Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TÌM HIỂU MỘT VÀI LUẬT TỤC CỦA NGƯỜI MƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.19 KB, 25 trang )

Tiểu luận –Luật Tục người Mường
TIỂU LUẬN LUẬT TỤC
ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU MỘT VÀI LUẬT TỤC CỦA
NGƯỜI MƯỜNG
1
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
MỤC LỤC
I.Vài nét sơ lược về cuộc sống người Mường
Lời mở đầu
1. Dân số
2. Cư trú
3. Đặc điểm kinh tế
4. Hôn nhân gia đình
5. Văn hóa
6.Nhà cửa
7. Trang phục
II .Một Số tục lệ cơ bản của người Mường
1.Phong tục cưới hỏi
2.Tang lễ ma chay
3.Phong Tục lễ tế của người mường
4.Tục hát Xec-Bùa của người Mường
III. Kết luận
Lời mở đầu
2
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
Mường là một dân tộc khá đông ở đất nước ta.
Không phải ngay từ buổi đầu lịch sử, dân tộc Mường đã có tộc danh như
ngày nay. Và đương nhiên trước đây, người Mường cũng không dùng
danh từ này làm tên gọi cho dân tộc mình. Theo Trần Từ (tức Nguyễn
Đức Từ Chi), Mường là từ dùng để chỉ một vùng cư trú của đồng bào bao


gồm nhiều làng. Mỗi vùng được đặt dưới sự cai quản của một nhà Lang.
Qua sự tiếp xúc giao lưu giữa người Mường và người Kinh, người Kinh
đã sử dụng từ Mường để gọi dân tộc này. Cho đến tận bây giờ, Người
Mường vẫn từ gọi mình là mol, moăn như ở Hoà Bình, Mon, mwanl như
ở Thanh Hoá. Còn ở Phú Thọ, đặc biệt là ở Thanh Sơn, nơi Người
Mường tập trung đông đảo nhất cũng như Người Mường ở huyện Yên
Lập và một số xã thuộc huyện Thanh Thuỷ đồng bào tự gọi mình là Mol,
Monl. Mặc dù những từ này có biến âm hơi khác ở mỗi vùng, mỗi địa
phương nhưng đều quan niệm giống nhau về mặt nghĩa. Tất cả những từ
mà đồng bào dùng để chỉ dân tộc mình có nghĩa là người. Vì lẽ đó mà
người Mường thường tự xưng mình là con Mol hoặc là con monl: con
người. Còn từ Mường vốn là từ mương đồng bào dùng để chỉ nơi cư trú
chứ không liên quan gì đến tộc danh ngày nay của mình. Mặc dù vậy
cùng sự biến động của lịch sử cũng như quá trình giao lưu kinh tế, văn
hoá với các dân tộc anh em khác cho đến nay “Mường” đã được đồng bào
chấp nhận và coi đó là tộc danh của mình, và hiển nhiên, họ tự nhận mình
là người Mường như ngày nay. Do đó, Mường đã trở thành tên gọi chính
thức và duy nhất của tộc người này để phân biệt với các dân tộc khác.
Tộc danh Mường đã được các tổ chức, thể chế, các nhà nghiên cứu và
nhân dân dùng khi tìm hiểu, nghiên cứu gọi dân tộc này: Người Mường.
Người Mường còn có tên gọi khác là:Mol, Mual, Moi, Moi bi, Au tá, Ao
tá. Thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường.
3
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
I.Vài nét sơ lược về cuộc sống người Mường
1. Dân số
Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê công bố năm 1989,
dân tộc Mường ở Việt Nam mới chỉ có 914.396 người nhưng 10
năm sau, tức năm 1999, vẫn theo kết quả điều tra dân số của Tổng
cục Thống kê công bố, người Mường đã tăng lên 1.137.515 người,

chỉ sau các dân tộc Kinh, Tày, Thái, Hoa, Khơme.
2. Cư trú
Dân tộc này cư trú ở nhiều tỉnh phía Bắc, nhưng tập trung đông
nhất ở Hòa Bình và các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa.
3. Đặc điểm kinh tế
Đồng bào Mường
4
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
sống định canh định cư ở miền núi, nơi có nhiều đất sản xuất, gần
đường giao thông, thuận tiện cho việc làm ăn. Người Mường làm
ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương thực chủ yếu. Trước đây,
đồng bào trồng lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ và gạo nếp là lương thực
ăn hàng ngày.
Nguồn kinh tế phụ đáng kể của gia đình người Mường là khai thác
lâm thổ sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, quế, mật
ong, gỗ, tre, nứa, mây, song... Nghề thủ công tiêu biểu của người
Mường là dệt vải, đan lát, ươm tơ. Nhiều phụ nữ Mường dệt thủ
công với kỹ nghệ khá tinh xảo.
4. Văn hóa
Đồng bào Mường có nhiều ngày hội quanh năm: Hội xuống đồng
5
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
(Khung mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa (tháng7, 8 âm
lịch) lễ cơm mới...
(Hội xuống đồng)
Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mường khà phong phú, có
các thể loại thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ.
Người Mường còn có hát ru em, đồng giao, hát đập hoa, hát đố, hát
trẻ con chơi... Cồng là nhạc cụ đặc sắc của đồng bào Mường, ngoài
ra còn nhị, sáo trống, khèn lù. Người Mường ở Vĩnh Phú còn dùng

ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà, tạo thành những âm
thanh để thưởng thức gọi là "đâm đuống".
5. Nhà cửa
Nhà người Mường có những
đặc điểm riêng :nhà thường
6
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
ba gian hai chái. Bộ khung với vì kèo kết cấu đơn giản. Đặc trưng ở cái
kèo có pà wặc (cái cựa) đè lên cây đòn tay cái để đỡ kèo khỏi bị tụt. Nhà
có chái nhưng không có vì kèo chái như nhà người Việt. Chỗ dựa của bộ
xương mái là nhờ vào hai cây pắp cal và một cây léo hè, đầu gác lên
thanh giằng hai kèo gần chỏm kèo.
Mặt bằng sinh hoạt có điểm giống nhà người Việt: nhà cũng có qui định
có tính ước lệ: Nếu chia nhà theo chiều ngang: phần nhà dành cho sinh
hoạt của nữ gọi là "bên trong". Phần dành cho sinh hoạt của nam giới gọi
là "bên ngoài". Và, nếu chia nhà theo chiều dọc, nửa nhà phía sau (nơi đặt
bàn thờ tổ tiên) gọi là "bên trên".
Còn nửa kia gọi là "bên dưới". Một
đặc trưng nữa là hình thức cấu tạo
của bếp: bếp được đặt trong một
cái khung gỗ hình chữ nhật. Bống
góc của cái khung này dựng bốn
cột làm giá đỡ các dàn (dựa) bếp.
một trong hai cột giáp vách bao giờ cũng buộc một cái chum nhỏ để đựng
mẻ (người Mường rất ưa các món ăn có vị chua). Ghế đặt xung quanh nhà
bếp là ghế dài thấp chân. Trong khuôn viên thường có một miếu thổ thần,
quy mô nhỏ như một cái lều.
7
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
5. Trang phục

Mỗi dân tộc đềucó đặc trưng riêng trang phuc về tạo hình và phong
cách thẩm mỹ trên trang phục. trang phuc của người Mường cũng
có những nét độc đáo riêng của nó
+ Trang phục nam
Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dưới hoặc
thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông.
Đầu cắt tóc ngắn hoặc quấn khăn trắng. Quần lá tọa ống rộng dùng
khăn thắt giữa bụng còn gọi là "khăn quần". Xưa có tục để tóc dài
búi tóc. Trong lễ hội
dùng áo lụa tím hoặc tơ
vàng, khăn màu tím
than, ngoài khoác đôi
áo chúng đen dài tới
gối, cái cúc nách và
sườn phải.
+ Trang phục nữ
áo mặc thường ngày có
tên là áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, thân
ngắn hơn so với áo cánh người Kinh, ống tay dài, áo màu nâu hoặc
trắng (về sau có thêm các màu khác không phải loại vải cổ truyền).
Bên trong là loại áo báng, cùng với đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo
ngắn. Đầu thường đội khăn trắng, xanh với phong cách không cầu
kỳ như một số tộc người khác. Váy là loại váy kín màu đen. Toàn
bộ phận được trang trí là đầu váy và cạp váy, khi mặc mảng hoa
văn nổi lên giữa trung tâm cơ thể. Đây là một phong cách trang trí
và thể hiện ít gặp ở các tộc khác trong nhóm ngôn ngữ và khu vực
láng giềng (Trừ nhóm Thái Mai Châu, Hòa Bình do ảnh hưởng văn
hóa Mường mà mặc thường ngày tương tự như họ) Nhóm Mường
8
Tiểu luận –Luật Tục người Mường

Thanh Hóa có loại áo ngắn chui đầu, gấu lượn, khi mặc cho vào
trong cạp váy và cao lên đến ngực. Phần trang trí hoa văn trên cạp
váy gồm các bộ phận: rang trên, rang dưới, và cao. Trong dịp lễ,
Tết họ mang chiếc áo dài xẻ ngực thường không cài khoác ngoài
bộ trang phục thường nhật vừa mang tính trang trọng vừa phô được
hoa văn cạp váy kín đáo bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn xẻ
ngực thường mang theo chiếc yếm bên trong. Về cơ bản giống yếm
của phụ nữ Kinh nhưng ngắn hơn.
II .Một Số tục lệ cơ bản của người Mường
1.Phong tục cưới hỏi
Mỗi dân tộc có một phong tục, một nét văn hóa riêng trong nghi lễ hỏi –
cưới. Đám cưới của người Mường ở Ao Luông (Văn Chấn, Yên Bái)
cũng có những điểm độc đáo khác biệt, mang đậm nét văn hóa đặc trưng
của họ. Người Mường rất tôn trọng sự tự nguyện trong việc dựng vợ gả
chồng cho con cái.
Trước đây người Mường Ao Luông có phong tục cưới xin rất phức tạp,
nhiều nghi lễ. Việc hôn nhân của con cái được quan niệm là do “cha mẹ
đặt đâu, con ngồi đấy”, bố mẹ ưng ý thì con cái phải thuận theo bố mẹ.
Ngày nay, việc cưới hỏi của người Mường đã giảm bớt phép tắc, đã được
tự do yêu đương, tự do tìm hiểu.
Lễ hội Nàng Han tổ chức hàng năm từ ngày
5/5 đến hết tháng 3 âm lịch cũng là dịp để
trai gái tìm hiểu lẫn nhau. Khi đã tìm hiểu
9
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
kỹ thì báo với hai bên cha mẹ để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho một
đám cưới. Lúc này, nhà trai sẽ tìm một ông mối, nhà gái tìm một bà mối
đến để đôi bên gia đình nói chuyện, đối đáp với nhau. Người Mường Ao
Luông cũng có quan niệm giống người Kinh về những điều kiêng kỵ
trong hôn nhân, đó là những người cùng họ tộc không được lấy nhau,

phải cách nhau ít nhất là 3 đời.
Khi sang nhà gái dạm hỏi, ông mối phải mang theo 12 chiếc bánh sừng
bò (bánh gói bằng lá cây chít), một chai rượu gạo nếp, đặt trước với bố
mẹ cô gái để thưa chuyện. Bố mẹ cô gái nếu đồng ý thì nhận và làm một
bữa cơm chiêu đãi ông mối rồi nhà gái treo 12 chiếc bánh lên cột nhà gần
khu bếp 3 ngày 3 đêm.
Trong khoảng thời gian 3 ngày 3 đêm đó nếu có con chim cú mèo kêu thì
đó là điềm báo không tốt, trai gái hai nhà không nên lấy nhau. Ngược lại,
nếu không có cú mèo kêu thì là điềm tốt, sau 3 ngày nhà gái sẽ gọi ông
mối nhà trai đến, mang rượu ra uống và đồng ý gả con gái.
Lễ dạm hỏi của người Mường Ao Luông trước kia thông thường phải trải
qua 5 lần đi lại:
Lần 1: Nhà trai mang 1 chai rượu, buồng cau, lá trầu, chè khô.
Lần 2: Khi nhà gái nhận lời thì mang bánh chưng, rượu, chè khô.
Lần 3: Mang theo bánh dày, 2 chai rượu, 1 buồng cau, chè khô.
Lần 4: Nhà trai mang đến bánh dày và rượu.
Lần 5: Nhà trai mang đến cau, trầu, bánh dày và rượu và đây là lần
nhà trai chính thức xin ngày ăn hỏi.
Theo thời gian, việc cưới xin của người Mường đã đơn giản hơn rất
nhiều, nhà trai sau khi đến nhà gái thưa chuyện nếu được nhà gái đồng ý
thì về chuẩn bị lễ ăn hỏi với các lễ vật thông thường như: rượu, thịt, tiền
mặt sau đó chọn ngày lành tháng tốt để tổ chức đám cưới.
Cô dâu khi về nhà chồng thường có một số của hồi môn do chính tay
mình làm như: chăn, chiếu, gối, đệm tặng những người già, bố, mẹ, anh,
10

×