
* Các công việc cần làm để tổ chức quá trình dạy đọc thành tiếng cho
học sinh tiểu học:
1/ Chuẩn bò cho việc đọc:
Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bò tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc,
học sinh phải ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong
khoảng 30 – 35 cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi.

Ở lớp, khi được cô giáo gọi đọc, học sinh phải bình tónh, tự tin đứng dậy
không hấp tấp đọc ngay để có thời gian tạo tâm thế. Đọc cùng với phát biểu
trong lớp là hai hình thức giao tiếp trước đông người ở giai đoạn đầu tiên của
trẻ em nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bò để đảm bảo thành công,
tạo cho các em sự tự tin cần thiết để đi vào trong giao tiếp xã hội.

5
Sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp nâng cao chất lượng luyện đọc thành tiếng cho học sinh Tiểu học”
Giai đoạn đầu ở lớp 1, giáo viên nên gọi học sinh lên bảng đọc để đối
diện với tất cả các bạn – những người nghe. Giáo viên cần sửa cho học sinh
tư thế đọc. Tư thế đứng đọc bài vừa đàng hoàng, vừa thoải mái, sách phải
được mở rộng và cầm bằng hai tay.
2/ Luyện đọc to:
Để giao tiếp bằng lời có hiệu quả đồng thời cũng để tôn trọng người
nghe, người nói phải làm chủ âm lượng giọng nói của mình sao cho tất cả
người nghe cùng nghe rõ. Khi đọc thành tiếng, học sinh phải tính đến người
nghe, giáo viên phải cho các em hiểu rằng: các em đọc không chỉ cho mình
cô giáo mà cho tất cả các bạn trong lớp cùng nghe nên cần đọc với giọng đủ
lớn cho mọi người nghe rõ.
Khi học sinh đọc quá nhỏ, nhiều giáo viên đến gần các em để nghe
cho rõ. Làm như vậy khiến học sinh nghó rằng chỉ cần đọc cho cô giáo nghe
nên không cố gắng đọc to hơn. Để luyện cho những học sinh đọc quá nhỏ,
“lí nhí” giáo viên cần tập cho các em đọc to chừng nào bạn xa nhất trong lớp
nghe rõ mới thôi.
Để luyện cho học sinh đọc to, giáo viên phải động viên để các em tự
tin đồng thời luyện cho các em kó thuật nâng giọng cao hơn để đọc to hơn
cũng như luyện cho các em cách thở sâu để lấy hơi.
Nhưng đọc to cũng không có nghóa đọc quá to hoặc gào lên. Như thế
sẽ mệt cả người đọc và làm mệt cả người nghe. Có những học sinh hoặc do
muốn gây chú ý hoặc nhầm tưởng rằng đọc càng to càng tốt nên đã gào,

giáo viên lại cần điều chỉnh để các em đọc nhỏ lại. Thầy cô giáo cần đọc
mẫu để học sinh nhận rõ độ lớn của giọng như thế nào là vừa phải.
3/ Luyện đọc đúng:
Đọc đúng là tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,
không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không sót tiếng. Đọc đúng phải
thể hiện được hệ thống ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Đọc đúng
bao gồm đọc đúng các âm, các thanh, đọc đúng trọng âm, ngắt nghỉ đúng
chỗ. Cụ thể:
a/ Luyện cho học sinh làm chủ tia mắt đọc :
Trước hết phải luyện cho học sinh đọc không bỏ sót tiếng, không thêm
tiếng, không lạc dòng.
Cuối lớp 1, học sinh phải đọc trơn tiếng. Nhưng lúc này các em chưa
làm chủ được tia mắt nên khi đọc trên bảng, giáo viên vẫn dùng thước và khi
đọc trong sách, học sinh phải dùng que trỏ chỉ vào từng chữ một. Vì vậy

6
Sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp nâng cao chất lượng luyện đọc thành tiếng cho học sinh Tiểu học”
không chỉ bằng thước và que trỏ, nhiều học sinh lớp một và cả một số học
sinh lớp hai khi đọc còn bỏ sót, thêm tiếng hoặc lạc dòng các em chưa làm
chủ được tia mắt Với những học sinh này giáo viên phải quay lại với việc sử
dụng bằng que trỏ và thước hoặc cho học sinh đặt thước dưới từng dòng để
đọc , Nhưng nếu chúng ta cứ dùng thước và que trỏ mãi thì học sinh sẽ đọc
như đếm từng tiếng một, mỗi tiếng đều có trọng âm như khi đọc chính tả.
Như vậy các em đọc chưa trơn từ, chưa trơn cụm từ, chưa đọc trơn câu được.
Để luyện đọc trơn, giáo viên đọc mẫu rồi cho học sinh luyện đọc từ, ngư,õ
câu. Hình thức đọc: cá nhân, nhóm hoặc đồng thanh cả lớp.
b/ Luyện chính âm:
` c/ Luyện đọc đúng tiết tấu, đọc đúng chỗ ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu
câu. Học sinh phải biết dựa vào nghóa, dựa vào quan hệ ngữ pháp giữa các
tiếng, các từ, cụm từ để ngắt hơi cho đúng.

d/ Luyện cho học sinh làm chủ các thông số âm thanh riêng lẻ để đọc
diễn cảm như dạy kó thuật nâng giọng, hạ giọng, kéo dài giọng đọc, nhấn
giọng, lơi giọng đọc to, đọc nhỏ,….
4/ Luyện đọc nhanh:
Giáo viên giữ nhòp đọc cho học sinh đọc theo mẫu, cho học sinh đọc
tiếp nối , luyện đọc các câu khó.
5/ Luyện đọc diễn cảm:
Giáo viên tổ chức cho học sinh đàm thoại, nhận ra thể loại của văn
bản, hiểu ý đồ của tác giả, thảo luận với học sinh để xác đònh giọng điệu
chung của cả bài. Về thể loại, nếu đọc thơ phải chú ý tính nhòp điệu của
ngôn ngữ thơ ca, thể hiện được sự luân chuyển nhòp điệu của ngôn ngữ thơ
ca, tức là truyền đạt chất nhạc của thơ, thể hiện được sự luân chuyển nhòp
nhàng của các dòng thơ. Đọc văn xuôi thì điều quan trọng là cho thấy sự vận
động tư tưởng của tác giả.Nội dung chính của bài đọc sẽ giúp học sinh xác
đònh giọng đọc chung của cả bài: nhẹ nhàng, tha thiết, vui tươi, ngợi ca,
mạnh,mẽ, trầm lắng, buồn thương, … nhòp điệu của bài: nhanh, hơi nhanh, hơi
chậm, chậm,
Học sinh phân tích thể hiện, lập dàn ý và xác đònh giọng đọc của từng
đoạn.
Học sinh tập luyện để thể hiện giọng đọc của từng câu, đoạn, bài.
Tập luyện thể hiện là yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo đảm cho học
sinh thành công khi đọc trước người nghe.

7
Sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp nâng cao chất lượng luyện đọc thành tiếng cho học sinh Tiểu học”
Khi tập luyện giáo viên cần chỉ ra những chỗ khó đọc, những điểm nút
trong bài đòi hỏi học sinh phải hiểu được mới tìm cách thể hiện điều đó
trong giọng đọc. Cần nhớ rằng học sinh hiểu được tác phẩm đã khó mà thể
hiện dược sự hiểu đó bằng giọng đọc càng khó hơn.
Trong bước tập luyện, học sinh phải thảo luận, nhận xét về giọng đọc,

giải thích vì sao đọc như thế là hay, đọc như thế là chưa hay, chỗ nào trong
cách đọc của thầy, trong cách đọc của bạn làm mình thích .
Để luyện đọc, giáo viên cần biết trình ra những cách đọc khác nhau
trong thế đối lập để học sinh nhận ra được có cách đọc là đúng, có cách đọc
là không đúng, có cách đọc là hay, có cách đọc là không hay.
Cuối cùng học sinh phải luyện đọc cá nhân. Ở nhiều bài có thể cho
học sinh phân vai để làm sống lại những nhân vật của tác phẩm, để đọc
phân biệt lời tác giả và lời nhân vật , phân biệt lời nhân vật khác nhau.
PHẦN THỨ BA
III/ Kết thúc vấn đề:
1/ Kết quả nghiên cứu:
Qua một thời gian nghiên cứu đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng luyện đọc thành tiếng cho học sinh, tôi đã mạnh dạn tổ chức thực
hiện chuyên đề: “ Dạy luyện đọc thành tiếng cho học sinh khối III”. Từ đó
kết quả đọc của học sinh được nâng cao rõ rệt so với đầu năm học. Do vậy
tôi dự đònh triển khai áp dụng thực hiện ở tất cả các khối lớp trong năm học
2009 – 2010.
2/ Một số ý kiến đề xuất:
Muốn cho việc luyện đọc thành tiếng của học sinh được nâng cao, bản
thân xin đề xuất như sau:
a/ Đối với giáo viên:
Người giáo viên phải có tâm huyết với nghề: yêu nghề mến trẻ, luôn
học hỏi, trau dồi kinh nghiệm cho bản thân qua trao đổi với đồng nghiệp.
Phải nắm bắt kòp thời trình độ đọc của học sinh trong từng giai đoạn.
Phân chia được đối tượng đọc của học sinh để có kế hoạch cụ thể
trong việc luyện đọc cho học sinh.
Giáo viên không được quyền yêu cầu học sinh làm điều mà chính
mình cũng không làm được.

8

Sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp nâng cao chất lượng luyện đọc thành tiếng cho học sinh Tiểu học”
Giáo viên có ý thức tự điều chỉnh, trau chuốt giọng đọc của mình để
mình đọc đúng hơn, hay hơn.
Về kó thuâït giáo viên nên sử dụng máy ghi âm ghi lại giọng đọc của
mình. Máy ghi âm sẽ giúp giáo viên khách quan hóa, phát hiện ra các nhược
điểm để tự điều chỉnh, sữa chữa. Tự quan sát cách đọc của mình, giáo viên
sẽ dễ dàng dự tính được các lỗi đọc học sinh sẽ mắc phải.
b/ Đối với nhà trường:
Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên học tập nâng cao trình độ
nghiệp vụ.
Thường xuyên tổ chức nhiều chuyên đề trong đó có môn Tiếng việt
đưa ra các giải pháp để giáo viên trong toàn trường thảo luận.
Hỗ trợ đủ điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học nói
chung , môn Tiếng việt nói riêng.
*Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ về “ Nâng cao chất lượng luyện
đọc thành tiếng cho học sinh Tiểu học”mà bản thân đúc kết được qua một
năm thực hiện. Vì thời gian thực nghiệm chưa nhiều nên kết quả đạt được
chỉ là bước đầu. Rất mong sự đóng góp của Hội đồng khoa học các cấp và
các bạn đồng nghiệp để cho sáng kiến này tiếp tục hoàn thiện và áp dụng có
hiệu quả hơn trong những năm học tiếp theo.
, ngày 15 tháng 03 năm 2010
Người thực hiện


9
Sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp nâng cao chất lượng luyện đọc thành tiếng cho học sinh Tiểu học”
PHẦN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ,XẾP LOẠI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

- Tên đề tài: Biện pháp nâng cao chất lượng luyện đọc thành tiếng cho

học sinh Tiểu học
- Tác giả: Lê Tuyết Trinh

Trường ( đối với đơn vò trực thuộc
phòng GD & ĐT), tổ chuyên môn
( đối với đơn vò trực thuộc sở GD&ĐT)
Phòng GD&ĐT
(hoặc trường, trung tâm,
đơn vò trực thuộc sở)
Nội dung Xếp loại Nội dung Xếp loại
- Đặt vấn đề
- đặt vấn đề
- - Biện pháp
- biện pháp
- - Kết quả phổ biến, ứng dụng
- - Tính khoa học
-Tính khoa học
- Tính sáng tạo
…………
…………
…………
…………
…………
- Đặt vấn đề
- đặt vấn đề
- - Biện pháp
- biện pháp
- - Kết quả phổ biến, ứng dụng
- Tính khoa học
-Tính khoa học

- - Tính sáng tạo
- Tính sáng tạo
…………
…………
…………
…………
…………
Xếp loại chung: …………
Ngày 25 tháng 03 năm 2010
Hiệu trưởng
(Tổ trưởng chuyên môn)
Xếp loại chung: …………
Ngày tháng năm 2010
Thủ trưởng đơn vò
10
Sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp nâng cao chất lượng luyện đọc thành tiếng cho học sinh Tiểu học”
Căn cứ kết quả xét, thẩm đònh của hội đồng khoa học ngành GD&ĐT
cấp tỉnh; Giám đốc Sở GD&ĐT thống nhất công nhận SKKN và xếp loại:
………………
Ngày tháng năm 2010
GIÁM ĐỐC

11

×