Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Phân tích hiệu quả hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Phát triển tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.74 KB, 91 trang )

1
GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1
CHƯƠNG 2 10
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG HOẠT ĐỘNG PHI LỢI NHUẬN 10
CHƯƠNG 3 38
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CHI NHÁNH NGÂN
HÀNG PHÁT TRIỂN TỈNH SƠN LA 38
CHƯƠNG 4 75
THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 75
VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG 75
PHÁT TRIỂN TỈNH SƠN LA 75
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới hiện đại đã chứng minh vai trò quan trọng
của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đối với nền kinh tế thông qua
việc đẩy mạnh huy động các nguồn vốn tập trung và tài trợ có hiệu quả cho các dự
án phát triển, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng của các quốc gia. Các dự án đầu
từ phát triển thông thường đều có khả năng hoàn vốn và hiệu quả tài chính ở một
mức độ nhất định và có khả năng thu hút nguồn vốn dồi dào từ thị trường để đầu tư.
Do vậy, tín dụng cho đầu tư phát triển đã được hình thành trên thị trường ở hầu hết
các nền kinh tế và chức năng tài trợ phát triển ở tất cả các nền kinh tế đều có một
điểm chung là chủ yếu thực hiện thông qua tín dụng. Chức năng tín dụng phát triển
này được biết đến rộng rãi trên thế giới dưới hình thức cho vay theo chính sách, tài
trợ phát triển và được các tổ chức tài chính trung gian thực hiện với tên gọi là các tổ
chức tài trợ phát triển (DFI) của Nhà nước hay là các ngân hàng phát triển.
2
Cho đến nay, mô hình ngân hàng phát triển của các nước trên thế giới vẫn là
một mô hình gây ra rất nhiều tranh cãi do ngân hàng phát triển là một định chế rất


đặc biệt, không theo một thông lệ cứng nhắc và cũng không thuộc hệ thống ngân
hàng của các nền kinh tế một cách chính thống. Mặc dù có rất nhiều tranh cãi liên
quan đến mô hình, hoạt động của các ngân hàng phát triển nhưng không ai có thể
phủ nhận vai trò của ngân hàng phát triển đối với các nền kinh tế. Các ngân hàng
phát triển đã và đang là những định chế không thể thiếu của nền kinh tế, đóng góp
đáng kể vào sự phát triển của mỗi nền kinh tế và khắc phục khiếm khuyết của thị
trường tài chính.
Đối với Việt Nam, do hoàn cảnh lịch sử cũng như trình độ phát triển kinh tế,
tài trợ phát triển trong suốt một thời gian dài đồng nghĩa với việc chi tiêu của ngân
sách nhà nước cho hạ tầng cơ sở hay trộn lẫn vào hoạt động cho vay thương mại
của hệ thống ngân hàng thương mại. Khái niệm tài trợ phát triển ở Việt Nam chỉ
dần định hình vào những năm 90 khi hệ thống ngân hàng thương mại bắt đầu có sự
cải tổ mạnh mẽ để thực sự trở thành ngân hàng thương mại đúng nghĩa. Và đến năm
2006, khái niệm tài trợ phát triển mới thực sự được chính thức thể chế hoá bằng mô
hình của Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Sau 6 năm hoạt động, Ngân hàng Phát
triển Việt Nam đang dần khẳng định vai trò như là công cụ đặc biệt quan trọng của
Chính phủ trong việc tài trợ cho các chương trình và dự án phát triển ở Việt Nam.
Ngân hàng phát triển Vệt Nam là ngân hàng hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận nhưng phải bảo đảm vốn và bù đắp chi phí. Ngân hàng được Chính phủ giao
nhiệm vụ thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước góp phần
khai thác các nguồn vốn trong xã hội để đầu tư các dự án phát triển thuộc các
ngành, các vùng, các sản phẩm trọng điểm, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
khai thác các tiềm năng to lớn của đất nước cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hóa.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra từ năm 2008, tiếp đó là cuộc
khủng hoảng nợ công năm 2011 đã có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của
kinh tế toàn cầu trong đó có Việt Nam.Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
3
toàn cầu đã làm bộc lộ những yếu kém nội tại của nền kinh tế Việt Nam trong đó có
hệ thống ngân hàng (biến động cao về lãi suất, nợ xấu tiềm ẩn, quản trị rủi ro với

năng lực tài chính kém lành mạnh,…). Vì vậy, để thực hiện nhiệm vụ cấp bách mà
tại Hội nghị Trung ương ba (khoá XI) đã đề ra là: tái cấu trúc nền kinh tế, tái cấu
trúc thị trường tài chính với nhiệm vụ trọng tâm là tái cấu trúc ngân hàng thì một
vấn đề quan trọng đặt ra là phải đánh giá hiệu qua hoạt động của ngân hàng để từ đó
thực hiện các biện pháp tái cấu trúc hợp lý như tái cơ cấu lại mô hình hoạt động,
hoặc có thể hợp nhất, sáp nhập, nhà nước mua lại …Do vậy việc phân tích và đánh
giá hiệu quả hoạt động của Ngân hàng phát triển nói chung và Chi nhánh Ngân
hàng Phát triển Sơn La nói riêng là rất quan trọng để từ đó đề ra các giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động của Chi nhánh, đồng thời cũng là cơ sở để hình thành nên
một mô hình Ngân hàng phát triển phục vụ đắc lực cho mục tiêu phát triển kinh tế
đất nước.
Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề trên và qua tìm hiểu thực tế, tác giả chọn
đề tài "Phân tích hiệu quả hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Phát triển tỉnh Sơn
La" làm đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình.
1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Thực tế đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới việc phân tích hiệu
quả hoạt động của các ngân hàng, mỗi luận văn đều nghiên cứu với những cách tiếp
cận ở mức độ và phạm vi khác nhau có những đóng góp mới về mặt thực tiễn và
đưa ra được những đề xuất hết sức quan trọng cho các ngân hàng cũng như cho các
nhà quản lý.
Để học hỏi được những kinh nghiệm của các đề tài trước, đồng thời khắc
phục những nhược điểm của các đề tài đó nhằm tự hoàn thiện đề tài bản thân cá
nhân tôi tự nghiên cứu, tôi xin được hệ thống và đưa ra việc phân tích hiệu quả hoạt
động của các đề tài khác nghiên cứu như thế nào? Cụ thể:
Về quan điểm hiệu quả hoạt động của một tổ chức tín dụng, các đề tài nghiên
cứu "Phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt
Nam" (Đinh Thị Hậu -2008) ; “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư của
4
nhà nước” (Trần Công Hoà -2008) ; “Hoàn thiện phương pháp phân tích năng lực
và hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng chính sách tỉnh Hà Tĩnh" (Vừ Quang Trung-

2011) đều có quan điểm: hiệu quả hoạt động của một đơn vị là mối tương quan
giữa đầu vào (sử dụng nhân tài, vật lực của đơn vị) và đầu ra (sản phẩm) của đơn vị
nhằm đạt kết quả cao nhất đối với TCTD nói riêng và của toàn xã hội nói chung.
Hiệu quả hoạt động bao gồm hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Riêng trong
nghiên cứu của thạc sỹ Vừ Quang Trung còn nghiên cứu thêm quan điểm về năng
lực hoạt động. Năng lực hoạt động là “khả năng làm việc tốt, nhờ có phẩm chất đạo
đức, cơ sở vật chất và trình độ chuyên môn” và đánh giá năng lực hoạt động là xem
xét lại những hoạt động mà tổ chức tiến hành và hệ thống bên trong của tổ chức đã
và đang vận hành như thế nào.
Về cách tiếp cận phân tích hiệu quả hoạt động, mặc dù các nghiên cứu đều
đề cập đến hiệu quả kinh tế - xã hội nhưng trong nghiên cứu của thạc sỹ Đinh Thị
Hậu do đặc thù là NHTM nên tác giả chỉ đi sâu phân tích vào hiệu quả kinh tế của
bản thân ngân hàng đó, phân tích về mặt xã hội chưa được tác giả đề cập đến. Đối
với nghiên cứu của thạc sỹ Vừ Quang Trung thì hiệu quả hoạt động được tiếp cận
trên cả hai mặt hiệu quả kinh tế cho TCTD và hiệu quả cho xã hội do TCTD mà đề
tài nghiên cứu là Ngân hàng chính sách xã hội. Công trình tiếp cận về hiệu quả hoạt
động chi tiết, đầy đủ nhất trên cả phương diện vi mô và vĩ mô là công trình của tiến
sỹ của Trần Công Hoà. Đây là công trình nghiên cứu hiệu quả hoạt động của vốn tín
dụng đầu tư của Nhà nước tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam với cách tiếp cận hiệu
quả hoạt động trên ba mặt mà tác giả gọi là thế “ kiềng ba chân”: hiệu quả với nền
kinh tế quốc dân (gồm cả kinh tế và xã hội) hiệu quả hoạt động của TCTD và hiệu
quả hoạt động của dự án - doanh nghiệp.
Về phương pháp phân tích, các công trình nghiên cứu trên cơ bản dựa trên lý
thuyết phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp với các phương pháp phân tích
truyền thống như phương pháp chi tiết; phương pháp so sánh tương đối, tuyệt đối;
phương pháp liên hệ cân đối, phương pháp Dupont; phương pháp phân tích theo
thời gian của dòng tiền.
5
Về chỉ tiêu phân tích, trong công trình nghiên cứu " Phân tích hiệu quả hoạt
động của ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt Nam" tác giả đã sử dụng các

chỉ tiêu phân tích như: chỉ tiêu tốc độ tăng huy động vốn, tốc độ tăng đầu tư vốn, tỷ
lệ khả năng sinh lời ( ROA, ROE); chấp hành, thực hiện chính sách, chế độ; phân
tích an toàn vốn; phân tích tình hình lợi nhuận. Từ kết quả phân tích đó, tác giả
nhận xét và đã đưa ra được đề xuất thực tiễn: bổ sung thêm phương pháp phân tích
Dupont và các chỉ tiêu phân tích hiệu suất như tổng thu nhập trên tổng tài sản, tổng
chi phí trên tổng thu nhập. Về cơ bản tác giả đã phân tích sâu về hiệu quả hoạt động
huy động vốn, hoạt động cho vay và lợi nhuận của đơn vị tuy nhiên việc phân tích
hoạt động chấp hành chế độ chính sách vẫn chỉ nêu được ở dạng định tính. Điểm
khác biệt của luận văn so này so với đề tài nghiên cứu đó là Luận văn phân tích hiệu
quả hoạt động của NHTM cổ phần nên phải tập trung phân tích các nhân tố tạo lợi
nhuận cho doanh nghiệp (hiệu quả kinh tế) còn những lợi ích (hiệu quả) về xã hội
không phải mục tiêu hoạt động của ngân hàng nên không đề cập đến.
Với công trình nghiên cứu "Hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích
hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng chính sách tỉnh Hà Tĩnh" (Bùi Ngọc Hà- 2006)
và tiếp theo là “Hoàn thiện phương pháp phân tích năng lực và hiệu quả hoạt động
tại Ngân hàng chính sách tỉnh Hà Tĩnh" đã bước đầu phân tích hiệu quả hoạt động
của các Ngân hàng hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Các tác giả đã khái quát
và hệ thống hoá các chỉ tiêu phân tích hiệu quả của Ngân hàng chính sách xã hội
không chỉ bằng các chỉ tiêu hiệu qủa kinh tế (như hiệu quả kinh doanh, hiệu suất
sinh lời vốn, tỷ lệ nợ quá hạn, phân tích an toàn vốn) mà có cả các chỉ tiêu về hiệu
quả xã hội (mức vốn cho vay bình quân 1 hộ nghèo, số lao động có việc làm bình
quân một hộ vay,dư nợ bình quân trên 1 việc làm mới ). Các chỉ tiêu kinh tế không
đi sâu vào các chỉ tiêu phân tích lợi nhuận do đặc thù hoạt động của ngân hàng là
hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên, chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh
tế còn ít chưa phản ánh được đầy đủ hiệu quả hoạt động của đơn vị; chỉ tiêu hiệu
quả xã hội mới chỉ đề cập đến hiệu quả xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm.
Điểm chung của hai công trình nghiên cứu này là đưa ra được hệ thống lý luận phân
6
tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng phi lợi nhuận nhưng chưa áp dụng vào thực
tiễn để phân tích dẫn đến lý luận mới chỉ là lý luận suông, dẫn đến những chỉ tiêu

phân tích hiệu quả mà các tác giả đề xuất nhằm hoàn thiện phương pháp phân tích
là khó thực hiện trong thực tế.
Với công trình nghiên cứu “Phân tích hiệu quả tín dụng đầu tư tại Ngân hàng
phát triển chi nhánh tỉnh Vĩnh Long” (Đặng Ngọc Lan - 2009). Do đây mới chỉ luận
văn tốt nghiệp đại học nên phạm vi mới chỉ dừng lại phân tích hiệu quả hoạt động
tín dụng trên một số chỉ tiêu như: tốc độ tăng dư nợ, tổng dư nợ/ vốn huy động, hệ
số thu nợ, hệ số vòng quay vốn tín dụng, tỷ lệ nợ quá hạn còn hiệu quả của các
mảng nghiệp vụ khác của ngân hàng và hiệu quả về xã hội chưa được tác giả nghiên cứu.
Công trình nghiên cứu với hệ thống chỉ tiêu phân tích đầy đủ nhất trên tất cả
các mặt hiệu quả hoạt động là “ Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư của
nhà nước” của tiến sỹ của Trần Công Hoà. Luận văn đã đưa ra một hệ thống lý luận
cơ sở và các chỉ tiêu để phân tích hiệu quả hoạt động không chỉ đối với ngân hàng,
với xã hội và cả với bản thân khách hàng vay vốn trong đó các chỉ tiêu về lợi nhuận
hoạt động được phân tích khá kỹ: lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE), Tỷ
lệ lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROA), NIM (tỷ lệ thu nhập lãi cận biên),
IDM (tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên), NPM (tỷ lệ sinh lời hoạt động), tỷ lệ hiệu
quả sử dụng tài sản (AU), hệ số an toàn vốn (CAR), Một chỉ tiêu đánh giá hiệu
quả xã hội được tác giả đề cập là chỉ tiêu bảo vệ môi trường, nâng cao mức sống
của dân cư, phân phối thu nhập và công bằng xã hội, tạo việc làm cho người lao
động (U
L
=L/C trong đó L- Tổng số lao động tăng thêm, C- số vốn tín dụng đầu tư
phát triển). Tuy nhiên với các chỉ tiêu khó định lượng như vậy tác giả cũng mới chỉ
đưa ra chứ chưa đánh giá hiệu quả thông qua số liệu cụ thể được. Qui mô nghiên
cứu của đề tài khá rộng và mang tính chất vĩ mô nhiều nên các giải pháp nâng cao
hiệu quả cũng mang tính chất vĩ mô, liên quan đến các Bộ ngành, Chính phủ.
Trong đề tài này, tác giả tiếp cận ở giác độ cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động
của ngân hàng hoạt động phi lợi nhuận, trên cơ sở các chỉ tiêu, tiến hành phân tích
hoạt động của chi nhánh NHPT tỉnh Sơn La cả về bình diện hiệu quả kinh tế và hiệu
7

quả xã hội. Từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của chi
nhánh NHPT tỉnh Sơn La.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động
của ngân hàng Phát triển với các mục tiêu cụ thể sau:
- Khái quát cơ sở lí luận về phân tích hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
hoạt động phi lợi nhuận
- Phân tích những đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của Chi nhánh Ngân hàng
Phát triển tỉnh Sơn La ảnh hưởng tới việc phân tích hiệu quả hoạt động tại Chi
nhánh.Tiến hành phân tích hiệu quả hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Phát triển
tỉnh Sơn La.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Chi nhánh
Ngân hàng Phát triển tỉnh Sơn La.
1.4. Câu hỏi nghiên cứu:
Với mục tiêu nghiên cứu như trên, đề tài đi sâu vào phân tích hiệu quả hoạt
động của chi nhánh ngân hàng phát triển Sơn La. Do đó, các câu hỏi nghiên cứu của
đề tài được đặt ra cần giải quyết là:
- Cơ sở lý luận cho việc phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng phi lợi
nhuận như thế nào?
- Đặc điểm hoạt động, cơ chế tổ chức hoạt động của chi nhánh Ngân hàng
Phát triển tỉnh Sơn La như thế nào?
- Thực trạng hiệu quả hoạt động của Chi nhánh ngân hàng Phát triển Sơn La
như thế nào?
- Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho Chi nhánh ngân hàng
Phát triển Sơn La là gì?
1.5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tiến hành phân tích hiệu quả hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng
phát triển tỉnh Sơn La từ năm 2009 đến năm 2011.
8
1.6. Phương pháp phân tích

1.6.1.Phương pháp thu thập dữ liệu
- Lấy số liệu từ số liệu thứ cấp: các báo cáo tài chính, sổ sách, dữ liệu có sẵn
trong chi nhánh. Ngoài ra còn có số liệu sơ cấp qua quan sát, phỏng vấn và các dữ
liệu từ cơ quan thống kê.
- Quan sát cơ sở vật chất: các công trình hình thành sau quá trình đầu tư dự
án (đường, kênh mương, thuỷ điện, các khu nhà tái định cư, rừng…)
- Phỏng vấn:
+ Phỏng vấn sâu Giám đốc: Để tìm hiểu tổng thể các hoạt động của ngân
hàng, nhu cầu sử dụng thông tin và phân tích thông tin cần thiết như thế nào trong
quá trình ra quyết định.
+ Phỏng vấn sâu Trưởng phòng tổ chức – hành chính quản lý nhân sự: Để
nắm rõ được bộ máy tổ chức quản lý của toàn ngân hàng, mối quan hệ giữa các
phòng như thế nào, nhiệm vụ - quyền hạn của mỗi phòng.
+ Phỏng vấn sâu Trưởng phòng tài chính – kế toán: Để nắm bắt được chính
sách tài chính – kế toán, toàn bộ công tác tổ chức kế toán tại ngân hàng như thế nào,
sự phân công phân nhiệm trong công tác cho từng cá nhân như thế nào, các báo cáo
– kết quả đầu ra hàng tháng – quý – năm.
+ Phỏng vấn sâu Trưởng phòng Tín dụng: Để có được thông tin chi tiết hơn
về thẩm định dự án, quy trình cho vay, những biện pháp dự phòng rủi ro, xử lý nợ,
…đồng thời có được nguồn dữ liệu thứ cấp cần thiết cho quá trình nghiên cứu.
+ Phỏng vấn sâu Trưởng phòng Tổng hợp - Nguồn vốn: Để nắm được cách
thức huy động vốn, chăm sóc khách hàng, thẩm định dự án,…
1.6.2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
* Phương pháp phân tích số liệu được sử dụng chủ yếu là phương pháp so
sánh qua các năm:
- So sánh tuyệt đối: Là số hiệu của hai chỉ tiêu kỳ phân tích và chỉ tiêu cơ sở,
so sánh giữa kết quả thực hiện và kế hoạch hoặc giữa thực hiện kỳ này với các kỳ trước.
9
- So sánh tương đối: Là tỷ lệ % của chỉ tiêu kỳ phân tích so với chỉ tiêu gốc
để thể hiện mức độ hoàn thành hoặc tỷ lệ của số chênh lệch tuyệt đối so với chỉ tiêu

gốc để nói lên tốc độ tăng trưởng.
- Dùng biểu đồ và đồ thị để minh hoạ số liệu nghiên cứu.
* Phương pháp xử lý số liệu:
- Số liệu thứ cấp được sử dụng chương trình Excel để tính toán tổng hợp và
phân tích theo mục tiêu nghiên cứu.
- Số liệu từ các cuộc phỏng vấn sâu và quan sát trực tiếp sẽ được phân tích
để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu.
1.7. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu:
Thông qua việc phân tích các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động của NHPT Sơn La
sẽ cung cấp thông tin cho nhà quản trị Ngân hàng để họ có cơ sở khoa học đưa ra
các quyết định đúng đắn, chính xác nhằm thu hồi được vốn cho vay và lãi nhưng
vẫn đảm bảo các lợi ích xã hội. Đồng thời luận văn cũng là công trình nghiên cứu
đầu tiên về phân tích hiệu quả hoạt động kinh tế - xã hội của Chi nhánh NHPT tỉnh
Sơn La và là cơ sở để tiến tới phân tích hiệu quả hoạt động của cả hệ thống Ngân
hàng phát triển Việt Nam
1.8. Kết cấu của đề tài nghiên cứu:
Luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lí luận về phân tích hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
hoạt động phi lợi nhuận
Chương 3: Phân tích thực trạng hiệu quả hoạt động của chi nhánh Ngân hàng
phát triển tỉnh Sơn La
Chương 4: Thảo luận kết quả nghiên cứu và các giải pháp đề xuất nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh Ngân hàng phát triển tỉnh Sơn La
10
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC NGÂN HÀNG HOẠT ĐỘNG PHI LỢI NHUẬN
2.1.Tổng quan về Ngân hàng phi lợi nhuận
2.1.1.Khái niệm, đặc điểm hoạt động của ngân hàng phi lợi nhuận

Luật các TCTD được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16
tháng 6 năm 2010 quy định: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một
số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ
chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân”.
[25]
Ngân hàng là một trong các tổ chức tín dụng quan trọng nhất của nền kinh tế
cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch
vụ thanh tóan và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế. Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 định
nghĩa: "Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung cấp các dịch vụ thanh toán". Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự
phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng. Theo Luật các
TCTD thì ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân
hàng hợp tác xã. Điều 17 Luật ghi rõ :" Ngân hàng chính sách do Chính phủ thành
11
lập và hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm thực hiện các chính sách kinh
tế - xã hội của Nhà nước". [25]. Khái niệm ngân hàng phi lợi nhuận (NHPLN) có
thể được hiểu là tổ chức tín dụng mà hoạt động chủ yếu là tài trợ trung và dài hạn
cho các dự án phát triển nhằm thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo thông qua
các khoản vay cho các công trình xây dựng thuỷ lợi và giao thông nông thôn, xây
dựng cơ sở hạ tầng cho các làng nghề, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội cho
các vùng sâu, vùng xa và hỗ trợ xuất khẩu, tài trợ có hiệu quả các chương trình phát
triển kinh tế do Chính phủ hoạch định. Phương thức hoạt động chủ yếu là đầu tư
trung và dài hạn cho các công trình kinh tế trọng điểm, hỗ trợ các doanh nghiệp
phát triển thông qua đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ.
Đặc điểm hoạt động của các ngân hàng này bao gồm:
- Cung cấp tài chính cho các dự án thuộc các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ:
Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của NHPLN; một NHPLN được thành lập
điển hình bằng một đạo luật đặc biệt và Chính phủ sở hữu toàn bộ bởi vì nó có

nhiệm vụ thực hiện các chính sách của Chính phủ.
- Cung cấp các khoản vay trung và dài hạn cho các dự án có tỷ suất sinh lời
thấp và tỷ lệ rủi ro cao: các khoản vay của NHPLN thường đóng vai trò là khoản
cho vay cuối cùng. Chỉ trong trường hợp không có các nguồn cho vay nhà nước hay
tư nhân khác cho dự án thì ngân hàng phi lợi nhuận mới sử dụng nguồn vốn cho vay
dài hạn đặc biệt của mình để tài trợ cho các dự án này. Do mức rủi ro của các dự án
này trong dài hạn là tương đối cao nên khu vực ngân hàng tư nhân không hoạt động
chuyên trong lĩnh vực tài trợ phát triển sẽ hạn chế tài trợ cho các dự án này.
- Hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận: thông thường NHPLN có 100%
vốn Nhà nước, chỉ cần mức lợi nhuận tối thiểu để có thể thực hiện được các nghiệp
vụ của mình. Nhưng trên cả mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cho riêng mình, NHPLN
dành ưu tiên trên hết cho việc hỗ trợ dự án có tính chất công cộng.
- Các khoản cho vay là dùng để đầu tư vào tài sản cố định: Những khoản cho
vay đối với các dự án có tính chất công cộng chủ yếu là dùng để đầu tư, mua sắm
máy móc thiết bị, điều này có nghĩa là rất ít khi NHPLN cho vay vốn lưu động.
12
- Chính phủ bảo lãnh cho hoạt động của NHPLN, nguồn vốn của các
NHPLN được Chính phủ hỗ trợ rất mạnh mẽ bằng các công cụ tài chính và bằng
nguồn trái phiếu Chính phủ.[24]
2.1.2.Vai trò và nguyên tắc hoạt động của Ngân hàng phi lợi nhuận
2.1.2.1. Vai trò
Tính hữu hiệu của một định chế tài chính được thể hiện thông qua vai trò của
nó trong đời sống kinh tế, xã hội của cộng đồng. NHPLN có vai trò đặc biệt như là
một công cụ của Nhà nước trong việc đánh giá khuyến khích và tài trợ các dự án
phát triển.
 Tài trợ cho các dự án phát triển
Vai trò này của ngân hàng được thể hiện thông qua:
- Các mục tiêu phát triển mà ngân hàng theo đuổi: Hoạt động chính của
NHPLN là tài trợ cho các dự án phát triển nhằm phát triển công nghiệp và nông
nghiệp. Thông qua cho vay trung và dài hạn, ngân hàng khuyến khích phát triển cơ

sở hạ tầng, phát triển doanh nghiệp thay đổi cơ cấu thu nhập và cơ cấu kinh tế…
- Các loại dự án mà ngân hàng tài trợ: NHPLN tài trợ cho các dự án có ảnh
hưởng quan trọng tới sự phát triển của vùng, ngành hoặc liên quan đến phân phối
thu nhập cho các tầng lớp dân cư nghèo, cải thiện môi trường…kết hợp với mục
tiêu tài chính và các mục tiêu xã hội khác.
- Các nghiệp vụ chính mà NHPLN thực hiện:
+ Cung cấp các nguồn vốn cần thiết và đầy đủ dựa trên chính sách quốc gia
cho các lĩnh vực mà bản thân khu vực tài chính tư nhân không thể đáp ứng đủ.
+ Phân tích, thẩm định các dự án, tính toán các mục tiêu xã hội bên cạnh mục
tiêu kinh tế, nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển.
+ Tài trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức tài chính khác,
 Xúc tiến các dự án phát triển
13
Trên quan điểm của hoạt động NHPLN, thuật ngữ “xúc tiến” không giống
như trong hoạt động bán hàng hoặc quảng cáo. Hoạt động xúc tiến dự án trong hoạt
động NHPLN nghĩa là hoạt động như một nhà tổ chức các hoạt động để tạo ra sự
đổi mới, một trung gian đảm nhận các rủi ro từ việc đầu tư vào các hình thức hoạt
động sản xuất mới, thường bao gồm cả các dự án quan trọng chiến lược và táo bạo
về mặt kỹ thuật. Xúc tiến dự án là đặc biệt quan trọng trong trường hợp các dự án
chưa được triển khai trước đó và hứa hẹn sẽ mang lại một tỉ suất sinh lời tài chính
hấp dẫn. Bản chất đổi mới của dự án cũng hàm chứa cả sự hứa hẹn về một tỉ suất
sinh lời kinh tế cao.
 Tài trợ dài hạn và phát triển thị trường vốn
NHPLN cung cấp tài trợ cho tài sản cố định dài hạn cho các dự án phát triển.
Nó bao gồm việc sẵn lòng gánh vác rủi ro của việc tài trợ cho các dự án dài hạn và
cam kết nguồn vốn dài hạn. Ở đây có một chú ý về thị trường tài chính quốc gia và
thị trường vốn tại các quốc gia đang phát triển. Quốc gia càng nghèo thì mức tiết
kiệm tạo ra càng thấp và khả năng hình thành thị trường vốn phát triển càng nhỏ.
Nếu thị trường vốn của một quốc gia chỉ mới trong giai đoạn sơ khai thì sẽ không
tồn tại hoạt động cung cấp nguồn vốn dài hạn hoặc sẽ thiếu hụt đi yếu tố vốn dài

hạn tại thị trường tài chính quốc gia. Do đó, một vai trò quan trọng khác của các
NHPLN là góp phần gia tăng nguồn cung đối với vốn đầu tư dài hạn và thông qua
các hoạt động nhằm đạt được mục tiêu của mình, cũng góp phần thúc đẩy sự phát
triển của thị trường vốn nội địa. Nhằm gia tăng nguồn cung đối với vốn đầu tư dài
hạn, các NHPLN trở thành đơn vị hỗ trợ phát triển thị trường vốn.
 Các đơn vị tài chính và vai trò xúc tác
Các NHPLN cũng đồng thời thực hiện vai trò như một đơn vị tài chính, kết
hợp nguồn tài trợ của các cá nhân, nguồn tài trợ chính thức, trong nước và ngoài
nước hình thành nên một gói hỗ trợ tài chính, đặc biệt là trong trường hợp lượng
vốn vay của dự án vượt ra ngoài khả năng tài chính của NHPLN. Thông qua hoạt
động đồng tài trợ, các NHPLN cũng kết hợp các hình thức khác nhau của khoản vay
như cho vay đa phương, cung cấp tín dụng, cho vay song phương và cấp tín dụng
14
của các ngân hàng tư nhân,…vào một gói vay. Các NHPLN cũng hoạt động như
một “chất xúc tác”. Vai trò “xúc tác” thể hiện khi chúng hỗ trợ cho người đi vay
tiềm năng tìm được các nguồn tài trợ mới và hỗ trợ những người này tiếp cận được
với thị trường tài chính nước ngoài và quốc tế. Nhờ sự xác nhận của NHPLN đối
với một dự án, dự án này được tạo điều kiện nhận được khoản đồng tài trợ hoặc tìm
được một người cho vay mới. Các NHPLN cũng thể hiện “vai trò xúc tác” của
mình trong hoạt động lựa chọn và chuyển giao công nghệ. Chúng hỗ trợ các quốc
gia tìm ra một công nghệ phù hợp để áp dụng cho quy trình sản xuất mới hoặc xóa
bỏ các trở ngại, ách tắc chính. Để thực hiện được chức năng này, các NHPLN cần
có thẩm quyền trong việc lựa chọn và chuyển giao công nghệ hoặc tiếp cận với các
thông tin cần thiết về công nghệ.
 Hỗ trợ kỹ thuật
Một trong những đặc điểm của hệ thống tài chính tại các nước đang phát
triển là sự thiếu hụt hoặc khan hiếm những dịch vụ kỹ thuật chuyên môn nhất định
của quy trình sản xuất hiện đại. Khi nền kinh tế cần tới các dịch vụ kỹ thuật này thì
trách nhiệm của ngân hàng phát triển là thực hiện tài trợ cho các dự án phát triển
nhằm đưa các dịch vụ này đến với nền kinh tế. Các NHPLN thực hiện vai trò bằng

việc cung cấp các hỗ trợ về kỹ thuật. Việc hỗ trợ kỹ thuật có thể thúc đẩy sự hình
thành các tổ chức nghiên cứu trong nước, các công ty tư vấn, hình thành năng lực
nghiên cứu và phát triển năng lực đào tạo trong nước ở trình độ cao. Các NHPLN
cũng bổ sung thêm nguồn vốn tài trợ dự án dành cho hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp các
chuyên gia tư vấn chuyên môn trong và ngoài nước. Bằng việc đưa thêm hợp phần
hỗ trợ kỹ thuật vào dự án, các NHPLN đã cải thiện đáng kể chất lượng của dự án và
gia tăng tỉ suất sinh lời kỳ vọng. [24]
2.1.2.2. Nguyên tắc hoạt động của ngân hàng phi lợi nhuận
 Hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận:
NHPLN với vai trò là công cụ của Chính phủ nhằm tài trợ cho các chương
trình, dự án thuộc lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích đầu tư, vì vậy, việc cung cấp
15
các nguồn vốn cần thiết và đầy đủ đối với ngân hàng là ưu tiên trên cả mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận cho riêng mình.
 Cho vay trên cơ sở các phân tích đánh giá về tính hiệu quả và khả
năng thu hồi vốn của dự án:
Trước khi tài trợ cho dự án, ngoài yêu cầu về tỉ suất sinh lợi hợp lý, NHPLN
còn thực hiện đánh giá tính kinh tế của dự án. Dự án sẽ chỉ được phê duyệt việc tài
trợ cho dự án nếu như dự án được kỳ vọng sẽ tạo ra những lợi ích kinh tế thực sự
tích cực.
 Chấp nhận rủi ro cao và lợi nhuận thấp:
NHPLN xét về mặt bản chất là một công cụ của Nhà nước để khắc phục
khiếm khuyết của cơ chế thị trường tự do. Khi các ngân hàng thương mại thực hiện
tài trợ theo cơ chế thị trường với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, chỉ các lĩnh vực, dự
án đạt được mục tiêu tối ưu hoá lợi nhuận mới được xem xét cho vay. Cơ chế vận
hành theo thị trường ấy hạn chế các ngân hàng thương mại chấp nhận tài trợ cho các
dự án có rủi ro cao nhưng lợi nhuận thấp. Các dự án đầu tư phát triển là những dự
án như vậy do thời gian đầu tư dài, rủi ro cao và mang lợi ích xã hội cao hơn lợi ích
về tài chính. Do đó, sự xuất hiện của NHPLN để khắc phục khiếm khuyết của cơ
chế thị trường này khi thị trường không tự điều tiết được nguồn lực cho đầu tư phát

triển. NHPLN đóng vai trò là người chấp nhận rủi ro cao để tài trợ phát triển nhưng
sẽ thất bại nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước. Nhà nước thông qua NHPLN để
huy động và điều tiết các nguồn lực cho đầu tư phát triển đồng thời ban hành các cơ
chế, luật lệ riêng để tạo điều kiện, cho phép NHPLN chấp nhận rủi ro cao, lợi nhuận
rất thấp nhưng vẫn đảm bảo hoạt động theo đúng các nguyên tắc an toàn trong hoạt
động. Và do những điều kiện ấy, hoạt động của các NHPLN luôn đòi hỏi phải có
một Luật riêng để điều chỉnh.
 Nguồn vốn cho vay xúc tác:
Nguyên tắc hoạt động này thể hiện sự phân biệt rất rõ với hoạt động cho vay
thương mại. Các dự án đầu tư phát triển trong các lĩnh vực mới, địa bàn khó khăn ở
16
giai đoạn ban đầu thường không hấp dẫn và không thu hút được các tổ chức cho vay
thương mại do khả năng hoàn vốn thấp, rủi ro cao. Trong một số trường hợp, các tổ
chức cho vay thương mại cũng có khả năng tham gia đầu tư cho các dự án này
nhưng thiếu một cơ chế phân chia rủi ro để đảm bảo lợi ích thương mại. Do đó, để
thu hút được các nguồn vốn đầu tư cũng như đảm bảo các dự án được thực hiện,
ngân hàng phát triển có vai trò là người cho vay tiên phong đối với các dự án đó.
Hiệu quả trong hoạt động cho vay của ngân hàng phát triển sẽ là chất xúc tác để thu
hút các NHTM tham gia. Tuy nhiên, ngay cả khi đã có sự tham gia của các nguồn
vốn đầu tư khác, NHPLN vẫn cần phải tham gia nhằm chia sẻ rủi ro để thực hiện
chức năng tài trợ phát triển. Các tổ chức tài trợ thương mại khi tham gia tài trợ phát
triển nếu áp dụng các phương thức quản trị rủi ro truyến thống sẽ không thực hiện
được việc cho vay do đó cần phải phải có các khoản vay của ngân hàng phát triển
cùng tham gia để hạn chế những nhân tố rủi ro nhất. Như vậy, khoản vay của
NHPLN vừa làm giảm thiểu rủi ro vừa là chất xúc tác để thu hút, dẫn dắt các nguồn
lực khác của xã hội. [24]
2.1.2.3.Sự khác nhau giữa Ngân hàng phi lợi nhuận và Ngân hàng thương mại
Luật các TCTD được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16
tháng 6 năm 2010, định nghĩa: "Ngân hàng thương mại là một loại hình TCTD
được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan".

[25]. Sự khác biệt giữa NHPLN và NHTM thể hiện ở những điểm chủ yếu là:
- Hoạt động của các NHPLN không vì mục đích lợi nhuận như các NHTM.
Hoạt động của Ngân hàng phi lợi nhuận có mối liên hệ chặt chẽ với các Bộ, ngành
và cơ quan Chính phủ nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu chiến lược về phát
triển KT-XH, chịu sự quản lý của Chính phủ, còn các NHTM không quá chú trọng
vấn đề này miễn là chấp hành đúng quy định của pháp luật và chịu sự quản lý của
Ngân hàng Nhà nước.
- Quy mô các khoản cho vay của NHPLN có thể lớn hơn với thời hạn dài,
rủi ro cao hơn so với các NHTM. NHPLN được Chỉnh phủ bảo đảm khả năng thanh
toán, được miễn nộp thuế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm), không
17
phải tham gia bảo hiểm tiền gửi còn các NHTM không được Chính phủ bảo đảm
khả năng thanh toán, phải nộp thuế, phải dự trữ mức tiền gửi và tiền mặt theo tỷ lệ
nhất định.
- Đối tượng cho vay của NHPLN giới hạn cho đối tượng (người nghèo, sinh
viên nghèo, vùng sâu vùng xa…) và một số lĩnh vực (công nghiệp-xây dựng, lâm
nghiệp, xuất khẩu…) trong khi NHTM không bị giới hạn đối tượng/lĩnh vực hoạt
động tín dụng.
- NHPLN huy động vốn với lãi suất cao và cho vay với lãi suất thấp và
hưởng cấp bù chênh lệch lãi suất từ ngân sách nhà nước còn NHTM huy động lãi
suất thấp và cho vay lãi suất cao hơn và hưởng lợi nhuận một phần từ chênh lệch lãi
suất đó.
- Dịch vụ của các NHTM đa dạng hơn dịch vụ của các NHPLN (ví dụ: thanh
tóan chuyển tiền quốc tế, nhận tiền gửi từ cá nhân, thẻ ATM,….)
2.1.3.Hiệu quả hoạt động của Ngân hàng phi lợi nhuận
 Quan điểm về hiệu quả hoạt động
Theo từ điển Tiếng Việt, hiệu quả được hiểu là "kết quả như yêu cầu của
việc làm mang lại". Hoạt động là "tiến hành những việc làm có quan hệ với nhau
chặt chẽ nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xã hội"[21]. Bất cứ hoạt động
nào của mình, con người cũng đều quan tâm đến hiệu quả. Trong kinh tế học, điều

đó có nghĩa với một lượng chi phí nhất định, con người đều mong muốn tạo ra một
kết quả lớn nhất, đáp ứng nhu cầu cao nhất của con người hoặc muốn tạo ra một
khối lượng sản phẩm cho trước, con người muốn chi phí ít nhất.
Như vậy, hiệu quả là sự liên kết giữa các yếu tố hay chi phí đầu vào với sản
lượng hàng hóa và dịch vụ hay lợi ích xã hội đạt được. Điều quan trọng khi xem xét
hiệu quả phải đo lường được yếu tố hay chi phí đầu vào và sản lượng hay lợi ích đạt
được, dù nhiều khi chỉ mang tính tương đối.
Thực tế cho thấy hiệu quả là một phạm trù rộng rãi được sử dụng trong tất cả
các lĩnh vực khác nhau: trong sản xuất hiệu quả có nghĩa là hiệu suất, là năng suất;
trong kinh doanh hiệu quả là lãi suất, lợi nhuận; trong lao động nói chung hiệu quả
18
là năng suất lao động… Còn xét trên giác độ kinh tế- xã hội, hiệu quả được phân
thành hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế xã hội.
Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được các
mục tiêu xã hội nhất định. các mục tiêu xã hội có thể mang tính chất định tính như
giải quyết công ăn việc làm, nâng cao trình độ và đời sống văn hóa tinh thần cho
người lao động… hoặc cũng có thể mang tính định lượng như việc đảm bảo mức
sống tối thiểu cho người lao động, tăng thu ngân sách nhà nước.
Hiệu quả kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế, phản ánh trình độ sử
dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu kinh tế nhất định. Đó là việc tối đa hóa kết
quả đầu ra dựa trên các nguồn lực sẵn có hoặc sử dụng tối thiểu các nguồn lực sẵn
có nhưng vẫn đảm bảo kết quả đầu ra theo đúng mục đích, kế hoạch đề ra.
Hiệu quả kinh tế xã hội là phạm trù phản ánh sự thống nhất giữa hiệu quả
kinh tế và hiệu quả xã hội. Đứng trên góc độ Nhà nước, gắn với chức năng quản lý
vĩ mô, hiệu quả xã hội được coi là mục đích còn hiệu quả kinh tế được coi là
phương tiện.Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gắn
chặt hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội , hiệu quả kinh tế đi đôi với hiệu quả xã hội.
 Hiệu quả hoạt động trong Ngân hàng phi lợi nhuận
Ngân hàng là một loại hình trung gian tài chính mà hoạt động đặc trưng của
nó là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh

tóan. Ngân hàng phi lợi nhuận hoạt động không vì mục đích lợi nhuận (không đặt
mục tiêu lợi nhuận lên vị trí cao nhất), là ngân hàng thực hiện các chương trình tín
dụng chính sách, tín dụng ưu đãi của Chính phủ. Do vậy mà hiệu quả hoạt động của
NHPLN phức tạp hơn hiệu quả hoạt động của NHTM. Nó chính là khả năng huy
động các nguồn lực đáp ứng nhu cầu tín dụng theo các chương trình của chính phủ,
quản lý vốn an toàn, tiết kiệm, khả năng tự cân đối tài chính (hạn chế tối đa bao cấp
từ NSNN), giảm thiếu các rủi ro, hỗ trợ tốt cho các dự án theo mục tiêu đề ra và do
vậy được tiếp cận trên hai khía cạnh:
Một là, hiệu quả kinh tế : biểu hiện ở mức độ thực hiện các mục tiêu kinh tế
của vốn đầu tư nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất của xã hội. Nó là tỷ số giữa kết quả
19
kinh tế thu được với chi phí bỏ ra. Nếu như trong các đơn vị sản xuất kinh doanh,
việc phân tích hiệu quả sử dụng tài sản cố định có ý nghĩa lớn nhưng với các ngân
hàng, tài sản cố định chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng tài sản và được coi là tài sản
không sinh lời. Đối với các doanh nghiệp nói chung, tỷ lệ vốn vay trên tổng nguồn
vốn cao là không an toàn, nhưng trong phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thì vốn vay lại là một yếu tố tạo lãi. Do đó, hiệu quả kinh tế của các ngân hàng nói
chung và NHPLN là mối quan hệ tương quan giữa tổng thu nhập từ các hoạt động
của ngân hàng với chi phí mà ngân hàng bỏ ra để có được thu nhập ấy.
Đối với ngân hàng hoạt động phi lợi nhuận, tổng thu nhập từ các hoạt động
của ngân hàng chủ yếu từ thu lãi hoạt động cho vay, thu lãi tiền gửi tại các NHTM,
thu phí chuyển tiền, thu phí quản lý vốn ủy thác…. Còn chi phí ngân hàng bỏ ra chủ
yếu là chi lương cho cán bộ, chi khấu hao TSCĐ, chi trả lãi tiền gửi…Đánh giá hiệu
quả kinh tế của NHPLN người ta dùng các chỉ tiêu sau: tốc độ tăng nguồn vốn, tăng
dư nợ, hiệu quả từ hoạt động cho vay, hiệu suất sinh lời của vốn, mức độ an toàn
vốn, an toàn tín dụng… Ngân hàng phi lợi nhuận là TCTD Nhà nước hoạt động
không vì mục tiêu lợi nhuận, ngân hàng luôn cho vay với lãi suất thấp hơn lãi suất
thị trường trong khi vẫn phải huy động vốn với lãi suất bằng với lãi suất thị trường
dẫn đến chi phí bỏ ra luôn lớn hơn thu nhập. Để bù đắp phần chênh lệch, Nhà nước
cấp bù chênh lệch lãi suất trong phạm vi kế hoạch mà Bộ tài chính cho phép. Do

vậy xét về khía cạnh kinh tế thì hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng hoạt động
phi lợi nhuận là không cao và ta phải xem xét đến khía cạnh thứ hai, hiệu quả xã hội.
Hiệu quả xã hội thể hiện ở việc đáp ứng các mục tiêu xã hội từ việc tài trợ
vốn cho các dự án vay vốn. Các dự án vay vốn tại các Ngân hàng phi lợi nhuận
không chỉ phải có hiệu quả tài chính mà phải có hiệu quả về xã hội. Đối với các dự
án phát triển đặc biệt là những dự án về xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thông
tin liên lạc, thoát nước, xử lý rác thải, các cụm/khu công nghiệp, trồng rừng…có ý
nghĩa kinh tế - xã hội rất lớn: các dự án này không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế cho
doanh nghiệp mà còn có tác dụng lan tỏa, tạo động lực phát triển cho các ngành phụ
hoặc có liên quan và các vùng lân cận, tạo công ăn việc làm, chuyển dịch cơ cấu
20
kinh tế, nâng cao mức sống cho người dân…Các dự án về cấp thoát nước, xử lý rác,
trồng rừng …còn mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ môi trường
sinh thái, bảo vệ sức khỏe cho người dân, nâng cao mức sống góp phần quan trọng
đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững. Nhìn chung các lợi ích xã hội do hoạt động
tín dụng của NHPLN rất khó có thể lượng hóa được mà chủ yếu được đánh giá định
tính, bao gồm các nội dung sau: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng của cải vật chất
cho xã hội, giải quyết việc làm, bảo vệ môi truờng, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-
xã hội, ổn định đời sống nhân dân…
2.2.Nội dung phân tích hiệu quả hoạt động của Ngân hàng phi lợi nhuận
2.2.1. Phân tích hiệu quả kinh tế
2.2.1.1.Phân tích hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng
các nguồn vật lực, tài chính của doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao nhất [6]. Khi
phân tích hiệu quả kinh doanh của TCTD cần gắn nhiều chỉ tiêu hiệu quả ở các mặt
khác nhau của quá trình kinh doanh như: hiệu quả sử dụng tài sản, hiệu quả sử dụng
nguồn vốn, chi phí
Bản chất của hiệu quả kinh doanh của hệ thống Ngân hàng là sự so sánh giữa
các kết quả đầu ra với các yếu tố đầu vào trong một kỳ nhất định và được khái quát
dưới dạng tỷ số giữa kết quả đầu ra và yếu tố đầu vào để thực hiện được kết quả đầu

ra đó. Nói cách khác, một đồng chi phí bỏ ra mang lại kết quả kinh tế cho đơn vị là
bao nhiêu.
Hiệu quả kinh doanh =
Kết quả đầu ra
Yếu tố đầu vào
(2.1)
Nguồn : [18,tr180]
Chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh có ý nghĩa quan trọng. Thông qua
việc phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản, nguồn vốn, chi phí các nhà quản
trị ngân hàng phát huy những mặt tích cực và đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao
hơn nữa hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Ngoài ra, các TCTD qua đó có cơ sở khoa
21
học khi đưa ra các quyết định về giao dịch như cho vay ngắn hạn, dài hạn, nhiều
hay ít nhằm thu hồi được vốn và lãi mà vẫn đảm bảo an toàn cho hoạt động.
Có rất nhiều chỉ tiêu được sử dụng để phân tích hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng, nhưng với đặc điểm của chi nhánh NHPT Sơn La ta phân tích hiệu quả
của thu nhập và chi phí trên các nội dung như:
+ Đánh giá biến động của tổng thu nhập, tổng chi phí đồng thời phân tích
những nhân tố làm tăng/giảm tổng thu nhập và chi phí cũng như ảnh hưởng tới lợi
nhuận của chúng.
+ Đi sâu xem xét tỷ trọng của thu nhập, chi phí để thấy tính hợp lý của các
khoản mục.
+ Xem xét mối quan hệ giữa tốc độ tăng, giảm của thu nhập và chi phí, sự
biến động trong mối quan hệ với quy mô tài sản, nguồn vốn.
- Tổng chi phí trên tổng thu nhập:
Tổng chi phí/Tổng thu nhập =
Tổng chi phí
(2.2)
Tổng thu nhập
Nguồn : [18,tr181]

Chỉ số này tính toán khả năng bù đắp chi phí của một đồng thu nhập, đo
lường hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Thông thường tỷ số này nhỏ hơn 1, nếu
tỷ số này lớn hơn 1 thì chứng tỏ ngân hàng đang hoạt động kém hiệu quả và có
nguy cơ phá sản trong tương lai.
- Lợi nhuận/Tài sản có:
ROA
=
Lợi nhuận sau thuế
x 100 (2.3)
Tổng tài sản
Nguồn [18, tr308]
Chỉ tiêu ROA (Tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản - Return on total assets) cho
biết từ 100 đồng tài sản được sử dụng sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Tỷ số này càng lớn thì càng tốt vì ngân hàng sử dụng vốn có hiệu quả.
- Thu nhập lãi cận biên (NIM)
22
Thu nhập lãi cận biên =
Thu nhập lãi thuần
Tổng tài sản sinh lãi bình quân
x 100 (2.4)
Nguồn : [10]
Trong đó:
Thu nhập lãi thuần: Thu nhập lãi và các khoản tương đương lãi trừ đi chi phí lãi.
Thu nhập lãi và các khoản tương đương lãi bao gồm:
o Thu lãi tiền gửi;
o Thu lãi tiền vay;
o Thu lãi giấy tờ có giá;
o Thu lãi khác;
Chi phí lãi và các khoản tương đương lãi bao gồm:
o Chi lãi tiền gửi;

o Chi lãi tiền vay;
o Chi lãi phát hành giấy tờ có giá
o Chi lãi khác;
Tài sản sinh lãi bao gồm:
o Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước;
o Tiền gửi và cho vay các TCTD khác;
o Các khoản đầu tư chứng khoán, góp vốn liên doanh, liên kết, mua
cổ phần;
o Cho vay và tạm ứng khách hàng (trước khi trừ đi dự phòng rủi ro).
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng tài sản sinh lời bình quân sử dụng trong kỳ
tạo rao bao nhiêu đồng thu nhập lãi thuần. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện hiệu quả
sử dụng tài sản sinh lãi của TCTD càng cao.
2.2.1.2. Phân tích tình hình tín dụng:
Tín dụng ngân hàng là giao dịch tài sản giữa ngân hàng (TCTD) với bên đi
vay là các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế trong đó Ngân hàng chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận,
23
và bên đi vay có trách nhiệm hòan trả vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho Ngân
hàng (TCTD) khi đến hạn thanh tóan.[9,tr116]
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, nguồn thu từ hoạt động tín
dụng luôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu.Tuy nhiên tín dụng lại là lĩnh vực có
nhiều rủi ro và phức tạp nhất. Do vậy, khi phân tích hiệu quả của hoạt động tín
dung, ta phải phân tích các chỉ tiêu:
 Chỉ tiêu đánh giá qui mô, cơ cấu tín dụng :
Dùng phương pháp so sánh số tuyệt đối và số tương đối của các khoản tín
dụng. Đồng thời, tính toán tốc độ tăng trưởng và cơ cấu của các khoản mục tín dụng
trên BCTC.
- Tốc độ tăng dư nợ tín dụng:
Dư nợ tín dụng là số tiền ngân hàng cho khách hàng vay mà chưa thu được
tại một thời điểm.Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng

cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm.Tốc độ tăng dư nợ được xác định bằng công
thức (2.5).
Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tổng dư
nợ tại một thời điểm nhất định thể hiện quy mô của hoạt động tín dụng, còn tốc độ
tăng dư nợ cho vay thể hiện mức độ và khả năng mở rộng quy mô và hình thức cho
vay qua các thời kỳ. Dư nợ cho vay càng cao và tốc độ dư nợ tăng cho thấy khả
năng mở rộng quy mô tín dụng của Ngân hàng. Mặc dù vậy, không có nghĩa là chỉ
tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng cao vì đằng sau những khoản tín
dụng đó còn những rủi ro tín dụng mà ngân hàng phải gánh chịu.
Tốc độ tăng dư nợ tín dụng =
Dư nợ tín dụng kỳ này- Dư nợ
tín dụng kỳ trước x 100 (2.5)
Dư nợ tín dụng kỳ trước
Nguồn [18,tr 304]
- Tỷ trọng từng loại dư nợ:
Chỉ tiêu này chỉ rõ cơ cấu tín dụng của ngân hàng. Cơ cấu dư nợ thường
được phân theo nhiều loại tiêu thức khác nhau, tùy theo yêu cầu công tác quản lý
24
như: theo thành phần kinh tế, theo loại hình cho vay (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn),
theo ngành kinh tế (công nghiệp, nông lâm ngư nghiệp), theo vùng kinh tế (đồng
bằng, trung du, miền núi), theo mục đích sử dụng vốn vay, theo các chương trình dự
án… Căn cứ vào tỷ trọng từng loại cho vay và sự biến động tỷ trọng đó, nhà quản
trị ngân hàng xác lập một cơ cấu tín dụng hợp lý phù hợp với định hướng của ngân
hàng cũng như chính sách phát triển kinh tế nói chung của Nhà nước đồng thời có
nhưng biện pháp phòng ngừa rủi ro nhằm nâng cao chất lượng tín dụng.
Tỷ trọng dư nợ tín dụng
loại i
=
Dư nợ tín dụng loại i
x 100 (2.6)

Tổng dư nợ
Nguồn [18,tr 300]
 Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng:
Chất lượng tín dụng là vấn đề mà tất cả các ngân hàng phải quan tâm, các rủi
ro tín dụng nếu xẩy ra thì sẽ tác động xấu đến uy tín của ngân hàng và nguy cơ ngân
hàng đó sẽ hoạt động kém hiệu quả trong tương lai là đương nhiên, thậm chí đe doạ
sự tồn tại của ngân hàng và cả hệ thống ngân hàng nếu rủi ro đó bản thân ngân hàng
không thể xử lý được
Chất lượng tín dụng trước tiên là sự an toàn và hiệu quả trong hoạt động cho
vay của Ngân hàng, phải được thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận gia tăng, dư nợ ngày
càng tăng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định và hợp lý. Chất lượng tín dụng
thể hiện khả năng thu hồi đầy đủ đúng hạn cả vốn gốc và lãi theo dự định hay khoản
tín dụng đó không có rủi ro; quy mô và thời hạn trong hợp đồng tín dụng phải phù
hợp với khả năng và tính chất nguồn vốn của ngân hàng; hiệu quả và khả năng thu
hồi nợ càng lớn thì chất lượng tín dụng càng cao.
Chất lượng tín dụng còn là sự phù hợp với mục đích và yêu cầu của khách
hàng như: thủ tục cấp tín dụng nhanh chóng, kịp thời; lãi suất cạnh tranh được với
các ngân hàng khác và phù hợp với khả năng tạo nguồn thu nhập trả nợ lãi của
khách hàng; giải ngân đúng tiến độ; quy mô tín dụng đáp ứng nhu cầu sử dụng.
25
Đối với nền kinh tế hoạt động tín dụng có chất lượng khi nó thực hiện được
các mục tiêu, chính sách của nhà nước: Cân bằng cung cầu trên thị trường tiền tệ,
phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, giải quyết công ăn việc làm và cải thiện
đời sống cho người lao động, khai thác khả năng tiềm tàng của nền kinh tế…
Để phản ánh về chất lượng tín dụng, có rất nhiều chỉ tiêu, nhưng nói chung
người ta thường quan tâm: tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, tỷ lệ và cơ cấu tài sản đảm
bảo. Ngoài ra, để đánh giá định tính về chất lượng tín dụng, người ta còn quan tâm
đến: Cơ cấu dư nợ các khoản vay ngắn - dài hạn trong tương quan cơ cấu nguồn
vốn của tổ chức tín dụng, dư nợ cho vay các lĩnh vực rủi ro cao tại thời điểm đó
như: bất động sản, cổ phiếu

Khi tiến hành phân tích chất lượng hoạt động tín dụng, người ta thường quan
tâm phân tích các chỉ tiêu sau:
-Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Tỉ lệ nợ quá hạn (%) =
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ tín dụng
x 100 (2.7)
Nguồn [18,tr 304]
Chỉ số này đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ này
càng thấp thể hiện chất lượng tín dụng cao, rủi ro ít, hoạt động tín dụng của ngân
hàng có hiệu quả và ngược lại, tỷ lệ nợ quá hạn càng cao Ngân hàng gặp nhiều khó
khăn, tính an toàn của khoản vay thấp khả năng mất vốn của Ngân hàng càng lớn.
Nếu tình trang này kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sự tồn tại của Ngân hàng.
Ba tiêu chuẩn được dùng để phân loại nhóm nợ là: khả năng trả nợ của người
vay, tình trạng tài sản thế chấp và thời hạn quá hạn của khoản nợ. Theo quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 và quyết định 18/2006/QĐ-NHNN
của ngân hàng Nhà nước về việc Phân loại nợ và trích lập dự phòng, các khoản nợ
của TCTD được phân loại thành 5 loại chủ yếu: [25]
o Nợ đủ tiêu chuẩn

×