Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

KHẢO SÁT Ý KIẾN SINH VIÊN VỀ VIỆC CÓ NÊN ĐƯA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH THÀNH MÔN HỌC TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.92 KB, 16 trang )

Nhóm 11:
1. Vũ Thị Thanh Tâm K084050839
2. Nguyễn Thị Như Ngọc K084050813
3. Phạm Thị Thanh Tân K084050840
4. Lê Hải Yến K084050880
5. Trần Thị Yến Nhi K084050817
Phân tích đề tài lý thuyết thống kê:
KHẢO SÁT Ý KIẾN SINH VIÊN VỀ VIỆC CÓ NÊN ĐƯA GIÁO DỤC
GIỚI TÍNH THÀNH MÔN HỌC TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC
A. Tổng quan về đề tài “Khảo sát ý kiến sinh viên về việc có nên đưa giáo dục giới tính
thành môn học trong trường đại học”:
Có lẽ trong chúng ta ít nhất đã một lần nghe thấy cụm từ “giáo dục giới tính” ở đâu đó trên
phương tiện thông tin đại chúng (sách, báo, internet,…) hay trong trường học. Nhưng thật sự
chúng ta có hiểu “giáo dục giới tính” một cách đầy đủ và chính xác?
Vậy “giáo dục giới tính” (GDGT) là gì?
Hiểu một cách chung nhất thì: GDGT là những kiến thức về cơ thể, về sinh lý học của sự sinh
sản, để biết làm chủ bản thân mình, biết cách ứng xử hợp lý với người khác phái, biết kiểm sóat sự
sinh sản và biết phòng ngừa bệnh tật.
I. Lý do và mục đích chọn đề tài:
1. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục giới tính đã trở thành một môn học trong một số chuyên ngành (quản lý giáo dục –
KHXH&NV,…) nhưng những kiến thức này là cần thiết cho mọi người do đó nó có nên trở thành
một môn học phổ biến trong tất cả các bậc học, mà chúng muốn đề cập ở đây là trong trường đại
học? Mỗi độ tuổi có những vấn đề về giới tính đặc trưng nên có những kiến thức về giới tính mà
đến một độ tuổi nhất định thì việc tìm hiểu mới là phù hợp. Sinh viên đại học là những người đã
đủ tuổi trưởng thành, bắt đầu phải chịu trách nhiệm với cuộc sống của mình. Ngoài vấn đề học tập
thì sinh viên phải đối mặt với rất nhiều những vấn đề khác mà có thể kể đến ở đây là các mối quan
hệ - tình bạn, tình yêu, những vấn đề sức khỏe sinh sản,… Thế nên những vấn đề GDGT rất quan
trọng trong giai đoạn này. Đây cũng chính là một phần lý do mà chúng tôi thực hiện đề tài này.
Thực tế hiện nay, xã hội đang lên tiếng phản ánh rất nhiều những nạn phá thai, sống thử, căn
bệnh thế kỷ HIV/AIDS, bệnh “hoa liễu” đang có xu hướng tăng cao,…những vấn nạn này xảy ra


do sự thiếu hiểu biết về vấn đề GDGT. Trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng cũng đã đề cập
1
đến những kiến thức này, đặc biệt là có những sách, báo, trang web,… nhưng không phải lúc nào
cũng chính xác và lành mạnh. Nếu không có một sự hiểu biết và định hướng rõ ràng, đúng đắn thì
rất dễ có những hiểu biết, suy nghĩ lệch lạc, gây ra những hậu quả khôn lường. Do đó nhóm chúng
tôi có một ý kiến là nên đưa GDGT trở thành một môn học trong tất cả các trường đại học và
muốn khảo sát ý kiến sinh viên về vấn đề này. Đây là lý do chính mà chúng tôi chọn thực hiện đề
tài này.
2. Mục đích của đề tài:
Đề tài của chúng tôi có 3 mục đích chính:
- Xem mức độ hiểu biết của mọi người về những vấn đề về GDGT (bằng những câu hỏi
kiểm tra kiến thức, đồng thời cung cấp thêm kiến thức cho các bạn qua một vài câu
hỏi)
- Xem mức độ quan tâm của các bạn đến GDGT, liệu rằng đây có phải là một vấn đề mà
sinh viên ngày nay đang quan tâm hay nó chỉ là một vấn đề không có mấy thú vị.
- Biết được ý kiến chủ quan của mọi người về việc đồng ý hay không đồng ý GDGT là
môn học trong trường đại học, và qua đó cũng có những nguyện vọng, yêu cầu của các
bạn khi học môn này (qua những câu hỏi về hình thức thi, hình thức học).
- Tìm mối quan hệ giữa các biến nếu có.
II. Quá trình thực hiện đề tài:
Chúng tôi đã thực hiện đề tài này với sự thống nhất và nỗ lực của tất cả các thành viên trong
nhóm. Từ việc đưa ra ý tưởng đến thành lập bảng câu hỏi, đi khảo sát và phân tích xử lý số liệu là
sự đóng góp chung của cả nhóm.
Ban đầu nhóm chúng tôi không nghĩ ý kiến đưa môn học GDGT vào trường đại học lại được
sự nhất trí, ủng hộ nhiệt tình từ phía các sinh viên nhưng kết quả của cuộc kháo sát khiến chúng tôi
thật sự bất ngờ, hầu hết các đối tượng được khảo sát tỏ ra rất hứng thú về vấn đề này và họ rất
nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi hoàn thành cuộc khảo sát tốt đẹp.
B. Phân tích đề tài:
I. Phân tích chung:
1. Tổng thể và mẫu:

- Tổng thể: tổng thể bộc lộ.
- Đối tượng khảo sát: sinh viên đang theo học tại các trường đại học chính quy (do thời
gian và chi phí có hạn nên chúng tôi chỉ giới hạn đối tượng khảo sát như trên).
- Mẫu: 152 sinh viên thuộc Khoa kinh tế - ĐHQG và trường ĐHKHXH&NV.
- Dữ liệu định tính và định lượng.
2. Thu thập dữ liệu:
Dạng dữ liệu: sơ cấp
2
Nguồn thu thập dữ liệu sơ cấp:
- Điều tra không thường xuyên
- Điều tra không toàn bộ: điều tra chọn mẫu
Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp: Thu thập dữ liệu trong nghiên cứu quan sát: khảo sát
dạng viết (làm bảng câu hỏi cho đối tượng khảo sát tự điền)
Kỹ thuật chọn mẫu: kỹ thuật lấy mẫu phi xác suất cụ thể là lấy mẫu định mức (50% sinh viên
Khoa kinh tế, 50% sinh viên ĐHKHXH&NV; trong mỗi trường khảo sát 50% nữ, 50% nam). (Nếu
như có đủ thời gian và kinh phí thì chúng tôi có thể kết hợp hình thức lấy mẫu phi xác suất nêu
trên với lấy mẫu xác suất dựa trên danh sách sinh viên của các trường để có kết quả khách quan và
chính xác hơn).
Kỹ thuật thiết kế bảng câu hỏi:
- Câu hỏi đóng (câu hỏi: 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,14)
- Câu hỏi mở (câu hỏi: 12,13,15)
- Câu hỏi liệt kê một lựa chọn (từ câu 1 đến câu 14)
- Câu hỏi liệt kê nhiều lựa chọn (câu 15)
- Câu hỏi phân mức (câu 7,8,9)
Các loại thang đo dùng trong bảng câu hỏi:
- Norminal: câu 1,2,3,4,5,6,10,12,13,14,15
- Odinal: câu 7,8,9
- Scale: câu 11
II. Phân tích chi tiết:
1. Mức độ hiểu biết của sinh viên về GDGT:

Chúng tôi đặt 5 câu hỏi với mức độ từ dễ đến khó nhằm tìm hiểu sự hiểu biết của sinh viên về
GDGT.
Sau khi khảo sát 152 sinh viên (sv) thì kết quả thu được như sau:
♦ Câu 1 : Theo bạn, giáo dục giới tính là gì?
a. Là những kiến thức về cơ thể, về sinh lý học của sự sinh sản, để biết làm chủ bản thân
mình, biết cách đối xử với người khác phái, biết kiểm sóat sự sinh sản và biết phòng
ngừa bệnh tật.(đúng)
b. Là những kiến thức về tâm sinh lý vị thành niên, cách quan hệ giữa người với người (tình
yêu, tình bạn..) và tình dục an toàn.
c. Là những kiến thức về tình yêu, giới tính lành mạnh.
d. Là những kiến thức về cấu tạo cơ thể nam nữ, sự sinh sản, tình dục và các bệnh về tình
dục.
Trong đó:
- Trả lời câu a: 105 sv, chiếm 69,1%
3
- Trả lời câu b: 30 sv, chiếm 19,7%
- Trả lời câu c: 2 sv, chiếm 1,3%
- Trả lời câu d: 15 sv, chiếm 9,9%
Có 69,1% sinh viên trả lời đúng câu hỏi GDGT là gì. Điều này chứng tỏ một bộ phận lớn sinh
viên đã hiểu một cách khái quát và đầy đủ về “GDGT”. Số còn lại – 30,9% chưa hiểu một cách
đầy đủ về GDGT hoặc chỉ mới có một khái niệm quá chung chung về vấn đề được hỏi. Qua đó ta
thấy các bạn sinh viên cũng đã nhận thức được thế nào là GDGT tuy không thể nói là có sự hiểu
biết tường tận về việc ấy.
♦ Câu 2 : HIV là gì?
a. Là virus gây suy giảm hệ miễn dịch ở người.(đúng)
b. Là một căn bệnh thế kỉ chưa có thuốc chữa trị.
c. Một loại vi khuẩn gây suy giảm hệ miễn dịch ở người.
d. Không biết, không quan tâm
Trong đó:
- Trả lời câu a: 106 sv, chiếm 69,7%

- Trả lời câu b: 35 sv, chiếm 23%
- Trả lời câu c: 10 sv, chiếm 6,6%
- Trả lời câu d: 1 sv, chiếm 0,7 %
Một điều đáng buồn là chỉ có 69,7% sv trả lời đúng câu hỏi này, trong khi điều này đã được
tuyên truyền rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, thậm chí HIV đã được đề cập
trong các bậc học. Có tới 23% sv cho rằng HIV là một căn bệnh và 6,6 % sv không phân biệt được
HIV là vi khuẩn hay virus. Và vẫn có 1 sv (chiếm 0,7%) không biết hoặc không quan tâm đến vấn
đề này. Một sự dửng dưng cần phải suy nghĩ.
♦ Câu 3 : Biểu hiện của AIDS:
a. Sụt cân nhiều, ho kéo dài, tiêu chảy, sốt, sưng hạch, ra mồ hôi đêm, đau họng, lở
loét, có nốt trên da...(đúng)
b. Tim đập, chân run, ra mồ hôi nhiều, đau nhức toàn thân,…
c. Sốt cao, đau khắp người, đau đầu, Mệt mỏi, ho khan, chảy nước mũi, đau họng.
d. Bệnh xuất hiện với cảm giác ớn lạnh hoặc lạnh run kèm theo nhức đầu , đau vùng thắt
lưng và mệt mỏi nhiều. Trong thời gian đầu đau nhức nhiều cơ bắp, có thể đau một số
khớp.
Trong đó:
- Trả lời câu a: 119 sv, chiếm 78,3%
- Trả lời câu b: 5 sv, chiếm 3,3%
- Trả lời câu c: 7 sv, chiếm 4,6%
- Trả lời câu d: 21 sv, chiếm 13,8%
Đối với câu hỏi này, chúng tôi đã đưa ra những triệu chứng của những căn bệnh quen thuộc
khác và đáp án đúng cũng rất cụ thể. Vì vậy, phần trăm số người trả lời đúng câu hỏi này cũng cao
hơn hai câu hỏi trước ( 78 ,3%). Không biết có phải là một sự đùa giỡn hay không biết thật khi có
4
5 sv (3,3%) chọn đáp án là tim đập, chân run, ra mồ hôi nhiều, đau nhức toàn thân (bệnh tương tư
(^_^), đây cũng là một điều thú vị khi chúng tôi thống kê ^.^)
♦ Câu 4 : Các bệnh nào không phải ở hệ sinh dục mà lây qua đường tình dục?
a. AIDS, viêm gan B (đúng)
b. Giang mai, AIDS, lậu

c. Ghẻ, AIDS, viêm gan B
d. Sùi mào gà, viêm gan B
e. Không biết
Trong đó:
- Trả lời câu a: 34 sv, chiếm 22,4%
- Trả lời câu b: 76 sv, chiếm 50%
- Trả lời câu c: 8 sv, chiếm 5,3%
- Trả lời câu d: 20 sv, chiếm 13,2%
- Trả lời câu e: 14 sv, chiếm 9,2%
Câu hỏi này đã có một mức độ khó nhất định. Những căn bệnh: giang mai, sùi mào gà, ghẻ,
lậu là những bệnh “hoa liễu” mà bậc phổ thông chúng ta đã từng được giới thiệu và có lẽ mọi
người đều biết chúng lây qua đường tình dục, AIDS cũng đã được tuyên truyền rất nhiều về con
đường lây nhiễm của nó. Một điều đáng chú ý là cũng có những căn bệnh khác cụ thể ở đây là
viêm gan B cũng lây qua đường tình dục. Thế nhưng thông qua tỉ lệ số người chọn đáp án ta thấy
có đến 50% số sv không biết viêm gan B là một căn bệnh không ở hệ sinh dục nhưng lây qua
đường tình dục giống như AIDS. Điều này đồng nghĩa là 50% số sv không phân biệt được giang
mai, lậu có phải là bệnh ở hệ sinh dục hay không. Đáng chú ý là có đến 14 sv (9,2%) “không biết”
kiến thức này – một con số không nhỏ. Và chỉ có 34 sv (22,4%) trả lời đúng câu hỏi này – một tỉ lệ
quá khiêm tốn.
 Kiến thức của sv về các bệnh lây qua đường tình dục vẫn chưa đầy đủ.
♦ Câu 5 : Tình dục an toàn là gì?
a. Là các hình thức tình dục không dẫn đến mang thai ngoài ý muốn và lây nhiễm các
bệnh qua đường tình dục như: lậu, giang mai, HIV/AIDS...(đúng)
b. Là các hình thức quan hệ tình dục mà người có quan hệ tình dục có thể tự bảo vệ mình
không bị mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, kể cả HIV/AIDS.
c. Là các hình thức quan hệ tình dục sau hôn nhân (giữa vợ và chồng)
d. Không biết
Trong đó:
- Trả lời câu a: 65 sv, chiếm 42,7%
- Trả lời câu b: 74 sv, chiếm 48,7%

- Trả lời câu c: 10 sv, chiếm 6,6%
- Trả lời câu d: 3 sv, chiếm 2%
5
Qua kết quả trên ta thấy số người trả lời đúng chỉ chiếm 42,7%, chưa tới một nửa số sinh viên
được hỏi. Mọi người thường phân vân giữa câu a và câu b do chúng có nội dung gần giống nhau,
chỉ những người có kiến thức tương đối tốt mới có thể chọn được đáp án chính xác. Có 74 sv
(chiếm 48,7%) cũng hiểu về tình dục an toàn nhưng chưa đủ, họ không biết việc tránh mang thai
ngoài ý muốn là một nội dung trong vấn đề này.
Trong đó có 10 sv (chiếm 6,6%) chưa có nhận thức đúng về vấn đề tình dục an toàn, cho rằng
chỉ có hình thức quan hệ tình dục sau hôn nhân (giữa vợ và chồng) mới là an toàn nhưng trong
thực tế quan hệ tình dục giữa vợ và chồng vẫn có thể truyền bệnh cho nhau nếu 1 trong 2 người
mắc phải những căn bệnh lây qua đường tình dục.
Số còn lại, 3 sv ( chiếm 2%) không biết về vấn đề này.
Nhận xét chung:
Trả lời đúng
Frequenc
y Percent
Valid
Percent
Cumulative
Percent
Valid 0 4 2.6 2.6 2.6
1 14 9.2 9.2 11.8
2 37 24.3 24.3 36.2
3 52 34.2 34.2 70.4
4 35 23.0 23.0 93.4
5 10 6.6 6.6 100.0
Total 152 100.0 100.0
Đây là bảng số liệu về tổng số câu đúng mà sinh viên đã trả lời trong phần kiểm tra kiến thức.
Qua bảng trên ta thấy:

- Không trả lời đúng câu nào : 4 sv, chiếm 2,6 %
- Trả lời đúng 1/5 câu : 14 sv, chiếm 9,2%
- Trả lời đúng 2/5 câu: 37 sv, chiếm 24,3%
- Trả lời đúng 3/5 câu: 52 sv, chiếm 34,2%
- Trả lời đúng 4/5 câu: 35 sv, chiếm 23%
- Trả lời đúng 5/5 câu: 10 sv, chiếm 6,6%
Chúng tôi chọn mức trả lời đúng 3 là mức trung bình, dưới trung bình ( 0-2 câu), trên trung
bình (4-5 câu).
Số người trả lời đúng từ 0-2 câu chiếm 46,1%, trả lời đúng 3 câu chiếm 34,2% ,trả lời đúng từ
4-5 câu là 29,6%. Qua đó ta thấy số người trả lời đúng ở mức dưới trung bình chiếm gần một nửa
và số người trả lời đúng hoàn toàn 5 câu rất nhỏ (6,6 %).
6

×