Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

luận văn quản trị kinh doanh TÀI CHÍNH HỌC HÀNH VI, QUẢN TRỊ TÀI KHOẢN VÀ TÂM LÝ GIAO DỊCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.08 KB, 42 trang )

CHƯƠNG 1
TÀI CHÍNH HỌC HÀNH VI, QUẢN TRỊ TÀI KHOẢN VÀ
TÂM LÝ GIAO DỊCH
1.1 Lý thuyết hành vi
1.1.1 Định nghĩa :
Tài chính hành vi học là lĩnh vực liên quan gần gũi, ứng dụng những nghiên
cứu khoa học về nhận thức và xu hướng cảm xúc trên con người nhằm hiểu
rõ hơn về các quyết định kinh tế, và làm cách nào mà con người gây ảnh
hưởng lên thị trường giá cả, lợi nhuận và sự cấp phát các nguồn tài nguyên.
Phạm vi chủ yếu được đề cập bao gồm sự hợp lý hoặc thiếu hụt của các nhân tố
kinh tế. Các mô hình hành vi đặc trưng được nhận biết qua tích hợp tâm lý học &
học thuyết kinh tế tân cổ điển. Tài chính theo hành vi đã trở thành cơ sở lý thuyết
cho các phân tích kỹ thuật. Các phân tích hành vi phần lớn đề cập đến ảnh hưởng
của các quyết định thị trường, cũng như những lựa chọn chung, khởi điểm của các
quyết định thuộc về kinh tế học & các xu hướng tương tự nhau.
- Tài chính học hành vi là một phân ngành kinh tế học nghiên cứu xem
những hành vi (hành động có nhận thức) của các chủ thể kinh tế (người tiêu
dựng, người phân phối, bán hàng hay người sản xuất) có thể ảnh hưởng đến việc
ra các quyết định kinh tế cũng như giá cả thị trường ra sao. Môn khoa học này
lấy lý luận về dự tính duy lý của chủ thể kinh tế làm trung tâm. Phương pháp
nghiên cứu của nó dựa trên các mô hình kết hợp giữa tâm lý học với các mô
hình về dự tính duy lý của kinh tế học tân cổ điển.
1.1.2. Phương pháp luận:
- Máy chụp hình cộng hưởng từ (fMRI) được dựng để xác định những
vùng thuộc bán cầu đại não hoạt động tích cực trong chuỗi các bước hình thành
quyết định kinh tế.
- Nhà tâm lý học Samuel McClure, đại học Princeton, cùng cộng sự,
thông qua nghiên cứu hình ảnh não bộ, đã báo cáo "Khi các chủ thể chọn lợi
ích trước mắt thì xuất hiện hoạt động tại các vùng não khác với những vùng
1
não khi chọn lợi ích tương lai". Daniel Kahneman, giáo sư tâm lý học, người


đoạt giải Nobel kinh tế 2002, nói: "Với góc độ công nghệ, chúng ta có thể hy
vọng chỉ trong vòng mười năm hoặc hai mươi năm nữa thơi sẽ có những bước
phát triển khổng lồ. Khối lượng hiểu biết về bộ não sẽ tăng nhanh kinh khủng.
Điều này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ tới tâm lý học chính trị - thị trường. Và
khối lượng hiểu biết đó sẽ tạo ra được một cơ sở dữ liệu dùng chung, một thứ
thông tin không ai có thể làm ngơ".
- Ví dụ, trên thị trường "tăng giá liên tục trong thời gian dài" (bull market)
những ý nghĩ "mong muốn giả" hoặc các báo cáo dự đoán của nhà phân tích về
xu hướng tăng giá liên tục trong thời gian dài đối với các loại chứng khoán sẽ
tác động trực tiếp đến tâm lý của nhóm nhà đầu tư, dẫn theo tác động tăng giá.
- Vậy tài chính học hành vi có thật sự đảm nhiệm tốt vai trò dự đoán giá lên
xuống của thị trường chứng khoán không? và có giải thích được các hành vi đầu
tư mạo hiểm hay không ?
- Các mô hình được đề xuất bởi lý thuyết tài chính hành vi sẽ có thể
đúng nếu trên thị trường tồn tại một trong ba điều kiện cơ bản sau. Nếu cả ba
đều tồn tại, lý thuyết tài chính hành vi dự báo rằng việc định giá sai không
những là tồn tại, mà còn là rất đáng kể (lớn hoặc đến mức nghiêm trọng) và kéo
dài. Ba điều kiện đó bao gồm:
+ Tồn tại hành vi không hợp lý.
+ Hành vi bất hợp lý mang tính hệ thống.
+ Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính.
1.1.2.1 Những nguyên lý cơ bản của tài chính hành vi
•Hành vi không hợp lý:
Các nhà đầu tư sẽ có hành vi không hợp lý khi họ không phân tích và xử lý
"đúng" những thông tin mà họ có (và thị trường cung cấp), từ đó dẫn đến những
kỳ vọng lệch lạc về tương lai của cổ phiếu mà họ đầu tư vào. Ngoài ra, trong
một số trường hợp, dựa trên kinh nghiệm hay nhận thức sẵn có, họ cũng mắc
phải những "lệch lạc trong nhận thức". Những nghiên cứu về các hành vi
không hợp lý tiêu biểu trong thị trường tài chính là kết hợp giữa tâm lý học,
2

mà chủ yếu là trường phái tâm lý nhận thức (cognitive psychology) với trường
phái tâm lý hành vi (behavioral psychology). Có một số dạng lệch lạc trong
nhận thức tiêu biểu trong thị trường chứng khoán như sau:
* Phụ thuộc vào kinh nghiệm hay thuật toán (Heuristics). Các kinh
nghiệm, hay quy tắc học được thường giúp chúng ta ra quyết định nhanh chóng
và dễ dàng hơn nhiều(chính các trường dạy về kinh tế về mặt nào đó cũng chỉ ra
một số các quy tắc quyết định cho một số trường hợp kia mà). Nhưng trong một
số trường hợp, dựa dẫm quá nhiều vào các quy tắc đôi khi sẽ dẫn đến sai lầm,
đặc biệt là khi các điều kiện bên ngoài thay đổi. Và đặc biệt là người ta thường
đề cao hiệu quả của những quy tắc đơn giản, gần gũi và dễ nhớ, kiểu hiệu ứng
mà Tversky và Kahneman (1979) gọi là hiệu ứng quy tắc có sẵn availability
heuristic). Shiller (2000) đã đưa ra một ví dụ là khi nhiều người đều dùng
internet thì họ dễ dàng nghĩ đến những điển hình thành công và những đổi mới
hấp dẫn đang diễn ra trên mạng, thế là họ nghĩ ngành kinhdoanh này sẽ thành
công, rốt cuộc đã dẫn đến vụ băng nổ giá cổ phiếu các công ty công nghệ
cao vào cuối những
năm 1990, v.v…
*Lệch lạc do tình huống điển hình (Representativeness), thường được diễn
tả một cách đơn giản là xu hướng không quan tâm nhiều đến những nhân tố dài
hạn, mà thường đặt nhiều quan tâm đến những tình huống điển hình ngắn hạn.
Tversky và Kahneman (1974) đưa ra một định nghĩa hàn lâm hơn cho tình
huống này là người ta đánh giá xác suất xảy ra của những sự kiện trong tương
lai dựa vào mức độ "tương tự" với một tình huống điển hình nào đó. Điểm quan
trọng là người ta thường chỉ quan tâm đến một tình huống điển hình của một
giai đoạn ngắn thay vì quan tâm đến một mẫu hình điển hình trong một giai
đoạn dài (điều này gọi là luật số quan sát nhỏ, "law of small numbers").
* Bảo thủ (conservatism). Khi điều kiện thay đổi (thông tin mới về triển
trong nền kinh tế chẳng hạn), người ta có xu hướng chậm phản ứng với những
thay đổi đó, và gắn nhận định (anchoring) của mình với tình hình chung trong
một giai đoạn dài hơi trước đó. Tức là khi có tin nền kinh tế suy giảm, họ cho

3
rằng kinh tế kém đi chỉ là tạm thời, dài hạn vẫn là đi lên, mà không nhận
thấy có thể tin đó phát đi tín hiệu một chu kỳ suy thoái nhiều năm đã bắt
đầu.
Hiệu ứng này (gắn với kinh nghiệm dài hạn) là ngược lại với hiệu ứng lệch
lạc do tình huống điển hình (đặt nặng vào các tình huống điển hình ngắn hạn).
Phối hợp 2 hiệu ứng này có thể giúp giải thích hiện tượng phản ứng chậm trên
thị trường chứng khoán. Ví dụ, khi ban đầu tin tức công bố của một Công ty
cho thấy lợi nhuận giảm, người ta vẫn tin rằng đây chỉ là giảm tạm thời, và phản
ứng chậm với thông tin này, nên giá cổ phiếu công ty có tin xấu vẫn giảm chậm.
Đến khi liên tục vài quý sau, tình hình vẫn xấu, thì người ta đã "phát hiện" ra
một tình huống điển hình mới: Công ty này quý trước cũng kinh doanh kém,
quý này cũng kinh doanh kém, vậy nên bán tống cổ phiếu Công ty này đi tránh
lỗ. Thế là mọi người đổ xô đi bán cổ phiếu. Kết quả, lại dẫn đến phản ứng thái
quá.
* Quá tự tin (overconfidence) Có nhiều nghiên cứu tâm lý học trên thị
trường tài
chính cho thấy các nhà đầu tư tỏ ra quá tự tin. Bằng chứng gần đây nhất là
việc nhiều nhà đầu tư ít đa dạng hoá danh mục của mình và đầu tư nhiều vào
những công ty mà mình quen thuộc (một số nghiên cứu tranh cãi rằng có thể vì
họ có thông tin nội bộ về những công ty đó, nhưng những nghiên cứu gần đây
trong lĩnh vực quản trị công ty đã bác bỏ luận cứ này). Như vậy, một cách giải
thích khả dĩ là các nhà đầu tư ít đa dạng hoá này tự tin quá mức vào tầm
hiểu biết của mình đối với công ty. Barber và Odean (2001) còn công bố
một kết quả thú vị là những nhà kinh doanh chứng khoán là nam thì quá tự
tin nhiều hơn nữ, và nam càng thực hiện nhiều giao dịch thì…kết quả càng tệ hại
hơn.
* Định nghĩa hẹp (narow framing) cô lập một khái niệm hay phân tích một
vấn đề trong một khuôn khổ hạn hẹp, tách biệt, và cố gắng đưa ra quyết định tối
ưu cho khuôn

khổ hạn hẹp ấy, thay vì cho toàn cục. Phương pháp này có thể hữu ích
4
trong một số trường hợp giới hạn về nguồn lực, hay không đủ thời gian phân
tích nhiều. Tuy nhiên, nó cũng có thể đưa đến sai lầm.
* Tính toán bất hợp lý (mental accounting). Đây là một dạng của định
nghĩa hẹp. Chúng ta có xu hướng tách riêng các quyết định mà đúng ra phải
được kết hợp lại với nhau vào các tài khoản ảo trong trí tưởng tượng của
chúng ta và tối đa hoá lợi ích từng tài khoản. Và vì thế, đôi khi chúng ta đưa ra
các quyết định nhìn tưởng là hợp lý, mà thật ra là sai lầm. Ví dụ, có người có
xu hướng tách biệt ra 2 ngân sách gia đình, một dành cho mua thức ăn trong
gia đình, một dành cho đi ăn nhà hàng cuối tuần.
Và khi chi tiêu mua đồ ăn, người này thường không mua hải sản cao cấp vì
nghĩ rằng nó mắc và chỉ ăn thịt bình thường, nhưng khi vào ăn nhà hàng, người
này lại gọi tôm hùm, thay vì ăn một bữa thịt bình thường (đương nhiên rẻ hơn
tôm hùm). Nếu thay vì như vậy, người này đi mua tôm hùm cho bữa ăn tại nhà,
và chỉ ăn thịt bình thường trong nhà hàng, anh ta có thể tiết kiệm tiền. Vấn đề
nằm ở chỗ anh ta đã tách biệt ra 2 tài khoản riêng cho thức ăn tại nhà và đi ăn
cuối tuần !
Sử dụng tính toán bất hợp lý và định nghĩa hẹp, chúng ta có thể giải thích
nhiều hiện tượng như lựa chọn nghịch với sở thích (preference reversals), sợ
thua lỗ (loss version), và hiệu ứng phân bổ tài khoản khá phổ biến, thể hiện cơ
bản ở chỗ người ta sẵn sàng thực hiện ngay những lệnh mang lại lời nhỏ,
nhưng trì hỗn không thực hiện lệnh dừng lỗ khi xuất hiện những khoản lỗ nhỏ.
Ví dụ, khi mua cổ phiếu giá 30.000, sau đó giá giảm xuống 22.000, người ta vẫn
không bán cổ phiếu (thậm chí còn mua tiếp) và chờ đến khi giá lên trên 30.000
một chút mới bán ngay kiếm lời. Giá có giảm tiếp người ta cũng cứ giữ cổ phiếu
đó tiếp. Vì họ đã tách biệt giữa "tài khoản lời" và "tài khoản lỗ" trong tâm trí
của mình, cho nên họ cố tối đa hoá tài khoản lời, và tối thiểu hoá tài khoản lỗ,
nên giá lên một chút thì bán, giá xuống thì cứ giữ, xem như nó chưa bị chuyển
qua tài khoản lỗ. Hiệu ứng phân bổ tài khoản này cũng có thể được lý giải bằng

hiệu ứng tự lừa dỗi (sợ rằng nếu bán mà bị lỗ thì sẽ cảm thấy bản thân ra quyết
định đầu tư kém), hay hiệu ứng tiếc nuối (lỡ bán rồi mà giá lên thì sao). Hiệu
5
ứng phân bổ tài khoản lý giải một phần vì sao trong thị trường tăng giá thì khối
lượng giao dịch tăng cao hơn khi thị trường giảm giá tại Mỹ và Nhật.
Trên đây chỉ là một số hiệu ứng tâm lý đã được đề cập và đưa vào một số
mô hình tài chính hành vi.
• Hành vi không hợp lý mang tính hệ thống:
Nếu chỉ một nhà đầu tư đơn lẻ có hành vi không hợp lý, thì ảnh hưởng của
giao dịch của nhà đầu tư này lên giá cổ phiếu trên thị trường là không đáng kể
(cho dù là một tổ chức đầu tư lớn thì ảnh hưởng cũng rất hạn chế nếu chỉ đơn
độc một mình). Chỉ khi hành vi không hợp lý là mang tính hệ thống (nghĩa là
một nhóm nhiều nhà đầu tư cùng có một hành vi không hợp lý như nhau) thì khi
ấy việc định giá sai sẽ xuất hiện và có thể bắt đầu kéo dài. Lý thuyết tài chính
hành vi cho rằng tính lệch lạc (bất hợp lý) trong hành vi là khá phổ biến đối với
nhiều nhà đầu tư, và do đó, nó tạo thành một dạng như chúng ta thường gọi là
"hiệu ứng bầy đàn", khiến cho giá một số cổ phiếu không phản ánh giá trị "thực"
(hay "hợp lý") của chúng. Như vậy, "hiệu ứng bầy đàn" là không tốt cho thị
trường trong trường hợp chúng ta xem hiệu ứng bầy đàn là tất cả đều hành
động theo một mẫu hình hành vi lệch lạc, không hợp lý, thấy ai làm sao thì làm
vậy.
- Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính:
Lý thuyết thị trường hiệu quả tin rằng nếu tồn tại định giá sai thì sẽ tồn tại
cơ hội để kinh doanh chênh lệch giá thu lợi nhuận, và chính hành vi kinh doanh
chênh lệch giá sẽ điều chỉnh giá trên thị trường về cân bằng. Nhưng nếu tồn tại
định giá sai, mà lại không thể thực hiện kinh doanh chênh lệch giá để tận dụng
các khoản lợi nhuận này thì như thế nào? Và tại sao lại không thể thực hiện kinh
doanh chênh lệch giá khi có định giá sai ?
Một giải thích được chấp nhận rộng rãi trong trường phái tài chính
hành vi là có 2 dạng định giá sai:

+ Một dạng là thường xuyên xảy ra và có thể kinh doanh chênh lệch giá
được.
+ Một dạng là không thường xảy ra, kéo dài và không thể kinh doanh
6
chênh lệch giá được (nói một cách khác, khó mà xác định được khi nào mức
định giá sai đã đạt tới giới hạn trên hay dưới và điều chỉnh lại).
Nếu tham gia "chỉnh sửa" kiểu định giá sai dạng 2 thì rất dễ rơi vào trạng
thái "tiền mất, tật mang.
Barberis và Thales (2003) chỉ ra rằng kinh doanh chênh lệch giá không thể
xảy ra vì có những tài sản về lý thuyết là có tính thay thế lẫn nhau hoàn hảo và
có thể kinh doanh chênh lệch giá 2 tài sản đó, nhưng thực tế thì không như
vậy, do đó tạo ra rủi ro tăng thêm cho hoạt động kinh doanh chênh lệch giá (vốn
được xem là rủi ro thấp đến mức phi rủi ro). Ngoài ra, chi phí thực hiện các
chiến lược hưởng chênh lệch giá và sự tồn tại của các giao dịch của những nhà
đầu tư không hợp lý cũng ngăn cản điều này. Chính vì vậy, chúng ta đã
từng thấy trong lịch sử nhiều vụ bong bóng giá ở Nhật (thập niên 1980), Đài
Loan (1990), cổ phiếu công nghệ truyền thông của Mỹ (1999- 2000), rồi gần đây
là chứng khoán Trung Quốc và Việt Nam cũng bị xem là "quá nóng".
Tuy nhiên, rõ ràng không hề có những điều chỉnh tức thời như người
ta kỳ vọng, mà những vụ bong bóng này kéo dài nhiều năm (nhất là ở các nước
châu Á đang phát triển).
Đây là dấu hiệu của giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá.
1.1.2.2 Các ứng dụng của lý thuyết tài chính hành vi
- Một khi trong thị trường hội đủ 3 yếu tố kể trên (hành vi bất hợp lý của
nhà đầu tư, hiệu
ứng bất hợp lý mang tính hệ thống, và giới hạn kinh doanh chênh lệch giá),
thì đó là lúc
mà hiện tượng giá cổ phiếu (hay rộng ra là tài sản tài chính) bị định giá sai
sẽ đáng kể và
kéo dài. Khi đó các lý thuyết tài chính truyền thống bị giảm hiệu quả, và

lý thuyết tài chính hành vi là một bổ sung giá trị. Lý thuyết tài chính hành vi
nhìn chung không phải là một trường phái tài chính chính thống (mặc dù
thường bị các nhà nghiên cứu thuộc trường phái thị trường hiệu quả, dẫn đầu là
Fama đả kích). Lý thuyết này còn ở dạng sơ khai, còn tồn tại nhiều vấn đề gây
7
tranh cãi chưa có những cơ sở và nguyên lý vững chắc như lý thuyết chính thống
hiện đại như rủi ro - tỷ suất sinh lợi, thị trường hiệu quả, kinh doanh chệnh lệch
giá), và là một sự bổ sung hơn là tách biệt khỏi lý thuyết tài chính chính thống.
- Ứng dụng của tài chính hành vi không chỉ dừng lại trong việc giải
thích các hành vi không hợp lý của nhà đầu tư, mà đi xa hơn, sử dụng nó để
quản trị tài khoản đầu tư, phân tích tâm lý của thị trường, rồi từ đó đưa ra các
quyết định đầu tư hợp lý, và điều chỉnh các mô hình định giá (bao gồm định
giá chứng khoán, sản phẩm phái sinh…) cho đến ứng dụng trong lý thuyết quản
trị công ty hay cấu trúc vốn trong tài chính doanh nghiệp, lẫn giải thích tính
tương tác giữa các thị trường khác nhau.
1.2 Quản trị tài khoản và tâm lý giao dịch
1.2.1 Các nhân tố quyết định thành công trong đầu tư:
*Tự làm công việc của mình:
Điều này thì rõ ràng dễ hiểu nhưng có lẽ sai lầm phổ biến nhất mà các nhà
đầu tư thường mắc phải là họ không biết nên mua chứng khoán nào. Nhà đầu tư
sẽ không mua chứng khoán đó nếu họ không biết rõ về tình hình bên trong cũng
như bên ngoài của công ty này.
Điều này có nghĩa rằng họ cần phải nâng cao hiểu biết của mình về kế toán
để rồi có thể tự quyết định được mức độ tài chính hiện tại của công ty như thế
nào. Thứ nhất, quăng tiền của mình vào rủi ro thì họ phải biết mình nên mua cái
gì. Thêm nữa không thể dựa vào một người khác nói với mình rằng một công ty
nào đó là nơi đầu tư hấp dẫn. Nhà đầu tư phải tự quyết định đầu tư cho chính
mình, bởi một cổ phiếu tăng trưởng nóng với người này lại là một thảm họa sắp
xảy ra với người kia.
* Biết được khi nào bán

Một cách lý tưởng thì chúng ta nên nắm giữ các khoản đầu tư mãi mãi,
nhưng sự thật thì có rất ít công ty có giá trị cho mình nắm giữ cả thế kỷ và vì thế
chỉ có một số ít nhà đầu tư với đầy đủ thông thái mới mua được cổ phiếu của các
công ty này. Biết được khi nào là thời điểm phù hợp để bán những cổ phiếu này
là một điều quan trọng tối thiểu cũng như là biết được khi nào nên mua nó,
8
chúng ta thường bán đi phần thắng lợi quá sớm còn nắm giữ phần lỗ lại quá lâu.
Chìa khóa thành công là theo dõi công ty mà bạn nắm giữ cổ phiếu chứ
không phải theo dõi giá cổ phiếu đó. Theo dõi thông tin về công ty đó cũng như
ngành nghề mà công ty đó hoạt động tốt hơn là xem giá của cổ phiếu đó 20 lần
một ngày.
*Bắt đáy:
Việc này cũng được hiểu như nhà đầu tư sẽ phải biết khi nào ta cần mua
vào cổ phiếu. Theo lẽ thường, ta sẽ mua vào lúc cổ phiếu có giá thấp nhất có thế.
Vì thế thuật ngữ “bắt đáy” ra đời. Hãy chờ tham gia khi thị trường đang có xu
hướng bán ra. Niềm tin thị trường thường xoay chuyển một cách chậm chạp và
nên kiên nhẫn chờ thời điểm chín muồi. Và khuyến nghị là thời điểm tốt nhất để
mua vào là khi các nhà đầu tư sợ hãi tháo chạy và thị trường xuất hịên hịên
tượng bán tháo.
Nhớ là chúng ta chỉ có thể kiếm tiền từ cổ phiếu khi người ta ghét bỏ nó
hoặc sợ hãi nó giống như sự kịên đã xảy ra vào ngày Lễ lao động năm ngoái trên
thị trường chứng khoán Mỹ.
1.2.2 Hoạch định chiến lược đầu tư
Khi đã quyết định đầu tư vào cổ phiếu, nhà đầu tư cần phải xác định xem
mình là nhà đầu tư dài hạn hay ngắn hạn, mục tiêu đầu tư và mức độ rủi ro có
thể chấp nhận để xây dựng một chiến lược đầu tư cho phù hợp.
Chiến lược có thể rất đơn giản, và có thể không hơn gì một quan điểm đầu
tư thông thường. Thế nhưng căn cứ vào một số cơ sở logic nào đó sẽ tốt hơn
chọn lựa theo kiểu hú hoạ. Sau đây là một số chiến lược đầu tư chính:
*Mua rồi giữ luôn

Mua cổ phiếu của những công ty làm ăn phát đạt rồi giữ luôn để hưởng cổ
tức và lãi vốn. Đây là chiến lược đầu tư lâu dài, có thể đem lại lợi nhuận và
không đòi hỏi nhà đầu tư phải quan tâm theo dõi các tin tức tài chính hàng ngày.
Chiến lược này xuất phát từ những kết luận cho rằng, trong quá khứ giá chứng
khoán luôn tăng một cách đều đặn và giá trị của khoản đầu tư sẽ tăng lên. Thêm
vào đó, nhà đầu tư còn nhận được cổ tức hàng năm và cổ phiếu có thể được
9
phân tách. Tuy không có gì đảm bảo cho việc phân tách sẽ đem lại lợi ích cho
nhà đầu tư nhưng thực tế thì giá trị của các khoản đầu tư thường tăng lên nhờ
nghiệp vụ này.
Nhưng lưu ý rằng, mua rồi giữ luôn là một chiến lược đúng nhưng đừng
thực hiện điều đó một cách mù quáng. Cổ phiếu thường tăng giá qua thời gian
nhưng điều đó không phải luôn đúng với mọi cổ phiếu. Không một cổ phiếu nào
luôn tăng giá trong một thời gian dài. Bởi vậy, thỉnh thoảng nhà đầu tư cũng
phải xem xét lại tình hình hoạt động của công ty để cú quyết định thích hợp.
Và luôn nhớ rằng không được mua cổ phiếu với giá quá cao, dự đó là cổ
phiếu tốt. Bởi lẽ, khi nó mất giá thì có thể phải mất nhiều năm mới thu lại được
khoản tiền đã đầu tư. Do vậy, hãy quan tâm đến việc định giá cổ phiếu trước khi
mua. Kiểm tra xem cổ phiếu đó có đắt không bằng cách so sánh tỷ số P/E của nó
với các công ty trong cùng lĩnh vực hoạt động và mức bình quân của ngành. Một
số cổ phiếu tốt sẽ có giá đắt hơn nhưng có thể là một cổ phiếu đáng đầu tư nếu
mức tăng trưởng lợi nhuận, doanh thu dự kiến là khả quan.
*Mua khi giá hạ
Khi nhìn thấy giá trị đầu tư của mình giảm xuống, cũng là lúc nhà đầu tư
phải mua thêm nhiều cổ phiếu giống như vậy. Điều này nghe giống như ném
tiền qua cửa sổ. Tuy nhiên, loại cổ phiếu sẽ đầu tư là loại cổ phiếu có giá thay
đổi rất nhiều trong một thời gian dài và giá tăng trở lại mỗi khi giá sụt xuống
mức thấp nhất, và mức giá cao nhất và thấp nhất cách nhau từng nhiều năm.
Như vậy, dù cho cổ phiếu đang biến chuyển bất lợi như thế nào đi nữa, chúng ta
cũng có thể trông đợi giá sẽ tăng trở lại như nó vẫn luôn như vậy và chính điều

này sẽ đem lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư trong một tương lai không quá xa.
Nhiều nhà đầu tư thực hiện chiến lược này theo cách khi giá giảm (tăng)
cực điểm và tăng lên (giảm xuống) một mức X nào đó thì mua vào (bán ra).
Chiến lược này có thể giúp cho nhà đầu tư tránh được những rủi ro phát sinh do
việc mua vào khi giá cao và bán ra khi giá thấp. Sự thua lỗ chỉ có thể xảy ra khi
nhà đầu tư bán ra ở mức giá dưới mức bình quân. Ngược lại, khi bán ra ở mức
giá trên mức bình quân thì nhà đầu tư sẽ có lãi.
10
Tuy nhiên, nắm giữ cổ phiếu trong trường hợp giá liên tục rớt sẽ đem lại
nguy cơ thua lỗ nghiêm trọng. Do đó, nên bán khi giá của chúng đã giảm tới 8%
hoặc hơn và chuyển sang đầu tư vào một loại cổ phiếu khác.
*Mua dựa
Mua bán cổ phiếu chủ yếu dựa trên quy luật số đông. Nhà đầu tư theo chiến
lược này cho rằng thị trường không thể có phản ứng kịp thời với những dữ liệu
thống kê và tình hình kinh tế một cách chính xác. Theo họ, nếu có một nhóm
người (vừa đủ) lạc quan về thị trường họ sẽ mua cổ phiếu cho đến khi giá lên
cao một cách phi lý. Ngược lại, khi họ bắt đầu bi quan thì họ sẽ bán ra, bất chấp
những điều kiện cơ bản lúc đó thế nào. Lúc đó, họ có thể làm cho giá xuống một
cách phi lý.
Hành động mua cổ phiếu theo nhóm người này có thể mang lại lợi ích và
sự an toàn. Tuy nhiên, nhiều người thực hiện chiến lược này một cách cứng
nhắc đã phải mua với giá cao và bán với giá thấp. Lời khuyên được đưa ra:
“Đừng mua khi số người mua nhiều hơn số người bán, nếu không cẩn thận thì
có thể phải chi số tiền nhiều hơn cần thiết. Đừng bán khi số người bán nhiều hơn
số người mua, nếu cứ bán thì chỉ có thể kiếm được vài xu lời mà thôi”.
*Mua cổ phiếu của những công ty nhỏ
Tiềm năng tăng giá là sự hấp dẫn các nhà đầu tư áp dụng chiến lược này.
Những công ty nhỏ có xu hướng đạt được mức lợi nhuận cao hơn công ty lớn,
nhất là trong thời kỳ lạm phát kéo dài và nằm ở mức cao. Tuy nhiên, cổ phiếu
của các công ty nhỏ có xu hướng mất giá nhiều hơn so với cổ phiếu của các

công ty lớn trong giai đoạn này. Ngoài ra, giá cổ phiếu các công ty nhỏ biến
động nhiều hơn và thường không theo kịp chỉ số giá trung bình của thị trường
trong dài hạn. Do đó, cổ phiếu của những công ty nhỏ không phải để mua và giữ
dài hạn.
Cổ phiếu của những công ty nhỏ có thể bất ngờ tăng giá dữ dội hay hạ giá
dữ dội. Tuy nhiên, nó tăng giảm theo ngành nghề. Nếu một ngành đang tăng lên,
hãy mua một vài cổ phiếu của các công ty nhỏ tốt nhất trong đó. Một trong các
ngành đang đầu tư đi xuống, hãy bán hết cổ phiếu của các công ty nhỏ trong
11
ngành đó. Do đó, khi áp dụng chiến lược đầu tư này, nhà đầu tư phải theo dõi
thật sát sự phát triển của nó để đảm bảo rằng nó vẫn luôn luôn đáp ứng đủ các
tiêu chuẩn. Đó là làm ăn có lãi, tỉ lệ gia tăng cổ tức trên 10% trong vòng 5 năm,
tỉ lệ nợ trên vốn cổ phần thấp, lưu lượng tiền mặt tự do cao và tỉ lệ P/E thấp.
Nếu P/E cao thì tỷ lệ gia tăng lợi nhuận cũng phải cao.
Với kỹ năng, kinh nghiệm và sự kiên nhẫn, cổ phiếu của các công ty nhỏ sẽ
mang lại cho nhà đầu tư nhiều phần thưởng.
*Mua cổ phiếu tăng trưởng
Cổ phiếu tăng trưởng là cổ phiếu của những công ty có doanh số, thu nhập
và thị phần đang tăng với tốc độ nhanh hơn bình quân trong vài năm qua và
người ta mong rằng nó còn tiếp tục chứng tỏ mức tăng trưởng lợi nhuận cao.
Các công ty này thường quan tâm đến việc mở rộng nghiên cứu và phát triển
cho nên phần lớn lợi nhuận được giữ lại để tái đầu tư. Do vậy, cổ tức thường
thấp. Tuy nhiên, tìm ra và chọn được một cổ phiếu tăng trưởng không phi là việc
ai cũng làm được. Nó đòi hỏi thời gian, sự kiên nhẫn và khả năng phân tích thị
trường.
Các công ty tăng trưởng thường là những công ty có sản phẩm hoặc dịch
vụ tân tiến, có khả năng nắm bắt và đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu và
mới mẻ của xã hội (lĩnh vực tiêu dùng, công nghệ cao và sinh học…).
Thông thường, các công ty tăng trưởng có tỷ số P/E cao; vốn cổ phần lớn
hơn hoặc bằng tổng nợ; tăng trưởng đều đặn, không ngừng trong thu nhập tính

theo đầu cổ phiếu ít nhất là 10%/năm.
Một số nghiên cứu cho thấy, những công ty đã từng đạt mức thu nhập thực
tế cao hơn mức thu nhập dự đoán thì có nhiều khả năng sẽ lặp lại được thành
tích đó trong tương lai.
Phần thưởng dành cho các nhà đầu tư cổ phiếu tăng trưởng rất hấp dẫn.
Nhiều người đã làm giàu nhờ biết lưu giữ những cổ phiếu tăng trưởng đích thực
trong một thời gian dài.
Một nguy hiểm lớn cho những người đầu tư cổ phiếu tăng trưởng là chạy
theo cái mốt nhất thời. Khi công ty có một sản phẩm hay dịch vụ mới, họ cho
12
rằng nó có khả năng tăng trưởng mạnh và cứ hỏi mua cổ phiếu đó với giá cao.
Tuy đó là những cổ phiếu tốt nhưng được đánh giá quá cao sẽ có phản tác dụng
và trong trường hợp đó nhà đầu tư không kịp thanh toán sẽ bị lỗ nặng. Do đó,
cần phân biệt tăng trưởng dài hạn với bộc phát tức thời. Các nhà đầu tư cổ phiếu
tăng trưởng phải biết cách nhìn vượt lên trên các biến chuyển giá cả trong ngắn
hạn của chứng khoán, từ chối dứt khoát việc trả giá quá cao cho sự tăng trưởng.
Mức giá hợp lý để mua cổ phiếu tăng trưởng là khi PEG nhỏ hơn 1 (P/E chia
cho tốc độ tăng trưởng dự đoán G).
Mục tiêu của cổ phiếu tăng trưởng nên được xem xét đánh giá hàng năm,
hàng quý, thậm chí là hàng tháng. Tuy nhiên, khi đánh giá hàng tháng, nhà đầu
tư cần tránh phản ứng quá nhạy cảm và bán cổ phiếu ra quá sớm khi nhận thấy
sự sút giảm mức độ tăng trưởng.
*Mua cổ phiếu của những công ty quen thuộc, lĩnh vực quen thuộc
Đó là cổ phiếu của các công ty thường xuyên được tiếp xúc, được quan sát
hay đơn giản là sản phẩm của công ty đó được nhà đầu tư thường xuyên mua.
Cũng có khi chỉ vì thích sản phẩm của công ty đó hoặc do ảnh hưởng bởi danh
tiếng hay mối quan hệ quen biết mà họ quyết định đầu tư vào công ty đó. Đây có
thể là một sự khởi đầu tốt nhưng cần phải biết kỹ hơn về công ty dự định sẽ đầu
tư.
Điểm hạn chế của chiến lược này là sự chủ quan, chỉ nhắm vào các khía

cạnh phiến diện về công cuộc kinh doanh của công ty mà thôi. Và nó hạn chế
nhà đầu tư vào một hoặc hai ngành nghề. Đầu tư theo chiến lược này đòi hỏi sự
nhạy bén trước các sự kiện mới mẻ. Nhiều công ty có vẻ xa lạ nhưng nếu chịu
khó tìm hiểu thì có thể thấy đó thực sự là một cổ phiếu tốt đáng để khai thác.
Qua việc nghiên cứu, cảm nhận riêng về một loại cổ phiếu có thể được xác nhận
hay bị bác bỏ. Điều này sẽ giúp cho các nhà đầu tư tiết kiệm được rất nhiều.
*Mua cổ phiếu thượng đẳng
Cổ phiếu thượng đẳng là cổ phiếu của các công ty lớn có tiếng tăm, tiềm
lực tài chính mạnh, thành tích kinh doanh vững chắc, lợi nhuận ổn định. Việc
nắm giữ cổ phiếu này sẽ giảm thiểu yếu tố rủi ro, ngay cả trong thời kỳ suy thoái
13
hay khủng hoảng kinh tế, nhưng thành tích của nó hiếm khi nổi bật. Chiến lược
này phù hợp với những nhà đầu tư ngại rủi ro và muốn có thu nhập đều đặn.
*Và còn rất nhiều những chiến lược đầu tư phức tạp khác nữa.
1.2.3 Một số sai lầm thường gặp
Để kiếm được tiền từ việc đầu tư chứng khoán, điều quan trọng nhất là bạn
phải tránh được những sai lầm chết người. Các chuyên gia nghiên cứu đã tìm
hiểu các hành vi tài chính của nhà đầu tư, ví dụ như cách phân tích hay phản ứng
của họ trước các thông tin tài chính, để tìm nguyên nhân dẫn đến các sai lầm
nay.
Không chỉ các nhà đầu tư cá nhân, chuyên nghiệp và nghiệp dư mà ngay cả
các chuyên gia quản lý quỹ đầu tư cũng rất dễ mắc phải sai lầm khi đầu tư chứng
khoán. Vì dự có giỏi đến đâu chăng
nữa, họ cũng vẫn là những con người bằng xương bằng thịt
*Quá tự tin
Hầu hết mọi người đều quá tự tin. Một nghiên cứu đó chỉ ra rằng con người
thường đánh giá quá cao những khả năng của bản thân mình. Thậm chí, nhiều
người cũn cho rằng mình luôn cao hơn người khác một cái đầu. Nếu xét về giới
tính thì đàn ông có xu hướng tự tin hơn phụ nữ rất nhiều.
Sự tự tin đúng mực mang lại nhiều lợi ích cho con người trân một số lĩnh

vực của cuộc sống. Một người tự tin có xu hướng vui vẻ và làm việc chăm chỉ
hơn những người khác. Họ cũng có khả năng đương đầu tốt hơn với những khó
khăn trong cuộc sống.
Tuy nhiên, quá tự tin trong đầu tư lại hết sức nguy hiểm bởi vỡ thị trường
chứng khoán là nơi mà mọi thứ có thể thay đổi ngay trong tíc tắc.
*Quá trung thành với những thất bại
Tất cả mọi người đều không thích sự thất bại. Nhiều người sẽ không chấp
nhận sự thất bại trong đầu tư chừng nào họ chưa thu lại được vốn đầu tư ban đầu
khi mua được cổ phiếu với giá gốc (get-even). Thất bại thực sự làm tổn thương
lòng tự trọng. Trân thực tế, có nhiều nhà đầu tư lỗ vốn hơn là hòa vốn, chứ chưa
14
nói gỡ đến có lói. Nhiều nghiên cứu đó cho thấy nỗi đau của việc mất $10.000
bằng hai
lần niềm hạnh phúc khi nhận được $10.000. Vì vậy, mọi người luôn cố
gắng để tránh những cảm giác hối tiếc và đau đớn về mặt tâm l ý. Tuy không
thích sự thất bại, nhưng mọi người lại thường không phân tích nguyên nhân thất
bại một cách hợp lý. Trớ trêu thay, những người thất bại, khi càng cố gắng giảm
thiểu sự thất bại, họ lại càng làm gia tăng những nguy cơ rủi ro. Giống như
những con bạc khát nước, các nhà đầu tư tiềm năng thường tăng khoản cá cược
của họ lên khi đang may mắn để kéo dài vận may của mình. Một người bốc
đồng có thể vội vàng nhân đôi số cổ phiếu của một quỹ không ổn định (có thể
giảm giá tới 50%) để giảm mức chi phí trung bình khi mua cổ phiếu đó.
Nhưng giá thấp có thể trở nân thấp hơn nữa.
Ngay kể cả các nhà đầu tư chuyên nghiệp cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi
tâm lý sợ thất bại. Những nhà quản l ý quỹ có thể sẽ gặp rủi ro lớn hơn trong
những thời kỳ quỹ phải chịu tỷ lệ chi phí cao hoặc cổ phiếu liên tục rớt giá. Hội
chứng “get-even” này có thể rất bất lợi cho các nhà đầu tư tài chính giỏi. Nếu
việc đầu tư không thuận lợi, họ kiên định và hy vọng sẽ có bước đột phá.
Họ có thể tránh bị rơi vào trạng thái hối tiếc vỡ sợ mình là một nhà đầu tư tồi
nên đó vội vã bán quỹ đầu tư đi ngay khi nó xuống giá. Bởi vỡ, nếu bán thì họ

đó kết thúc quá trình đầu tư bằng sự thất bại, cũn nếu không bán, họ cũn có hy
vọng nó sẽ phục hồi và biết đâu nó sẽ phục hồi thật. Nhưng sự kiên nhẫn cũng
phải có một giới hạn
nhất định.
Giả sử bạn muốn nhân tiền của bạn lân gấp đôi trong 8 năm. Như vậy,
trung bình mỗi năm bạn phải đạt lợi nhuận ở mức 9,05%. Tuy nhiên, nếu bị mắc
kẹt vào những kế hoạch vô dụng, không mang lại lợi nhuận như mong muốn,
bạn sẽ càng khó khăn hơn để đạt được mục tiêu ban đầu. Ví dụ, nếu giá trị đầu
tư của bạn bị trượt giá 25% trong năm năm đầu, có nghĩa là bạn phải đạt được
sự tăng trưởng lợi
15
nhuận 38,67%/năm trong ba năm cũn lại để đạt được mục tiêu đề ra là tăng
gấp đôi số tiền của mình trong 8 năm. Một sự đầu tư mà không có lói sẽ gây ra
rất nhiều tổn thất nếu kéo dài. Với 0% doanh thu trong suốt năm năm đầu tiên
thì bạn phải kiếm được 25,99% lợi nhuận trong những năm cũn lại để gấp đôi số
tiền trong 8 năm theo kế hoạch.
Về mặt tâm l ý của các nhà đầu tư, họ vẫn nuôi hy vọng vào một phép diệu
kỳ nào đó. Bằng cách suy nghĩ tích cực, nhà đầu tư có thể đương đầu với những
thất bại tốt hơn. Thay vỡ suy nghĩ “nếu bán tức là tôi sẽ thừa nhận sự thất bại
nhục nhó to lớn”, hãy nghĩ đơn giản “Tôi sẽ chuyển tài sản của tôi sang một mục
đích sử dụng hiệu quả hơn”. Câu nói này tương đối hữu ích nếu bạn đang cố
gắng thuyết phục ai đó chấp nhận thất bại một cách dễ dàng hơn.
*Chỉ nhìn thấy lãi
Không có gì là khiếm nhã khi nói rằng nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng con
người rất nhanh nhạy trong việc thu về những lợi ích cho mình. Niềm tự hào và
sự hối tiếc luôn song hành trong suy nghĩ của họ.
Ví dụ, một nhà đầu tư nhìn thấy một cổ phiếu tiềm năng và anh ta muốn
đưa nó vào danh mục vốn đầu tư của mình. Nhưng để đầu tư vào cổ phiếu này
anh ta sẽ phải bán một cổ phiếu khác đi. Một nhà đầu tư “tìm kiếm sự tự hào”
thông thường sẽ bán cổ phiếu có lãi hơn là cổ phiếu đang bị lỗ. Bằng cách bán

một cổ phiếu ngay lập tức thu được lợi nhuận, dự nhỏ sẽ đem lại cho các nhà
đầu tư đó cảm giác
tự hào. Sự hối tiếc lúc này không được tính đến và gạt sang một bên, do
vậy anh ta giữ cổ phiếu đang bị thua lỗ lại.
Khi cổ phiếu đang thua lỗ có dấu hiệu hồi phục, nhiều nhà đầu tư lại bán nó
quá nhanh để chỉ thu về được một khoản lãi nhỏ hoặc thậm chí không có chút lãi
nào.
Bằng việc nhanh chóng lấy về vốn, các nhà đầu tư đã loại bỏ cơ hội thu
được lợi nhuận cao hơn, mà đáng lý ra sẽ là phần thưởng xứng đáng cho họ sau
những thời kỳ “đau khổ” kéo dài.
*Quá thiển cận
16
"Sự thiển cận xuất phát từ tâm lý sợ thất bại” là một thuật ngữ khác để chỉ
những nhà đầu tư thiển cận và nó làm những người có tầm nhìn xa cảm thấy xót
xa. Những nhà đầu tư thiển cận có xu hướng quá thận trọng khi sử dụng tài sản
của họ. Điều này rất phổ biến với những người muốn có được những khoản tiết
kiệm sau khi nghỉ hưu.
Một chân lý hiển nhiên là con đường dẫn tới những lợi nhuận dài hạn
thường bị ngắt quãng bởi những mất mát ngắn hạn. Thị trường thay đổi nhanh
chóng thường tạo ra sức ép tâm l ý lớn. Những người quá lo lắng thường có xu
hướng bán đi những quỹ đầu tư chứng khoán rất có tiềm năng ngay khi nhìn
thấy dấu hiệu đầu tiên của sự xuống giá.
Một người quá thiển cận có thể nhanh chóng bán ra khi giá trị trung bình
của cổ phiếu trên thị trường giảm 5% hoặc 10% trong một tuần. Người này sợ sẽ
mất tất cả! Thực tế thì giá cả thường sẽ tăng lên chỉ trong vòng vài ngày hoặc
vài tuần.
Có một quy tắc xác định mức độ rủi ro mà một cá nhân có thể vấp phải như
sau:
“Lấy 110 trừ đi số tuổi của bạn”. Ví dụ, một người 40 tuổi thì con số 70
(=110-40) là số phần trăm rủi ro mà anh ta có thể gặp phải. Vì vậy, nếu đầu tư ở

tầm nhìn ngắn hạn, nhà đầu tư này tốt nhất chỉ nên đầu tư một khoản tiền hết sức
khiêm tốn (nếu có).
*Phớt lờ những chi phí theo thời gian
Mọi người, đặc biệt là những người không hiểu biết về tài chính thường
không nhận biết được sự khác nhau rất lớn giữa các con số, đặc biệt là những
con số nhỏ. Bởi những con số nhỏ đó theo thời gian sẽ trở thành những con số
khổng lồ, chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng doanh thu, ví dụ như là tỷ lệ chi phí
quản lý cho khoản đầu tư của bạn chẳng hạn. Và như bạn đã biết, lợi nhuận của
một quỹ bằng doanh thu
của nó trừ đi chi phí, chi phí càng cao, lợi nhuận càng thấp. Thông thường
đối với các quỹ đầu tư, tỷ lệ chi phí dành cho quản lý được dao động từ ít hơn
0,20% đến hơn 2%.
17
Giả sử một khoản đầu tư ban đầu là $10.000 cộng thêm 10% lợi nhuận.
Một quỹ nội địa được quản l ý tốt với 1,25% tỷ lệ chi phí, sẽ lấy đi $895 (hay
5,55%) của $16.105 tổng tài sản trong tương lai sau 5 năm. Ngược lại, trong
vòng 40 năm, tỷ lệ chi phí sẽ tiêu tốn mất $166.062 của quỹ, chiếm tới 36,69%
của $452.593 tổng tài sản có được sau chừng ấy thời gian. Nói một cách khác,
số tiền còn lại chỉ bằng
63,31% tổng doanh thu.
Đối với danh mục quỹ nội địa, chi phí có mức ảnh hưởng ít hơn rất nhiều.
Với 0,20% tỷ lệ chi phí, một nhà đầu tư sau đó có thể mất đến $31.775 trong 40
năm, bằng 7,02% trị giá chỉ số index tương lai. Vì vậy, mức lợi nhuận của danh
mục sẽ là 92,98%. Vì vậy khi nhìn vào bảng danh mục quỹ đầu tư và quỹ giao
dịch thương mại, bạn cần quan tâm đến các quỹ có tỷ lệ chi phí thấp, đặc biệt
khi có ý định đầu tư dài hạn.
1.2.4 Quản lý vị thế giao dịch
Quản lý các vị thế giao dịch và việc rất khó đối với các nhà đầu tư. Thường
ta nhảy bổ vào một giao dịch khởi tạo rất tốt, để rồi sau đó lại thấy nó thất bại
chỉ vì quản lý vị thế giao dịch quá tồi. Nhà đầu tư tay mơ chỉ coi thị trường

không hơn gì một kiểu pick-and-play game. Trong khi đó các nhà đầu tư sảnh
sỏi phải tốn nhiều thời gian để làm chủ được các rắc rối xảy ra trong ngày. Đó là
một việc lớn cần sự quan tâm thấu đáo, song kết quả đạt được cũng đáng công vì
nó giúp họ tránh được hiểm họa và bảo đảm doanh lợi tối thiểu. Các quy tắc sau
đây nên được lưu tâm để có thể quản lý và gia tăng vị thế giao dịch:
*Phải xác định trước mức độ quản lý các vị thế giao dịch nên chủ động như
thế nào: nhà đầu tư sảnh sỏi chú ý đến mọi giao dịch trong phiên giao dịch, còn
nhà đầu tư tay mơ thì ngồi đọc báo và để ý đến những thứ mà họ cho là cần
thiết, chúng ta phải cố gắng cân bằng cả 2 việc này.
*Chọn khung thởi gian giao dịch phù hợp với mình một cách thông minh:
Hãy giao dịch hàng tuần nếu là nhà đầu tư nghiệp dư, và giao dịch hàng ngày
nếu là nhà đầu tư chuyên nghiệp và giao dịch hàng giờ nếu là đầu tư sành sỏi.
*Tiên liệu và sẵn sang nắm bắt các cơ hội tạo lập vị thế tốt: Tìm hiểu xem
18
khi nào nên “xả hàng” và khi nào nên mua vào. Hãy tập trung vốn và thời gian
của bạn vào những cơ hội bất ngờ. Thường xuyên làm mới các ý tưởng và lập kế
hoạch, chiến lược đầu tư rõ ràng
*Điều chỉnh vị thế giao dịch cho phù hợp với tình hình thực tế của thị
trường: Nhìn chung thì tình cảm, và biến động tâm lý ảnh hưởng lớn đến sự
thành công hay thất bại của bạn. Gia tăng vị thế giao dịch khi bạn cảm thấy rủi
ro có khả năng giảm và giảm vị thế giao dịch khi thị trường đi xuống và chờ
“đám mây” đi qua.
*Giao dịch tại các điểm đảo chiều của thị trường: thường nếu dự đoán đuợc
cái điểm đảo chiều này, nhà đầu tư sẽ đầu tư rất mạnh và cố phiếu rồi kiếm lời
từ đó.
*Tập ứng xử ngược với xu hướng hành vi của đám đông: Lợi nhuận của
chúng ta ít khi tuân theo sự chỉ đạo của đám đông, vì vậy hãy tập cách và chống
lại bất cứ khi nào có thể.
1.2.5 Giới hạn lỗ và mức chốt lời
*Giới hạn lỗ hay cắt lỗ: Kinh doanh chứng khoán giống như bạn đang lập

một doanh nghiệp riêng, cần phải có kế hoạch kinh doanh tốt, trong đó đưa ra
những cam kết và nguyên tắc riêng. Và nguyên tắc quan trọng nhất khi kinh
doanh chứng khoán là phải biết cắt lỗ. Chẳng hạn, bạn mua một cổ phiếu giá 4
USD và ra lệnh dừng lỗ ở mức 3,5 USD, tức khi giá thị trường rớt xuống mức
này thì phải lập tức bán ra. Thường thì các nhà đầu tư định ra chiến lược “rút
khỏi thị trường” khi thị giá rớt xuống dưới giá mua vào khoảng 15%. Trên thực
tế, có nhiều người thấy giá cổ phiếu giảm mạnh so với giá mình mua vào nhưng
nhất định không bán ra, cứ hy vọng rồi nó sẽ lên lại. Nhưng phân tích kỹ, họ
không bán ra vì nếu bán ra với giá lỗ thì có nghĩa thừa nhận mình đã sai khi mua
vào, con người mà, chẳng ai muốn chấp nhận mình sai. Thành ra, nhà đầu tư cá
nhân phải học cách chấp nhận tổn thất và kiểm soát tổn thất.
*Chốt lời: công việc này có thể dễ hơn việc cắt lỗ, chỉ đơn giản là khi giá
cổ phiếu trong danh mục hiện tại của bạn cao hơn giá lúc mua vào, nếu bạn bán
cố phiếu vào thời điển này thì bạn sẽ thu được 1 mức lợi nhuận nhất định. Điều
19
quan trọng là chốt lời một cách hợp lý.
1.2.6 Tâm lý và kỷ luật giao dịch
*Kỷ luật : Những quy tắc cho phép bạn lập kế hoạch hiệu quả hơn cho
công việc cuả bạn (những giao dịch) và giao dịch theo kế hoạch của mình. Quy
tắc – “thói quen của sự tuân thủ” – vâng ở đây từ khó chính là thói quen, tức là
có một kế hoạch giao dịch và tạo một thói quen làm theo nó. Quy tắc vàng nên
là: Chưa có dấu hiệu – Chưa được giao dịch.
*Tâm lý giao dịch: Kết quả đầu tư, thành công hay thất bại, phụ thuộc rất
nhiều vào tâm lý trong giao dịch. Điều đầu tiên trong những nét đặc trưng cơ
bản của những nhà giao dịch thành công là tin tưởng vào chính bản thân mình.
Họ có sự tự tin và lòng can đảm để gắn bó với kế hoạch của mình, không đi lệch
hướng khỏi những quy luật cuả bản thân, và sẵn sàng đi ngược lại với đa số nếu
cần thiết, và nhìn thấy được kết quả cuối cùng (một hình ảnh rõ ràng) trong đầu
họ.
20

CHƯƠNG 2
ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT HÀNH VI VÀO QUẢN TRỊ TÀI KHOẢN
VÀ TÂM LÝ GIAO DỊCH Ở NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Để có cái nhìn sâu sát hơn về nhà đầu tư cá nhân Việt Nam, nhóm sinh
viên chúng tôi đã làm một cuộc điều tra tại các sàn giao dịch chứng khoán tại Hà
Nội. Chúng tôi thu thập thông tin từ nhà đầu tư bằng bang phỏng vấn có nội
dung như sau.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Kính gửi các nhà đầu tư cá nhân !
Lý thuyết tài chính hành vi là sự phát triển tâm lý học vào tài chính và hiện
nay lý thuyết này có giá trị ứng dụng quan trọng đối với các nhà đầu tư , các nhà
quản lý thị trường chứng khoán , nhất là đối với thị trường chứng khoán đang
phát triển như Việt Nam. Với mục đích đưa ra các chính sách phát triển TTCK
và khuyến nghị đối với nhà đầu tư , trường đại học KTQD tổ chức nghiên cứu
về “ Hành vi của nhà đầu tư cá nhân trên TTCK Việt Nam”.
Xin ông/ bà hãy vui lòng dành thời gian trả lời những thụng tin dưới đây .
Tất cả thụng tin của quý vị sẽ được bảo mật và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên
cứu.
Xin trân trọng cảm ơn !
Phần I: Thông tin chung về nhà đầu tư
Họ tên người được phỏng vấn:
Năm sinh:
Giới tính:
Email(Điện thoại) liên lạc:
CTCK (nơi mở tài khoản):
21
Thời gian phỏng vấn:
Địa điểm phỏng vấn:
1. Ông bà hãy cho biết trình độ học vấn của bản thân ( Bằng cấp cao

nhất đã được đào tạo)?
a. Phổ thông b. Cao đẳng c. Đại học d. Sau đại học
2. Ông bà có tham gia các khóa đào tạo về chứng khoán không
a. Có b. Không
Nếu có , đó là chương trình đào tạo nào?
a. Cơ bản về chứng khoán
b. Phân tích và đầu tư chứng khoán
c. Chuyên sâu về phân tích kỹ thuật
d. Chuyên sâu về phân tích cơ bản
e. Chương trình CFA
d. Các chương trình đào tạo khác
3. Hiện tại trên tài khoản giao dịch ông bà đầu tư bao nhiêu tiền vào
thị trường chứng khoán Việt Nam.
a. Dưới 50 triệu b. Từ 50 đến 200 triệu
c. Từ 200 triệu đến 500 triệu d. Từ 500 triệu trở lên
4. Ông/ bà quan tâm gì nhất khi mua cổ phiếu của 1 công ty .
a. Lợi tức hàng năm công ty mang lại
b. Phần lãi mang lại do chênh lệch giá sau khi giao dịch
c. Cả lợi tức và chênh lệch giá
d. Ý kiến khác
PHẦN II . Hành vi không hợp lý của nhà đầu tư cá nhân
5. Ông bà định nghĩa về đầu tư chứng khoán là.
a. Đầu tư dài hạn
b. Đầu tư trong ngắn hạn ,yếu tố may rủi rất quan trọng
c. Là cuộc chơi , yếu tố may rủi rất quan trọng
22
d. Ý kiến khác
6. Ông/ bà cú quyết định gì khi nghe tin cổ phiếu mình đang nắm giữ
sắp xuống giá.
a. Không quan tâm vì chỉ là thông tin chưa chính thức

b. Tìm hiểu về nguồn gốc , độ tin cậy của thông tin rồi mới quyết định
c. Bán ngay toàn bộ số cổ phiếu , hoặc bán 1 phần
d. Nhờ những người đáng tin cậy tư vấn thêm
7. Ông bà cảm thấy việc ra quyết định mua bán chứng khoán là
a. Dễ b. Khó c. Không có ý kiến
PHẦN III. Đo lường mức ngại rủi ro của nhà đầu tư cá nhân
8. Hãy tưởng tượng Ông/bà đang gặp phải 2 tình huống song hành cần
ra quyết định . Hãy cân nhắc các quyết định và khoanh tròn vào các quyết
định lựa chọn:
Quyết định 8.1 :lựa chọn giữa
Tình huống 1 : chắc chắn (100%) có 240.000 VND
Tình huống 2 : xác xuất 25% có 1 khoản tiền 1000.000VND
Quyết định 8.2:lựa chọn giữa
Tình huống 3 : chắc chắn (100%) mất 750.000 VND
Tình huống 4: 75% mất 1.000.000 VND
9. Hãy tưởng tượng Ông/bà hiện đang gặp phải 2 tình huống song
hành cần ra quyết định . Hãy cân nhắc các quyết định và khoanh tròn vào
các quyết định lựa chọn
Quyết định 9.1 :
Giả định ông bà đã mua 1 chứng khoán 1 tháng trước đây với giá 50.000
đồng. Hôm nay giá chứng khoán đó là 40.000 đồng . Ông (bà) đang cân nhắc
xem có nên bán chứng khoán đó và chịu lỗ 10.000 đồng hay tiếp tục nắm giữ
trong 1 tháng với giả định vào cuối tháng tới có tình huống sau:
- 50% xác xuất xảy ra giá chứng khoán giảm xuống còn 30.000 đồng
-50% xác xuất xảy ra với giá chứng khoán tăng lên đạt mức 50.000 đồng
23
* Giả sử không có các chi phí về thuế hay chi phí giao dịch . Với các thông
tin trên , ông (bà) sẽ lựa chọn phương án đầu tư nào trong 2 phương án sau :
Tình huống 5 : Bán chứng khoán ngay và chịu lỗ 10.000 đồng
Tình huống 6 : Nắm giữ chứng khoán trong 1 tháng tới

Quyết định 9.2
Giả sử Ông(bà) đã mua 1 chứng khoán 1 tháng trước đây với giá 50.000
đồng. Hôm nay, giá chứng khoán đó là 60.000 đồng. Ông(bà) đang cân nhắc
xem có nên bán chứng khoán đó hay tiếp tục nắm giữ trong 1 tháng với giả định
vào cuối tháng tới, có tình huống sau :
- 50% xác suất xảy ra với chứng khoán giảm xuống còn 50.000 đồng
- 50% xác suất xảy ra với chứng khoán tăng lên đạt mức 70.000 đồng
*Giả sử không có các chi phí về giao dịch hay thuế. Với các thông tin
trên, Ông(bà) sẽ lựa chọn phương án đầu tư nào trong 2 phương án sau
Tình huống 7: Bán chứng khoán và thu lời 10.000 đồng
Tình huống 8: Nắm giữ chứng khoán 1 tháng nữa.
10. Lựa chọn tình huống phù hợp
a) Lựa chọn giữa:
• 0.1% sẽ thu được 5000USD
• Chắc chắn 100% thu được 5USD
b) Lựa chọn giữa
• 0.1% sẽ mất 5000USD
• Chắc chắn mất 5USD
11. Lựa chọn tình huống phù hợp
Tình huống 1: bạn đã nhận được 1000USD. sau đó hãy lựa chọn giữa các
phương án
A: nhận được 1000USD xác suất 50%
0USD xác suất 50%
B:nhận được chắc chắn 100% 500USD
24
Tình huống 2:bạn đã nhận được 2000USD. Sau đó hãy lựa chọn giữa các
phương án
C: mất 1000USD xác suất 50%
0USD xác suất 50%
D: chắc chắn mất 500USD

12. Lựa chọn những tình huống phù hợp
c) Lựa chọn giữa:
A: nhận được 6000USD xác suất 25%
0USD xác suất 75%
B:nhận được 4000USD xác suất 25%
2000USD xác suất 25%
0USD xác suất 50%
d) Lựa chọn giữa:
C: mất 6000USD xác suất 25%
0USD xác suất 75%

D: mất 4000USD xác suất 25%
2000USD xác suất 25%
0USD xác suất 50%
Phần IV: Xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định mua bán cổ phiếu
của nhà đầu tư cá nhân.
13. Hành vi của nhà đầu tư về TTCKVN phụ thuộc vào một số nhân tố vĩ
mô. Dưới đây là danh mục các nhân tố. Xin Ông(bà) hãy cho biết quan
điểm cá nhân về mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến thái độ và
hành vi của nhà đầu tư trên TTCKVN bằng cách khoanh tròn vào các số
tương ứng với mức độ tác động từ 1 (không quan trọng) đến 7 ( rất quan
trọng)
Mã Thái độ hành vi nhà đầu tư trên
TTCK bị tác động bởi
Xếp hạng mức độ tác động
B1 Lãi suất 1 2 3 4 5 6 7
B2 Các chính sách liên quan đến kinh 1 2 3 4 5 6 7
25

×