Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
trường đại học kinh tế quốc dân
KHOA KINH Tế HọC
o0o
chuyên đề THựC TậP
Đề tài:
XUấT KHẩU TRÊN ĐịA BàN HảI PHòNG
THựC TRạNG Và GIảI PHáP
Sinh viên thực hiện : LƯU THị HảI YếN
Lớp : KINH Tế HọC 48
MSSV : cq483457
Giáo viên hướng dẫn : TS.TRầN KHáNH HƯNG
Hà Nội, 2010
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Hà Nội, 2010 1
LỜI MỞ ĐẦU 6
CHƯƠNG I 7
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU 7
1.1. Khái niệm 7
1.1.1. Khái niệm xuất khẩu hàng hoá 7
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu hàng hoá chủ yếu 7
1.1.3. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 10
1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu 11
1.2.1. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp tham gia xuất khẩu 11
1.2.2.Các chính sách của Nhà nước 12
1.2.3. Nhu cầu thị trường thế giới 13
1.2.4. Nhân tố kinh tế - xã hội 13
CHƯƠNG II 14
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU TRÊN ĐỊA BÀN HẢI PHÒNG 14
2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của Hải Phòng có ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu 14
2.2. Thực trạng xuất khẩu của Hải Phòng 15
2.2.1. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Nhà nước và Hải Phòng 15
2.2.2. Thực trạng xuất khẩu của Hải Phòng 17
2.3. Tác động của xuất khẩu tới phát triển kinh tế - xã hội của Hải Phòng 30
2.3.1. Góp phần vào tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngoại tệ 30
2.3.2. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế 31
(Nguồn: Cục thống kê TP. Hải Phòng) 31
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 3 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
2.3.3. Tạo sức ép nâng cao năng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất phục
vụ xuất khẩu 32
2.3.4. Tạo thêm công ăn việc làm cho nền kinh tế 32
CHƯƠNG III: 33
NHỮNG GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU 33
TRÊN ĐỊA BÀN HẢI PHÒNG TRONG THỜI GIAN TỚI 33
3.1. Định hướng xuất khẩu của Hải Phòng trong thời gian tới 33
Để đạt được yêu cầu đó, thành phố Hải Phòng đang đẩy mạnh việc quy hoạch và phát triển
các ngành kinh tế xuất khẩu; tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật, khai thác hợp lý tỷ trọng
các nhóm ngành, hàng xuất khẩu chủ lực, nhất là nhóm, ngành dịch vụ, đồng thời đẩy mạnh xúc
tiến thương mại, phát triển mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tại các nước trong khu vực và trên thế
giới 33
3.2. Giải pháp 33
3.2.1. Nhóm giải pháp từ phía Nhà nước và chính quyền địa phương 33
3.2.2. Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp 37
KẾT LUẬN 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 4 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ đầy đủ
CNH, HĐH : Cĩng nghiệp hoá, hiện đại hoá
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
UBND : Uỷ ban nhõn dân
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
EU : Liân minh Chõu Âu
AFTA : Khu vực mậu dịch tự do Asean
APEC : Tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế Chõu Á – Thái Bỡnh Dương
SARS : Dịch cúm gia cầm
XK : Xuất khẩu
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
XNK : Xuất, nhập khẩu
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 5 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001 – 2005 của Hải Phòng 14
Bảng 2.2: So sánh xuất khẩu của Hải Phòng với cả nước (2001-2009) 16
Bảng 2.3: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của thành phố (2001-2005) 17
Hình 2.1: Kim ngạch xuất khẩu của Hải Phòng (2000-2009) 12
Hình 2.2: Cơ cấu xuất khẩu phân theo khu vực kinh tế của Hải Phòng giai đoạn
2000 – 2005 20
Hình 2.3: Cơ cấu xuất khẩu phân theo thị trường của hải Phòng năm 2005 22
Hình 2.4: Tốc độ tăng trưởng GDP và tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Hải
Phìng (2001-2009) 25
Hình 2.5: Cơ cấu ngành kinh tế của Hải Phòng giai đoạn 2001-2009 26
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 6 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
LỜI MỞ ĐẦU
Hải Phòng là một trong 5 thành phố trực thuộc trung ương và là một đô thị
loại 1 trung tâm cấp quốc gia, là thành phố lớn thứ 3 của Việt Nam, có vị trí quan
trọng về kinh tế xã hội và an ninh, quốc phòng của vùng Bắc Bộ và cả nước. Là một
động lực phát triển kinh tế của khu vực Bắc Bộ. Là một trung tâm phát triển kinh tế
của cả nước. Hải Phòng đang từng ngày thay da đổi thịt, phát triển bền vững. Từ khi
tiến hành đổi mới đến nay, Hải Phòng luôn luôn xứng đáng với mong đợi của cả
nước. Trong những năm qua, thành phố đã đạt được những thành tựu đáng tự hào:
tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục cao và ổn định trong nhiều năm ( tốc độ tăng
trưởng trung bình đạt 11%/năm), cơ cấu kinh tế đang từng bước chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đời sống của người dân ngày càng được nâng
cao cả về mặt vật chất và tinh thần, xã hội đang từng ngày thay đổi.
Đạt được những thành tựu đó có một phần đóng góp không nhỏ của xuất
khẩu. Đặc biệt là từ sau khi đổi mới cho tới nay, trong quá trình phát triển xuất khẩu
đã trở thành một chiến lược phát triển kinh tế vô cùng quan trọng của nước ta nói
chung và của Hải Phòng nói riêng. Giá trị xuất khẩu của Hải Phòng năm 2009 đạt
1,687 tỷ USD chiếm tỷ trọng 2,96% tổng kim ngạch cả nước, tốc độ tăng trưởng
kim ngạch cao, trung bình là 21%/năm. Với những gì đã đạt được, xuất khẩu đã góp
phần tăng tổng thu nhập quốc nội, thu về cho ngân sách một lượng lớn ngoại tệ, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo
thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống nhân
dân. Mặc dù cú đóng góp lớn cho tăng trưởng nhưng hoạt động xuất khẩu của
thành phố vẫn còn nhiều hạn chế: kim ngạch xuất khẩu vẫn còn đạt thấp (đứng thứ
5 trong cả nước tính bình quân giá trị xuất khẩu theo đầu người) và mất cân đối
giữa các ngành kinh tế. Thực tế này đang đặt ra cho thành phố một yêu cầu bức
thiết là làm thế nào để có thể đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa. Do vậy em đã chọn đề
tài: “Xuất khẩu trên địa bàn Hải Phòng: thực trạng và giải pháp”.
Với trình độ hiểu biết cũng như thời gian nghiên cứu còn hạn chế cho nên
bài viết không tránh khỏi những thiếu sót và sai lầm. Em rất mong nhận được sự
góp ý của thầy cô giáo để học hỏi thêm và bổ sung cho bài viết được hoàn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 7 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU
1.1. Khái niệm.
1.1.1. Khái niệm xuất khẩu hàng hoá.
Xuất khẩu là một trong các hoạt động của thương mại quốc tế và được ra đời
sớm nhất trong các quan hệ kinh tế quốc tế và ngày nay nó vẫn giữ vị trí trung tâm
trong các quan hệ kinh tế thế giới.
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán hàng hoá trên phạm
vi quốc tế trong đó hàng hoá được di chuyển từ bên trong một quốc gia ra thị trường
thế giới, nó được thực hiện bởi các cá nhân, tổ chức nhằm đem lại lợi ích kinh tế
trên cơ sở phát huy các lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của mỗi quốc gia.
Theo Luật Thương mại Việt Nam năm 2005: “Xuất khẩu hàng hóa là hoạt
động hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt
nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của
pháp luật”. Hàng hoá xuất khẩu có thể là hàng hoá hữu hình tức là các nguyên vật
liệu, máy móc thiết bị, lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng… và các hàng hoá vô
hình như bí quyết sản xuất, bằng sáng chế, phát minh, phần mềm, các loại hình dịch
vụ, bảo hiểm… Các khu vực đặc biệt được coi như trong khu vực hải quan riêng
theo quy định của Pháp luật đó là các khu công nghệ cao, khu chế xuất, khu kinh tế
mở như: khu chế xuất Dung Quất, khu kinh tế mở Chu Lai…
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu hàng hoá chủ yếu.
Xuất khẩu đã xuất hiện từ rất lâu đời qua thời gian phát triển, đến nay đã có
nhiều hình thức xuất khẩu hàng hoá để phù hợp với từng thị trường, từng mặt hàng
khác nhau cũng như trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Tóm lại, hiện
nay hoạt động xuất khẩu hàng hoá được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:
1.1.2.1.Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức giao dịch ngoại thương mà trong đó người
bán và người mua tìm đến nhau và trực tiếp thoả thuận quy định những điều kiện
mua bán mà không qua bất kỳ một bên trung gian nào khác.
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 8 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là giúp các bên tiết kiệm được chi phí
giao dịch, chủ động trong kế hoạch mua bán, giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu có
thêm hiểu biết về thị trường… Tuy nhiên, hạn chế của hình thức này là ở chỗ bên
xuất khẩu khi không có sự am hiểu về thị trường và đối tác có thể sẽ gây ra các rủi
ro trong quá trình giao dịch, hơn nữa các bên sẽ phải tự tổ chức hoạt động mua bán
từ khâu tìm hiểu, đàm phán, ký kết hợp đồng, xuất và giao nhận hàng… Chính vì
vậy mà hình thức xuất khẩu trực tiếp chỉ thường được áp dụng với các doanh
nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh, có sự am hiểu về thị trường và pháp luật quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu trực tiếp thường được tổ chức dưới dạng xây dựng các cửa
hàng bán và giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài của các doanh nghiệp.
1.1.2.2.Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hoá của một quốc gia ra thị trường
nước ngoài thông qua trung gian. Các điều kiện mua bán và giao dịch sẽ được tiến
hành thông qua một bên thứ ba.
Ưu điểm của hình thức này là tận dụng được các mối quan hệ, sự am hiểu về
thị trường của các nhà môi giới, từ đó giúp doanh nghiệp tìm kiếm được thị trường
xuất khẩu, giảm thiểu được rủi ro do thiếu thông tin về thị trường và đối tác. Tuy
nhiên, xuất khẩu gián tiếp cũng có một số hạn chế như: rủi ro có thể được chia sẻ
đồng thời lợi nhuận cũng bị chia sẻ; mặt khác các doanh ngiệp xuất khẩu sẽ không
có sự liên hệ trực tiếp với thị trường và cũng thường phải đáp ứng các yêu cầu, đòi
hỏi của các nhà môi giới, hay đại lý trung gian.
1.1.2.3.Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là hình thức xuất nhập khẩu mà trong đó hoạt động xuất
khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng
hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. Mục đích của xuất khẩu
không phải nhằm thu ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng có giá trị tương
đương. Trong buôn bán đối lưu, yếu tố cân bằng luôn được chú trọng nhất.
Buôn bán đối lưu được ra đời từ rất lâu trong đó sớm nhất là nghiệp vụ hàng
đổi hàng và sau đó có thêm nhiều nghiệp vụ buôn bán đối lưu khác được ra đời như:
nghiệp vụ bù trừ, mua đối lưu, nghiệp vụ chuyển nợ, giao dịch bồi hoàn…
1.1.2.4.Hình thức tái xuất khẩu
Tái xuất khẩu là hình thức thực hiện xuất khẩu trở lại sang nước khác những
hàng hoá đã mua ở nước ngoài nhưng chưa qua chế biến ở nước tái xuất khẩu.
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 9 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
Tái xuất khẩu được thực hiện theo hai hình thức là “tạm nhập, tái xuất” và
“chuyển khẩu”:
Tạm nhập, tái xuất là việc mua hàng hoá của một nước để bán cho một
nước khác trên cơ sở hợp đồng ngoại thương, có làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá
vào nước tái xuất rồi làm thủ tục xuất khẩu hàng hoá đi mà không qua chế biến.
Chuyển khẩu là loại hình trong đó hàng hoá mua từ nước xuất khẩu để
bán cho một nước khác (nước nhập khẩu) chuyển trực tiếp sang nước nhập khẩu,
mà không làm thủ tục nhập khẩu vào nước tái xuất và cũng không làm thủ tục xuất
khẩu khẩu từ nước đó. Ở đây chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu
kho, lưu bãi, bảo quản…Bởi vậy, mức độ rủi ro thấp và lợi nhuận cũng không cao.
1.1.2.5.Hình thức xuất khẩu tại chỗ
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức bán hàng hoá cho các cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp nước ngoài trên lãnh thổ nước xuất khẩu, tức là hàng hoá chưa vượt ra bên
ngoài biên giới nước xuất khẩu. Ví dụ, việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho các
phái đoàn ngoại giao nước ngoài, khách du lịch quốc tế…
Việc xuất khẩu tại chỗ có ưu điểm là có thể đem lại hiệu quả cao do giảm bớt
được chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn
nhanh trong khi vẫn có thể thu được ngoại tệ. Hơn nữa, do bán hàng trên lãnh thổ
nước xuất khẩu nên rẽ giảm bớt được rủi ro về môi trường pháp luật, chính trị, vận
chuyển… Tuy nhiên, thị trường cho xuất khẩu tại chỗ khá nhỏ hẹp chỉ trong phạm
vi một quốc gia và nó tuỳ thuộc vào lượng khách du lịch quốc tế.
1.1.2.6.Hình thức gia cụng
Gia công hàng xuất khẩu là phương thức sản xuất hàng xuất khẩu mà trong
đó người đặt hàng gia công ở nước ngoài sẽ cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên
phụ liệu hoặc bán thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước, còn bên nhận gia
công trong nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt.
Toàn bộ sản phẩm làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia công ở
nước ngoài để nhận tiền công.
Hình thức gia công hàng xuất khẩu có ưu điểm là thị trường tiêu thụ có sẵn
nên doanh nghiệp không phải bỏ chi phí cho hoạt động bán sản phẩm xuất khẩu,
vốn đầu tư cho sản xuất nhỏ, học hỏi được kinh nghiệm sản xuất, mẫu mã bao bì
của phía nước ngoài, và tạo ra được nhiều việc làm cho người lao động. Nhưng
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 10 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
doanh nghiệp thực hiện gia công có thể gặp một số hạn chế như: tính bị động cao do
phải phụ thuộc vào phía đặt hàng gia công về giá cả, thị trường, nguyên liệu,…; lợi
nhuận thu được từ gia công nhỏ và ngày càng sụt giảm; ngoài ra doanh nghiệp gia
công cũng sẽ không có điều kiện xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình.
1.1.3. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thúc đẩy xuất khẩu luôn là mục tiêu hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế
giới bởi những lợi ích mà xuất khẩu đem lại cho nền kinh tế của các quốc gia đú.
1.1.3.1.Xuất khẩu hàng hoá làm tăng tổng thu nhập quốc nội và tạo ra nguồn thu
ngoại tệ.
Với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì hoạt động xuất khẩu đem
lại nguồn thu ngoại tệ quan trọng phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu nhằm tích luỹ vốn
mở rộng sản xuất, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, nâng cao đời sống
người dân. Trong công thức tính tổng sản phẩm quốc nội GDP=C+I+G+EX-IM; thì
C là tổng tiêu dùng xã hội, I là tổng đầu tư, G là tổng tiêu dùng của Chính phủ, EX
là giá trị xuất khẩu, IM là giá trị nhập khẩu. Theo công thức trên ta thấy, xuất khẩu
và tổng sản phẩm quốc nội có quan hệ thuận, khi giá trị xuất khẩu tăng lên sẽ kéo
theo GDP tăng và ngược lại. Vỡ vậy, xuất khẩu luôn được coi là mục tiêu chiến
lược của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển.
1.1.3.2.Xuất khẩu đóng góp tích cực vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao
năng lực sản xuất.
Các mặt hàng xuất khẩu ngày càng được mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu của
thị trường thế giới. Do vậy, nó thúc đẩy sản xuất các sản phẩm mới và có tác động
tích cực tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển những ngành
sản xuất có khả năng xuất khẩu. Hơn nữa, việc xác định lợi thế so sánh của quốc gia
cũng góp phần quan trọng cho việc lựa chọn chiến lược xuất khẩu chi từng thời kỳ,
qua đó sẽ góp phần quyết định tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia trong
thời kỳ đó.
Ngoài ra, yêu cầu đối với hàng hoá của người tiêu dùng ngày càng tăng lên,
đặc biệt là các nước ở thị trường EU, Mỹ… buộc các doanh nghiệp muốn tăng xuất
khẩu thì phải không ngừng nâng cao năng lực sản xuất cả về số lượng, chất lượng
và giá cả, tổ chức lại cơ cấu sản xuất theo hướng luôn thích ứng được với sự thay
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 11 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
đổi của thị trường. Chính vì thế, xuất khẩu sẽ tạo ra tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm
cải tạo năng lực sản xuất nội địa.
1.1.3.3.Xuất khẩu đóng góp tích cực vào quá trình tạo việc làm cho người lao động,
cải thiện đời sống nhân dân về nhiều mặt.
Đa số ngành sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay đều là các
ngành sử dụng nhiều lao động như xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản, dệt may, da giầy,
… Do đó, xuất khẩu sẽ có tác động tích cực trong việc giải quyết công ăn việc làm
cho người lao đông, đặc biệt tại các vùng nông thôn. Thực tế, các doanh nghiệp sản
xuất hàng xuất khẩu đã thu hút hàng triệu lao động làm việc với mức thu nhập khá,
và họ còn được đào tạo nâng cao trình độ, tạo điều kiện cho lao động Việt Nam
tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Mặt khác, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp
ứng ngày càng phong phú nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Khi thu nhập của người
dân tăng lên, nhu cầu về tiêu dùng cũng sẽ tăng, không chỉ là những loại hàng hóa
trong nước sản xuất được, mà còn là các sản phẩm ngoại nhập với chất lượng cao
và thương hiệu nổi tiếng. Như vậy từng bước đời sống của nhân dân được cải thiện.
1.1.3.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ
kinh tế đối ngoại.
Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của hoạt
động kinh tế đối ngoại. Nó có thể thúc đẩy các mối quan hệ khác phát triển theo
như: du lịch, vận tải, bảo hiểm…từ đó hình thành mối quan hệ giữa các quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu đã gắn kết sản xuất của các quốc gia, các khu vực với nhau
đẩy mạnh nhất thể hoá nền kinh tế khu vực và thế giới, tạo ra các tổ chức như:
WTO, ASEAN, EU, AFTA,…
1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu.
1.2.1. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
Bên trong mỗi doanh nghiệp đều có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp mình. Trong đó có các yếu tố cơ bản là:
- Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của doanh nghiệp: yếu tố này
phản ánh năng lực sản xuất của doanh nghiệp, bao gồm các nguồn vật chất dùng
cho sản xuất, các nguồn tài nguyên, nhiên liệu, các nguồn tài chính phục vụ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và năng lực của nó phục vụ cho
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 12 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
tương lai. Đây là yếu tố cơ bản để doanh nghiệp có thể giữ vững phát triển sản xuất
đồng thời là nền tảng cho mở rộng sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất của doanh
nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Trình độ quản lý của doanh nghiệp: Ban lãnh đạo là bộ phận đầu não,
là nơi đưa ra các chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp, nên trình độ quản lý của
ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Một chiến lược đúng đắn phù hợp với tình hình thực tế và sự điều hành giỏi của các
cán bộ trong doanh nghiệp sẽ là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả hoạt
động kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, đội ngũ công nhân, cán bộ kỹ thuật trong
doanh nghiệp nói chung và trong bộ phận xuất khẩu nói riêng cũng có vai trò hết
sức quan trọng. Đây chính là nguồn năng lực chủ yếu của doanh nghiệp cũng là đòn
bẩy và là nhân tố quyết định sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp.
1.2.2.Các chính sách của Nhà nước.
Có thể nói các chính sách của Nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
xuất khẩu. Chúng ta có thể xem xét tác động của các chính sách dưới các khía cạnh
sau:
1.2.2.1. Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là giá của một đơn vị tiền tệ của một quốc gia được tính bằng
tiền của một nước khác. Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố
quan trọng thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Khi giá đồng
nội tệ tăng (lên giá) so với ngoại tệ thì hàng hoá trong nước sẽ trở lên đắt tương đối
so với hàng hoá nước ngoài và do đó sẽ gây khó khăn cho xuất khẩu. Ngược lại, khi
đồng nội tệ giảm giá so với ngoại tệ thì hàng hoá trong nước sẽ trở lên rẻ tương đối
so với hàng hoá nước ngoài và do đó lại có lợi cho xuất khẩu.
1.2.2.2. Thuế quan và các biện pháp phi thuế quan.
Khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất trong nước tại thị trường xuất
khẩu cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của thuế xuất khẩu và quota. Thuế xuất khẩu có
xu thế làm giảm xuất khẩu và do đó làm giảm nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Đa
số các nước đều ít sử dụng loại thuế này. Chỉ trừ trường hợp một số nước áp dụng
loại thuế này để hạn chế xuất khẩu các loại hàng thụ như khoáng sản chưa qua chế
biến… Còn quota là hình thức hạn chế về số lượng xuất khẩu có tác động một mặt
làm giảm số đầu mối tham gia xuất khẩu trực tiếp, mặt khác tạo cơ hội thuận lợi cho
những người xin được quota xuất khẩu.
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 13 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
1.2.2.3. Các chính sách khác của Nhà nước.
Các chính sách khác của Nhà nước như: xây dựng các mặt hàng chủ lực,
trực tiếp gia công xuất khẩu, đầu tư cho sản xuất, lập các khu chế xuất, các chính
sách tín dụng xuất khẩu, chính sách trợ cấp xuất khẩu… cũng góp phần to lớn tác
động tới tình hình xuất khẩu của một quốc gia. Tuỳ theo mức độ can thiệp, tính chất
và phương pháp sử dụng các chính sách trên mà hiệu quả và mức độ ảnh hưởng của
nó tới xuất khẩu sẽ như thế nào.
Bên cạnh các chính sách trên, nhóm các chính sách hỗ trợ mang tính thể chế
- tổ chức, các khung pháp lý và hệ thống hành chính cũng là một trong những nhân
tố tác động trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp.
1.2.3. Nhu cầu thị trường thế giới.
Thu nhập, mức sống của nhân dân sẽ quyết định đến nhu cầu tiêu dùng của
thị trường thế giới về hàng hoá như: chất lượng, số lượng hàng hoá. Từ đó nó sẽ
quyết định đến quy mô thị trường hàng hoá và yêu cầu về chất lượng hàng hoá của
hoạt động xuất khẩu trong hiện tại và tương lai.
1.2.4. Nhân tố kinh tế - xã hội.
Sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, sản xuất trong nước sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho việc sản xuất hàng xuất khẩu, làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng
xuất khẩu về mẫu mã, chất lượng, chủng loại trên thị trường thế giới. Sự phát triển
của hoạt động thương mại trong nước cũng góp phần hạn chế hay kích thích xuất
khẩu bởi nó quyết định sự chu chuyển hàng hoá trong nội địa và thế giới. Hệ thống
cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, vận tải…cũng ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu bởi
nó gắn chật với hoạt động xuất khẩu từ khâu nghiên cứu thị trường đến thực hiện
hợp đồng, vận chuyển hàng hóa và thanh toán. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hoá.
Sự biến động của nền kinh tế thế giới sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường
hàng hoá trong nước và thế giới, ảnh hưởng đến thu nhập của người tiêu dùng nước
ngoài do vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Ngoài ra sự hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, sự tham gia vào
các tổ chức thương mại như WTO, APEC, AFTA…sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động xuất khẩu.
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 14 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU TRÊN ĐỊA BÀN HẢI PHÒNG
2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của Hải Phòng có ảnh hưởng đến hoạt
động xuất khẩu.
Hải Phòng là một thành phố cảng và công nghiệp ở miền Bắc Việt Nam và là
một thành phố biển nằm trong Vùng duyên hải Bắc Bộ. Có vị trí chiến lược quan
trọng về kinh tế - xã hội. Có các tuyến đường giao thông quan trọng như đường
quốc lộ 5 dài trên 100 km là đường cấp II nối cảng Hải Phòng đi Hà Nội và các tỉnh
khác, quốc lộ 10 là tuyến đường cấp 3 đồng bằng có chiều dài trên 200 km nối liền
các tỉnh: Quảng Ninh - Hải Phòng - Thái Bình - Nam Ðịnh - Ninh Bình; đường sắt
Hải Phòng - Hà Nội; đường thuỷ: Hải Phòng có 1.125 km bờ biển và 5 cửa sông lớn
đổ ra biển, trong đó có hơn 30 km là cảng biển Hải Phòng. Ngoài ra Hải Phòng còn
có hệ thống sông ngòi tạo ra nhiều tuyến đường sông đi các tỉnh thuộc đồng bằng
Bắc Bộ; đường hàng không: Chủ yếu bay nội địa nối Hải Phòng với thành phố Hồ
Chí Minh, Hải Phòng - Ðà Nẵng. Là thành phố cảng, cửa chính ra biển quan trọng
của nước ta, là đầu mối giao thông quan trọng Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
trên hai hành lang - một vành đai hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc. Hải
Phòng là đầu mối giao thông đường biển phía Bắc. Với vị thế là một trong những
cảng biển lớn nhất Việt Nam, cảng Hải Phòng kéo dài hơn 12 km gồm những cảng
hàng rời, cảng công ten nơ, cảng hàng nặng, công suất xếp dỡ hiện hơn 10 triệu tấn/
năm thoả mãn nhu cầu xuất nhập khẩu của các tỉnh miền Bắc nước ta, Hải Phòng đã
trở thành một trong những động lực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc
bộ. Là Trung tâm kinh tế - khoa học - kĩ thuật tổng hợp của Vùng duyên hải Bắc Bộ
và là một trong những trung tâm phát triển của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và
cả nước (Quyết định 1448/QĐ-TTg ngày 16/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ).
Ngoài vị trí địa lý thuận lợi, Hải Phòng cũng có nguồn tài nguyên đất, rừng, biển,
khoáng sản, và tài nguyên du lịch khá phong phú. Những nguồn tài nguyên này
giúp thúc đẩy sản xuất phục vụ cho xuất khẩu.
Theo kết quả điều tra dân số lúc 00 giờ ngày 1/4/2009, Thành phố Hải Phòng
có 1,807 triệu người chủ yếu là dân tộc Kinh. Trong đó, số người trong độ tuổi lao
động năm 2009 là hơn 1,4 triệu người. Đây là nguồn lao động dồi dào phục vụ cho
phát triển kinh tế. Về trình độ dân trí: Tính đến nay Hải Phòng đã hoàn thành
chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Ở Hải Phòng có 4 trường đại học
lớn, và 16 trường cao đẳng; đào tạo một lượng lớn lao động của thành phố. Chất
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 15 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
lượng lao động của Hải Phòng đang được nâng lên một cách đáng kể. Nguồn lao
động của Hải Phòng đông về số lượng lại có trình độ đào tạo nên đã góp phần đáng
kể vào phát triển kinh tế.
Hải Phòng là một trong những trung tâm kinh tế quan trọng của Việt Nam.
Kể từ khi bắt đầu cuộc đổi mới đến nay, Hải Phòng đã đạt được những thành tựu to
lớn: tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục cao và ổn định trong nhiều năm, cơ cấu kinh
tế đang từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đời sống
của người dân ngày càng được nâng cao cả về mặt vật chất và tinh thần. Trong
những năm qua, tổng sản phẩm quốc nội của Hải Phòng tăng lên một cách nhanh
chóng, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 11%/năm. Năm 2009, GDP của Hải
Phòng đạt 21213 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng đạt 5,32%. Mặc dù gặp rất nhiều khó
khăn nhưng Hải Phòng vẫn có sự tăng trưởng cao hơn trung bình chung của cả
nước. Về cơ cấu kinh tế thì thành phố đã có sự chuyển dịch tiến bộ: tỷ trọng công
nghiệp - xây dựng tăng từ 36,7% (năm 2002) lên 44,6% (năm 2008); tỷ trọng
thương mại - dịch vụ thay đổi không đáng kể, vẫn giữ được ở mức cao 45,4% (năm
2008); tỷ trọng nông - lâm nghiệp giảm từ 15,8% (năm 2002) xuống 10% (năm
2008). Như vậy trong cơ cấu kinh tế của Hải Phòng, cơng nghiệp – xây dựng giữ
vai trò chủ đạo với các ngành mũi nhọn như công nghiệp sản xuất kim loại, đúng và
sửa chữa tàu biển, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất thiết bị điện và điện tử -
truyền thông, cơ khí chế tạo,… Một số khu công nghiệp – khu chế xuất đã đi vào
hoạt động như Nomura, Đình Vũ,…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng
định vị thế chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế Hải Phòng. Thêm vào đó, với
số lượng lớn các di tích lịch sử văn hoá, các danh lam thắng cảnh và lễ hội truyền
thống…đã giúp cho ngành du lịch - dịch vụ ngày càng phát triển.
Tất cả những thành tựu trên cho thấy Hải Phòng đang có những điều kiện vô
cùng thuận lợi cả về điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội để đẩy mạnh
xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn mới.
2.2. Thực trạng xuất khẩu của Hải Phòng.
2.2.1. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Nhà nước và Hải Phòng.
Trong thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước đã tạo mọi điều kiện cho mọi
doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp Hải Phòng nói riêng trong hoạt động
xuất khẩu. Đường lối của Đảng được thể chế hoá bằng các chính sách, cơ chế xuất
nhập khẩu theo hướng tự do hoá thương mại. Quốc hội đã xây dựng và ban hành
nhiều luật như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, luật Thương mại… Chính phủ đã có nhiều Nghị định nhằm chuyển căn
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 16 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
bản hoạt động xuất khẩu từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ
đã cho phép tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được phép xuất
nhập khẩu trực tiếp, nhận gia công và làm đại lý bán hàng cho nước ngoài hầu hết
các loại hàng (trừ một số loại hàng hoá cấm nhập khẩu, xuất khẩu và xuất khẩu có
điều kiện) và trước khi tiến hành kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ phải đăng ký mã số
doanh ng hiệp xuất nhập khẩu với cơ quan hải quan tỉnh, thành phố nơi doanh
nghiệp đóng trụ sở chính. Trong quá trình thực hiện, Nhà nước đã thường xuyên
hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và đổi mới cơ chế điều hành
xuất nhập khẩu nhằm khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu. Chính phủ đã thực hiện
chính sách hoàn thuế, trợ giá, bù lãi suất cho hoạt động xuất khẩu và thưởng xuất
khẩu, hỗ trợ tài chính, đơn giản hoá thủ tục hành chính…để thúc đẩy xuất khẩu.
Thực hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước, trong những năm qua thành
phố Hải Phòng luôn là một trong những địa phương đi đầu trong cụng tác thúc đẩy
xuất khẩu. Thành phố tập trung thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TU của Ban chấp
hành Đảng bộ thành phố về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết hội nghị
lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng về một số chủ trương, chính sách lớn để
nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của tổ chức
Thương mại thế giới. Phát triển, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hoạt động
kinh tế đối ngoại. Thúc đẩy quan hệ hợp tác với các đối tác chủ chốt có nhiều tiềm
năng đầu tư, thương mại, du lịch như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Mỹ….
Bên cạnh đó Ban Thường vụ Thành uỷ Hải Phòng còn đưa ra nghị quyết số 05-
NQ/TU ngày 19/9/2006 về phát triển thương mại Hải Phòng giai đoạn 2006 – 2010.
Cũn các chương trình xuất khẩu của UBND thành phố được xác định và cụ thể hoá
trong Chỉ thị 13/CT-UB. Trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2001- 2010, thành phố đặt ra mục tiêu là: giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,3 -
1,6 tỷ USD, tốc độ bình quân tăng hàng năm 18-20%. Để thực hiện được chỉ tiêu
này trong những năm qua thành phố luôn cố gắng trong việc ổn định thị trường xuất
khẩu truyền thống gắn với từng bước tìm kiếm, phát triển thị trường xuất khẩu mới
với gần 50 nước và khu vực trên thế giới. Thành phố đang hướng nhiều doanh
nghiệp sản xuất chuyển đổi cơ cấu sản phẩm sang các chủng loại hàng hoá cao cấp
phục vụ yêu cầu xuất khẩu, tăng cường xúc tiến thương mại để tạo chỗ đứng trên
các thị trường Nhật Bản, Bắc Mỹ và vùng Đông Âu. Mặt khác thành phố cũng chú
trọng việc khai thác một số lĩnh vực giàu tiềm năng, phục vụ xuất khẩu tại chỗ, như:
dịch vụ bốc xếp, đại lý, cung ứng tàu biển, du lịch, bưu chính viễn thông Các
nhóm hàng chủ lực này đã được thành phố và các ngành kinh tế trên địa bàn tập
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 17 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
trung đầu tư, đổi mới công nghệ và thiết bị theo hướng hiện đại hoá nhằm cải thiện,
tăng dần khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu. Thành phố đã thực hiện
nhiều cơ chế ưu đãi thu hút đầu tư trong và ngoài nước, cải cách thủ tục hành chính,
thông thoáng môi trường kinh doanh tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp về phát
triển sản xuất. Năm 2007, thành phố Hải Phòng đã tiến hành cải cách hành chính
toàn diện tại các sở, ban ngành. Các kiến nghị của doanh nghiệp đều được chuyển
lên lãnh đạo thành phố xem xét chỉ trong một ngày. Thực hiện tốt cải cách thủ tục
hành chính đã giúp cho các doanh nghiệp giảm nhẹ gánh nặng về thời gian cũng
như chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh trên
thị trường. Cục Hải quan Hải Phòng đã áp dụng hình thức hải quan điện tử trong
hoạt động xuất nhập khẩu. Nhờ những chính sách đúng đắn của thành phố về đẩy
mạnh xuất khẩu mà trong nhiều năm qua kim ngạch xuất khẩu của Hải Phòng luôn
luôn tăng, tốc độ tăng trưởng kim ngạch đạt mức cao. Trong năm 2009, giá trị xuất
khẩu của thành phố đạt 1,687 tỷ USD; mức tăng trưởng đạt 11,7%. Đây là một kết
quả rất đáng mừng vì gặp phải rất nhiều khó khăn và thách thức Hải Phòng vẫn
vượt qua và đưa xuất khẩu đi lên.
2.2.2. Thực trạng xuất khẩu của Hải Phòng
2.2.2.1. Quy mô xuất khẩu
Nhờ những chính sách đúng đắn của thành phố về thúc đẩy xuất khẩu mà
trong những năm qua hoạt động xuất khẩu tăng khá toàn diện cả về qui mô, tốc độ,
mặt hàng, cả về thị trường và số lượng tham gia của các loại hình doanh nghiệp.
Hình 2.1: Kim ngạch xuất khẩu của Hải Phòng (2000-2009)
(Nguồn: Cục thống kê TP.Hải Phòng)
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 18 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
Từ khi bước vào thiên nhiên kỷ mới, quan hệ kinh tế quốc tế của Hải Phòng
có rất nhiều khởi sắc. Theo bảng trên ta thấy, trong những năm qua mặc dự nền
kinh tế có nhiều biến động nhưng kim ngạch xuất khẩu của Hải Phòng vẫn tăng lên
qua từng năm, tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 20,7%/ năm. Chiến lược thúc đẩy
xuất khẩu giai đoạn 2001 – 2010 sắp kết thúc và những thành tựu mà thành phố đã
đạt được thật đáng chúc mừng.
- Giai đoạn 2001-2005: quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng
hoá đều đạt và vượt các chỉ tiêu đặt ra.
Trong hai năm đầu của giai đoạn 2001-2005, thị trường thế giới đã có nhiều
diễn biến không thuận. Kinh tế Hoa Kỳ và Nhật Bản có dấu hiệu tăng trưởng chậm
lại, bên cạnh đó việc Trung Quốc gia nhập WTO đã khiến cho hoạt động cạnh tranh
trên thị trường thế giới trở nên ngày càng khốc liệt hơn. Nhưng vì thành phố đã áp
dụng khá nhiều giải pháp khuyến khích xuất khẩu có hiệu quả nên kim ngạch xuất
khẩu của Hải Phòng đạt 516 triệu USD vào năm 2001 (tăng 33% so với năm 2000,
cao hơn rất nhiều so với chỉ tiêu trung bình mà kế hoạch đạt ra trong giai đoạn
2001-2005 là 19%/ năm) và năm 2002 thì tăng chậm hơn, kim ngạch chỉ đạt 482
triệu USD (tăng 16% so với năm 2001 thấp hơn so với chỉ tiêu trung bình).
Bước sang năm 2003, tình hình kinh tế thế giới cũng không sáng sủa hơn do
tác động của cuộc chiến tại Irắc và đại dịch SARS. Trước bối cảnh đó, nhờ có các
chính sách hỗ trợ xuất khẩu hợp lý như tập trung vào các ngành xuất khẩu tiềm
năng như đóng tàu… cộng với việc tích cực đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Hoa
Kỳ, kim ngạch xuất khẩu của Hải Phòng vẫn đạt 591 triệu USD (tăng 22,8% so với
năm 2002) với trên 120 doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu.
Trong 2 năm 2004-2005, nền kinh tế thế giới bắt đầu hồi phục, dự vẫn mang
trong mình nhiều yếu tố bất ổn. Nhờ tích cực xúc tiến thương mại, mở rộng thị
trường xuất khẩu đi đôi với sự tăng trưởng đáng kể nguồn cung hàng xuất khẩu
thông qua khắc phục thành công những khó khăn như sự tăng giá nguyên liệu đầu
vào, hiện tượng thiếu điện trong sản xuất do hạn hán, nạn dịch cúm gia cầm tái
phát… kim ngạch xuất khẩu đạt 711 triệu USD năm 2004 (tăng 20% so với năm
2003) và lên tới 839 triệu USD vào năm 2005 (giá trị kim ngạch xuất khẩu đứng thứ
2 sau Hà Nội) gấp đôi năm 2001.
Như vậy trong giai đoạn này, giá trị kim ngạch xuất khẩu đều tăng qua các
năm và lượng tăng mỗi năm khá đều: Nếu năm 2001 giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 19 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
416 triệu USD; thì năm 2002 giá trị kim ngạch đã tăng thêm 66 triệu USD; năm
2003 lượng tăng lên của giá trị kim ngạch là 110 triệu USD; lượng tăng lên của giá
trị kim ngạch xuất khẩu năm 2004, 2005 lần lượt là 119 triệu USD, 128 triệu USD.
Dưới đõy là bảng giá trị kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2005.
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2005 của Hải Phòng
Đơn vị: triệu USD, %
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Giai đoạn 2001 – 2006
Nội dung
Kim
ngạch
Kim
ngạch
Kim
ngạch
Kim
ngạc
h
Kim
ngạch
Kim
ngạch
Lượng
tăng bq
Tốc độ
tăng bq
Tổng số 415,9 481,7 591,6 710,7 839
3021,1 101,6 21,92
Tốc độ tăng 32,8 15,8 22,8 20,1 18,1
Tỷ trọng
XK/GDP
52,9 57,5 58,8 60,7 63,8
(Nguồn: Cục thống kê Hải Phòng)
Giai đoạn 2001 – 2005 là giai đoạn 5 năm đầu thực hiện Chiến lược phát
triển xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001-2010. Có thể nói đây là giai đoạn chứng
kiến nhiều biến động lớn về kinh tế, chính trị, xã hội trên quy mô toàn thế giới và
Hải Phòng để đạt được tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân đạt
21,4% (tức là cao hơn so với mục tiêu đặt ra trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2001-2005 là 2,4%) thì các cấp lãnh đạo thành phố, các sở, ban, ngành và
doanh nghiệp đã thể hiện được những nỗ lực và quyết tâm rất lớn. Tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá luôn cao gần gấp đôi tốc độ tăng GDP của thành phố.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu diễn ra không đều trong cả giai đoạn 2001-
2005. Giá trị xuất khẩu chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng thu nhập quốc dân
của Hải Phòng. Từ chỗ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng thu nhập quốc dân đến
năm 2005 xuất khẩu đã chiếm 63,8%. Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình
quân đầu người của Hải Phòng luôn tăng qua các năm, năm 2005 kim ngạch xuất
khẩu bình quân đạt 468 USD/người gấp đôi năm 2001, tăng 14% so với năm 2004.
Như vậy, trong bối cảnh còn bị tác động bởi nhiều yếu tố không thật thuận
lợi cả trong và ngoài nước, hoạt động xuất khẩu của Hải Phòng vẫn đạt được những
thành công đáng kể, trở thành nhân tố quan trọng và là động lực chủ yếu góp phần
thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005. Nhìn
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 20 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
chung, kinh tế Hải Phòng đã được định vị theo hướng xuất khẩu và độ mở cửa là
tương đối rộng.
- Giai đoạn 2006-2009: Kim ngạch xuất khẩu tiếp tục được duy trì ở
mức cao, các doanh ngiệp đang đẩy mạnh và mở rộng thị trường có hiệu quả.
Bước vào năm 2006, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một tăng
cao, nhiều sự kiện quốc tế lớn được tổ chức,…đã tạo ra yếu tố tâm lý tích cực đối
với tăng trưởng kinh tế và mở rộng thương mại quốc tế. Do nắm bắt được những
điều kiện thuận lợi này và với sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và các doanh
nghiệp, năm 2006 tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Hải Phòng đạt 1.013,4 triệu
USD, đây là năm đầu tiên xuất khẩu của thành phố vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD, đạt
104,57% kế hoạch năm và tăng 20,1% so với năm 2005 và đưa kim ngạch xuất
khẩu bình quân đầu người lên 559 USD/người, cao hơn 86 USD so với bình quân
đầu người cả nước. Số doanh nghiệp tham gia sản xuất hàng xuất khẩu đã tăng gần
20% so với năm 2005 theo hướng tập trung khai thác các ngành, hàng có thế mạnh
của địa phương, trong đó chủ yếu là các mặt hàng thuỷ sản, dệt may, giầy dép, đóng
tàu, kết cấu thép siêu trường, siêu trọng, hoá chất, vật liệu xây dựng, dây điện và
cáp điện… Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của thành phố đạt trên 1,2 tỷ USD,
tăng trên 20% so với năm 2006. Như vậy, mặc dù năm 2007 có nhiều khó khăn do
thiên tai, bão lũ, dịch bệnh và do sự cạnh tranh quyết liệt của thị trường trong nước
và quốc tế sau khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại
thế giới (WTO), nhưng tốc độ tăng trưởng vẫn giữ vững ở mức 24,2%/năm. Năm
2008 đánh dấu một năm đầy biến động và khó khăn đối với nền kinh tế thế giới.
Những bất ổn trên thị trường bất động sản và tài chính Mỹ đã biến thành cơn bão
tàn phá kinh tế và tài chính toàn cầu, nền kinh tế các nước đều chịu thiệt hại nặng
nề, Việt Nam cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng nhưng Hải Phòng vẫn có kim
ngạch xuất khẩu cao đáng kể: hơn 1,5 tỷ USD đạt mức tăng trưởng 20%. Giai đoạn
2006-2008, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Hải Phòng đạt 3.781 triệu USD,
tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 21,65%/năm. Đến năm 2008 đã có trên
600 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu với nhiều mặt
hàng khác nhau. Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó
khăn, thách thức. Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008
đã đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái (giá xuất khẩu giảm), làm thu hẹp
đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu
cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. Ở trong nước, thiên tai dịch
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 21 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất
và đời sống dân cư. Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng nhờ những sự nỗ lực với tinh
thần cố gắng cao và tính chủ động, tích cực của cộng đồng các doanh nghiệp kết
hợp với biện pháp chỉ đạo quyết liệt và hữu hiệu của các bộ, ngành Trung ương và
của thành phố nên tình hình sản xuất đã được cải thiện và xuất khẩu đã tăng có tăng
trưởng dương. Các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu có lợi thế của thành phố như:
thực phẩm chế biến, giầy dép, may mặc, tàu biển, dây và cáp điện tiếp tục đạt kim
ngạch xuất khẩu cao, góp phần đưa tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố đạt
1,687 tỷ USD tăng 11,7% so với năm 2008 (trong khi đó cả nước đã không đạt
được chỉ tiêu đề ra, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu âm và chỉ đạt -9,9%). Như vậy
liên tục từ năm 2006 đến nay kim ngạch xuất khẩu của Hải Phòng luôn đạt trên 1 tỷ
USD và giữ vững tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm trên 20% ( trừ năm 2009).
Điều đó chứng tỏ thành phố đang đi theo con đường đúng đắn đưa xuất khẩu của
Hải Phòng tăng cao, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế địa phương.
Bảng 2.2: So sánh xuất khẩu của Hải Phòng với cả nước (2001-2009).
Năm ĐVT 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Kim ngạch Hải Phòng
tr
USD
415,9 481,7 591,6 710,7 839 1013 1258 1510 1687
Kim ngạch cả nước
tr
USD
15029 16706 20149 26485 32447 39826 48561 62685 57096
Tỷ trọng kim ngạch
của Hải Phòng/cả nước
% 2,77 2,88 2,94 2,68 2,53 2,54 2,51 2,41 2,94
Tốc độ tăng kim ngạch
Hải Phòng
% 32,8 15,9 22,81 20,1 18,05 20.8 24,17 20 11,72
Kim ngạch xuất khẩu/
người của Hải Phòng
USD 241 276 337 401 468 559 686 819 918
Kim ngạch xuất khẩu/
người của cả nước
USD 191 210 249 323 390 473 570 727 666
(Tổng cục thống kê Việt Nam)
Giá trị kim ngạch xuất khẩu của Hải Phòng chiếm tỷ trọng khá ổn định, xấp
xỉ 3% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Từ khi bước vào thiên
nhiên kỷ mới đến nay tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trung bình của Hải
Phòng đạt 21,8%, được xếp vào mức cao trong cả nước. Kim ngạch xuất khẩu hàng
hoá bình quân đầu người của Hải Phòng luôn cao hơn giá trị trung bình chung của
cả nước và đứng ở vị trí thứ 5 toàn quốc.
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 22 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
2.2.2.2. Về cơ cấu xuất khẩu của Hải Phòng
2.2.2.2.1. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Trong những năm qua cơ cấu nhóm, mặt hàng xuất khẩu đã được cải thiện
nhờ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình CNH, HĐH. Tỷ trọng các nhóm
hàng, mặt hàng đã qua chế biến và có chứa hàm lượng công nghệ cao tăng nhanh.
Một số sản phẩm, hàng hoá đạt chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế
giới trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng và gay gắt, đồng
thời tác động tích cực tới chất lượng hàng hoá sản xuất trong nước. Từ chỗ doanh
nghiệp Hải Phòng đi khắp nước tìm kiếm mặt hàng xuất khẩu, thì nay hàng sản
xuất, chế biến, gia công tại Hải Phòng đã chiếm tới 88%, nhóm hàng thu mua, tái
xuất và dịch vụ chỉ còn 12% (trước đây là 50 - 50).
Đến năm 2008 đã có trên 600 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
tham gia xuất khẩu. Hình thành 25-30 sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu cao, đa số
là các ngành hàng có thế mạnh của địa phương như: tàu biển, sản phẩm cơ khí siêu
trường siêu trọng, sơn các loại, các chi tiết rô bốt, nhựa PVC các loại, giày cao cấp,
sản phẩm dệt may, ắc qui các loại, giấy lụa, giấy đế, cao su kỹ thuật, thảm len, cáp
điện, thuỷ sản đông lạnh, thịt lợn, linh kiện điện tử,… Các sản phẩm này được chia
thành các nhóm mặt hàng xuất khẩu khác nhau.
Bảng 2.3: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của thành phố
giai đoạn 2000-2005:
Mặt hàng ĐVT 2000 2003 2004 2005
Thảm len 1000 m
2
12,4 10,4 6,8 7,4
Giầy dép 1000 đôi 32.872 38.728 36.549 38.980
May mặc 1000 SP 1.347 15.804 14.161 12.607
Giấy đế Tấn 21.895 41.921 41.441 39.548
Lợn đông lạnh Tấn 2.514 1.891 3.105 3.056
Tôm đông Tấn 99 176 185 175
Cá các loại Tấn 383 1.065 4.351 2.369
Cà phê Tấn - 4.928 4.711 3.580
Cao su Tấn 455 4.442 5.457 5.942
Gạo Tấn - 3.750 3.525 3.591
(Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Hải Phòng 2005)
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 23 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
Theo thời gian, cơ cấu xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Hải Phòng cũng
dần dần thay đổi. Ngành dệt may và giày da vốn là ngành xuất khẩu chủ lực nhất,
đóng góp lớn nhất vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Hải Phòng nhưng đến nay nó
chỉ là ngành đóng góp đứng thứ hai (năm 2006 đóng góp 76%, đến năm 2009 tỷ
trọng đóng góp chỉ còn 30,4% tổng kim ngạch xuất khẩu). Còn đóng tàu vốn là một
ngành mới được chú trọng đầu tư phát triển phục vụ xuất khẩu từ năm 2005 nhưng
đã đạt được những thành quả rất đáng kinh ngạc, nay nó là ngành đóng góp lớn nhất
vào kim ngạch xuất khẩu của thành phố.
Ba nhóm mặt hàng chủ lực nhất của thành phố có kết quả xuất khẩu đạt tốc
độ tăng trưởng cao, như: dệt may, giầy dép, hàng công nghiệp đã khai thác được
tiềm năng lợi thế để đẩy nhanh được giá trị kim ngạch xuất khẩu và khẳng định việc
định hướng đầu tư và phát tiển 3 nhóm mặt hàng chủ lực Hải Phòng đến 2005-2010
là đúng đắn, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội thành phố trong thời kỳ
hội nhập. Một số doanh nghiệp xuất khẩu thuộc các mặt hàng chủ lực của Thành
phố là dệt may và giầy dép đã tạo dựng uy tín về xuất khẩu nhiều năm liên tục được
Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) bình chọn và được quảng bá trong và
ngoài nước thông qua cổng Thương mại điện tử quốc gia và hệ thống Thương vụ
Việt Nam tại nước ngoài như: Công ty TNHH Sao Vàng, Công ty cổ phần May Hai,
Công ty cổ phần Dệt may xuất khẩu Hải Phòng, Công ty Da giầy Hải Phòng, Công
ty TNHH Đỉnh Vàng Hải Phòng, Công ty TNHH Thành Hưng Đặc biệt là công ty
cổ phần May Hai và công ty TNHH Sao Vàng được Chính phủ trao tặng Cup và
Bằng khen về thành tích đạt danh hiệu Doanh nghiệp xuất khẩu uy tín 3 năm liên
tục 2004-2006, được công nhận “Doanh nghiệp xuất khẩu uy tín” năm 2008. Ngành
dệt may và giày da là ngành đứng thứ hai về đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu của
Hải Phòng. Mặc dù cũng là thế mạnh xuất khẩu của Hải Phòng, nhưng ngành dệt
may và giày da vẫn chưa thực sự vững chắc và dễ bị ảnh hưởng bởi tác động bên
ngoài. Năm nào xuất khẩu của Hải Phòng đã bị ảnh hưởng đáng kể, vì Liên minh
châu Âu (EU) lập rào cản (áp dụng mức thuế cao) trong vụ kiện chống bán phá giá
đối với ngành may mặc và giày da. Mặc dù vậy giá trị kim ngạch xuất khẩu mặt
hàng này vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của địa phương.
Nhóm mặt hàng có khả năng cạnh tranh trước mắt và lâu dài (gồm thuỷ sản
nông sản thực phẩm và thực phẩm công nghệ) đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất, đạt
38 triệu USD năm 2000 và đến 2003 đã đạt 85 triệu USD, tốc độ tăng trưởng bình
quân là 33% năm, tăng mạnh ở thực phẩm công nghệ, nông - thuỷ sản.
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 24 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
Nhóm nhóm hàng chủ lực thứ 2 là nhóm mặt hàng lợi thế so sánh như công
nghiệp dệt may, da giầy, công nghiệp cơ khí đúng tầu, thuyền, các sản phấm siêu
trường siêu trọng, vật liệu hoá chất, hàng điện tử giữ tốc độ tăng trưởng khá đạt 405
triệu USD vào năm 2003, chiếm 69% tổng kim ngạch trên địa bàn, đạt tốc độ tăng
trưởng bình quân 25% năm, trong đó giầy dép tăng 24%, dệt may tăng 32% , đúng
tầu tăng mạnh do mở ra hướng xuất khẩu vào thị trường I-Rắc và khu vực ASEAN,
năm 2004 có nhiều hướng phát triển mới: đúng tầu chở hàng 6300 tấn cho Nhật
Bản, Ba Lan (Nhà máy đúng tầu Bạch Đằng), tầu chở CONTAINER 8300 tấn xuất
khẩu sang Đức (nhà máy đúng tầu Bến Kiền), đúng tầu cứu nạn SAR 41 và SAR 27
cho Hà Lan, đúng tầu trọng tải 53000 tấn cho Anh (nhà máy đúng tầu Nam Triệu)
Trong các gần đây, các cơ sở đóng tàu trên địa bàn đã thu hút hàng nghìn tỷ đồng
đầu tư chiều sâu, từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao năng lực
sản xuất đúng các tàu trọng tải lớn từ 6.500 tấn đến 53.000 tấn, trong đó có nhiều
tàu hàng chuyên dụng đòi hỏi tính năng, kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu của một số nhà máy đóng tàu lớn như: Công ty công nghiệp
tàu thuỷ Nam Triệu, Công ty đóng tàu Phà Rừng, Công ty đóng tàu Bạch Đằng
đạt 20 triệu USD/ năm. Đặc biệt, Công ty công nghiệp tàu thuỷ Nam Triệu năm
2006 đạt kim ngạch xuất khẩu gần 100 triệu USD. Nhờ những kết quả trên đó giúp
cho ngành đóng tàu của Hải Phòng trở thành một ngành đóng vai trị quan trọng nhất
trong hoạt động xuất khẩu, chiếm tới 60% tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của Hải Phòng. Hiện nay, Hải Phòng đã xuất khẩu được tàu biển sang các nước:
Singapo, Nhật Bản, Đan Mạch, Hy Lạp, Iraq và đặc biệt là Vương quốc Anh nơi có
nền công nghiệp đóng tàu lâu đời và hiện đại hàng đầu thế giới. Điều này chứng tỏ
được năng lực thực sự của công nghiệp đóng tàu Việt Nam nói chung và công
nghiệp đóng tàu Hải Phòng nói riêng trong con mắt của các bạn hàng quốc tế.
Các mặt hàng khác như thủ công mỹ nghệ, điện tử, hoá chất vật liệu điện
cũng có tốc độ tăng 15%/năm. Cùng với đóng tàu xuất khẩu, ngành cơ khí chế tạo ở
Hải Phòng cũng đã có sự đầu tư bứt phá trong việc sản xuất các kết cấu thép siêu
trường, siêu trọng phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu hàng chục triệu USD ra
thị trường nước ngoài. Kim ngạch xuất khẩu của ngành công nghiệp cơ khí Hải
Phòng đạt bình quân hơn 50 triệu USD/năm.
Nhóm các hoạt động có thu ngoại tệ (xuất khẩu dịch vụ) như cảng biển, dịch
vụ XNK, vận tải, du lịch mặc dù đã gặp rất nhiều khó khăn như sự thay đổi cơ chế
chính sách biên mậu, nạn dịch SARS song vẫn tiếp tục giữ được mức tăng trưởng
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 25 Trường: ĐH Kinh tế quốc dân
ổn định với giá trị kim ngạch tăng lên 75 triệu USD năm 2003 (những năm trước đó
chỉ đạt 55 triệu USD), đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 30% năm, tăng chủ yếu
dịch vụ cảng và dịch vụ du lịch, dịch vụ xuất khẩu lao động Các nhóm hàng này
đã và đang được thành phố và các ngành kinh tế trên địa bàn tập trung đầu tư, đổi
mới công nghệ và thiết bị theo hướng hiện đại hoá nhằm cải thiện, tăng dần khả
năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu.
2.2.2.2.2. Cơ cấu xuất khẩu theo khu vực kinh tế
Trong tổng giá trị xuất khẩu của địa phương, khối kinh tế ngồi nhà nước vẫn
luôn chiếm giá trị chủ yếu, khối kinh tế Trung ương đóng góp vào kim ngạch xuất
khẩu trên địa bàn thành phố chủ yếu vẫn là ngành cơ khí đóng tàu.
Hình 2.2: Cơ cấu xuất khẩu phân theo khu vực kinh tế của Hải Phòng
(2000-2005)
(Nguồn: Cục thống kê TP.Hải Phòng)
Theo số liệu của đồ thị trên thấy, có sự chuyển dịch trong cơ cấu xuất khẩu
của Hải Phòng theo khu vực kinh tế: kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế
trung ương chiếm tỷ trọng ngày càng tăng thì kinh tế địa phương có tỷ trọng giảm
tương ứng trong tổng giá trị xuất khẩu của Hải Phòng. Điều này xảy ra là do sự tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu giữa các khối kinh tế không đồng đều. Cụ thể: trong
lúc các khối kinh tế Trung ương và cú vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn phát triển,
Sinh viên: Lưu Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế học K48