Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tiểu luận:
“ Đường lối xây dựng nền kinh tế thị
trường, định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”
1
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
I. Mở đầu ( lý do chọn đề tài ).
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại
bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những
người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân
tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào ? Đó là câu hỏi lớn và cực
kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam, cũng
như nhiều nước khác, đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh
tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan
trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau
mô hình này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một
số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan,
duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật
khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Cùng say mê và quan tâm đến vấn đề này cả nhóm đã quyết định chọn đề tài làm
tiểu luận để có thể có một cái nhìn tổng thể, toàn diện và rõ ràng sâu sắc hơn về đường
lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.
II. Nội dung
2
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.Thời kỳ trước đổi mới trước năm 1986
Giai đoạn, đầu thập niên 1980, khủng hoảng kinh tế-xã hội nổ ra, lạm phát
tăng lên mức phi mã đặc biệt sau hai cuộc tổng điều chỉnh giá-lương-tiền.Nền kinh
tế nước ta bắt đầu được xây dựng với những công tác đầu tiên là công cuộc công
nghiệp hóa đất nước đẩy mạnh kinh tế.
a. Bối cảnh
Thời kỳ trước đổi mới , nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành công
nghiệp hóa qua 2 giai đoạn : từ năm 1960 đến 1975 triển khai ở miền Bắc và từ
năm 1975 đến 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước.
+ Từ năm 1960 – 1975, miền Bắc đi lên xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội từ
một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu mà không qua giai đoạn phát triển Tư Bản
Chủ Nghĩa. Miền Bắc vừa xây dựng bảo vệ đất nước vừa làm hậu phương vững
chắc cho miền Nam.
Trong thời gian này, đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ đại
hội 3 của Đảng (9/1960). Đại hội khẳng định : muốn cải biến tình trạng nền kinh tế
lạc hậu của nước ta, không có con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp
hóa XHCN. Khẳng định tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây
dừng CNXH ở nước ta.
+ Từ năm 1975 – 1985: sau đại thắng mùa xuân năm 1975 cả nước được
độc lập, thống nhất và quá độ đi lên CNXH và kế hoạch đặt ra là xây dựng và bảo
vệ Tổ Quốc.
b. Nội dung:
Đại hội 3 đã chỉ rõ mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa XHCN là xây dựng một
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đỗi và hiện đại, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và
kỹ thuật của CNXH. Đây là mục tiêu cơ bản, lâu dài và phải thực hiện qua nhiều giai
đoạn.
Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa III) nêu ra phương hướng chỉ đạo xây dựng và
phát triển công nghiệp là:
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
- Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với phát triển ưu tiên công
nghiệp nặng.
- Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh công nghiệp
địa phương.
Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện đặc điểm, tình hình trong nước và quốc
tế, đại hội IV của Đảng (12/1976) đề ra đường lối công nghiệp hóa XHCN tương tự
như đại hội III. Xác định chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải
lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần
làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ. Đây là sự điều chỉnh đúng đắn bước đi của công nghiệp hóa, phù
hợp với thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta lại không làm đúng sự
điều chỉnh chiến lược quan trọng này.
Có thể thấy trước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng
3
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên
xuống dưới, giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn đầu tư…. Các cơ quan hành chính
can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng
lại không chịu trách nhiệm gì về vật chât và pháp lý đối với các quyết định của
mình. Vì nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “ cấp phát - giao nộp” nên
quan hệ hàng hóa tiền tệ bị coi nhẹ. Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung
gian, phong cách cửa quyền. quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn
người lao động. Nhà nước bao cấp từ giá cả ( định giá trị vật tư, thiết bị), bao cấp
qua tem phiếu bằng cách quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán
bộ, công nhân viên theo định mức; bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách.
Ở thời kỳ đó thì cơ thế này nó cho phép tận dụng tối đa các nguồn lực kinh
tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể nhưng đồng
thời nó lại thủ tiêu, cạnh tranh kìm hãm sự tiến bộ của khoa học công nghệ, triệt
tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng
tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Do thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế
thị trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã
hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ
là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa hận sự tồn tại của nền
kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. Nền kinh tế nước ta rơi vào tình
trạng trì trệ, khủng hoảng.
2. Chủ trương xây dựng
a. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh
tế –xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên
những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với tế nhau và bổ
sung cho nhau. Đó là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu hướng
mới đang vận động, đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ
nhất đóng vai trò "động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu quả; nhóm thứ
hai đóng vai trò "hướng dẫn", "chế định" sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu
đã xác định, bổ sung những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn
thiện mô hình chủ nghĩa xã hội.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ba điểm rất cơ
bản là: lấy chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu làm nền tảng và kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân; kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, thực hiện tốt các chính sách
xã hội; Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức
năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
b. Vậy tại sao phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa?
- Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ảnh trình độ
phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ
4
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư
bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho
mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó
thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản
phát triển.
- Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chức kinh
tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh chóng xây
dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất văn minh, hiện đại hơn chủ
nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa
xã hội hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt
của đất nước và đời sống của nhân dân Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái quy
luật (muốn xóa bỏ ngay kinh tế hàng hóa, áp dụng ngay cơ chế kinh tế phi thị trường),
không năng động, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cuộc đã không thành công.
- Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị
chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người
cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt
Nam .
Mặt khác “cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay không tạo
được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và
cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng,
hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong
xã hội”
1
. Chính vì vậy mà việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết
và cấp bách.
c. Chủ trương xây dựng
• Trước tình hình đó Đảng ta đã bắt đầu đề cập đến sự cần thiết đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế tại đại hội VI. Đại hội đã thảo luận và thông qua các
nghị quyết về các văn kiện như :báo cáo chính trị; phương hướng; mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội năm năm 1986-1990; báo cáo về bổ sung điều lệ Đảng.Đại hội
đã đánh giá những thành tựu những khó khăn của Việt Nam do cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội tạo ra. Những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ trương, chính sách
lớn về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của
nhũng sai lầm đó, đặc biệt sai lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy
nghĩ về hành động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan là khuynh
hướng trong buông lỏng quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh
đường lối nguyên tắc của Đảng đó là tư tưởng vừa tả khuynh vừa hữu khuynh.
Đồng thời Đảng cũng đề ra những mục tiêu cần đạt được cho những năm tiếp đó
bằng cách đổi mới. Đổi mới về kinh tế là xóa bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần .Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới về
nội dung và cách thức công nghiệp hóa, thực hiện 3 chủ trương kinh tế:
5
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
o Sản xuất lương thực, thực phẩm
o Sản xuất hàng tiêu dùng
o Sản xuất hàng xuất khẩu
Có thể nói: Trong tiến trình đổi mới đất nước, Đại hội VI là bước đột phá đầu tiên về đổi
mới tư duy của Đảng về phát triển kinh tế. Đó là việc xác lập, xây dựng cơ cấu kinh tế phù
hợp với sự vận động của quy luật khách quan và, trình độ của nền kinh tế. Đại hội có ý
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, tạo ra sự ổn định về chính trị, xã hội,
giữ vững an ninh - quốc phòng. Đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng (12-1986) khởi
xướng đã mở đầu cho thời kỳ phát triển mới trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.
Trong quá trình đổi mới, trước hết và chủ yếu là đổi mới kinh tế (gắn với từng bước đổi
mới chính trị), Đảng ta rất quan tâm tới vấn đề xác lập một cơ cấu kinh tế phù hợp với đặc
điểm, trình độ phát triển của nền kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Mục tiêu đổi mới cơ cấu kinh tế cuối cùng cũng là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
của CNXH, tiến tới hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN, đáp ứng nhu cầu không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm vững chắc nền an ninh quốc
phòng, sử dụng và phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước vào mục tiêu phát
triển.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố, bộ phận hợp
thành của nền kinh tế, trong đó các yếu tố, các bộ phận vừa tác động qua lại lẫn nhau, vừa
làm điều kiện cho nhau tồn tại trong một chỉnh thể. Cơ cấu kinh tế không phải là một hệ
thống tĩnh tại, mà nó biến đổi cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Một cơ cấu kinh tế phù hợp là cơ cấu được hình thành dựa trên cơ sở những tiền đề
hiện thực, tuân thủ các qui luật kinh tế khách quan, chứ không phải là sự áp đặt của ý
muốn chủ quan. Tuy vậy, trong mỗi giai đoạn, sự hình thành và biến đổi của cơ cấu kinh tế
lại thông qua sự tác động của nhân tố chủ quan, của chủ thể lãnh đạo, quản lý nền kinh tế
quốc dân.
Đại hội VI là bước phát triển về chất, là quá trình đổi mới tư duy của Đảng về xác
lập đường lối phát triển kinh tế, là sự tổng kết thực tiễn. Ngay từ Đại hội IV (1976), Đảng
ta đã xác định: Phải ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; kết hợp xây dựng công nghiệp với nông nghiệp trên
phạm vi cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế Trung
ương, vừa phát triển kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, kết
hợp phát triển lực lượng sản xuất với việc xác lập và từng bước hoàn thiện quan hệ sản
xuất mới. Tiếp đó, đến Đại hội V (1982), Đảng ta tiếp tục xác định: phải xây dựng cơ cấu
kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, chú trọng xây dựng hệ thống công nghiệp nặng tương
đối phát triển làm nòng cốt củng cố nền kinh tế quốc dân.
Trong những năm 1976-1986, trên cơ sở cơ cấu kinh tế đã được xác định, trong
chỉ đạo thực hiện, đã thiên về tập trung phát triển công nghiệp nặng qui mô lớn, mà không
chú ý phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, không tính tới những điều kiện và khả
năng thực tế đất nước; “Chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội và bảo thủ, thể hiện
chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo XHCN và cơ chế quản lý kinh tế”.
Do vậy, khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra những năm cuối thập niên 70 đầu thập niên
6
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
80 của thế kỷ XX ở nước ta có nguyên nhân từ bố trí cơ cấu kinh tế và cũng có nguyên
nhân bắt nguồn từ những nhận thức chưa đầy đủ về thời kỳ quá độ lên CNXH là một quá
trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, nên trong chỉ đạo thực hiện đã
xuất hiện tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết. Tuy nhiên,
đánh giá một cách khách quan, mặc dù còn không ít những khiếm khuyết, nhưng từ 1976
đến trước Đại hội VI (tháng 12 - 1986) Đảng ta đã tìm tòi, thể nghiệm và chuẩn bị những
điều kiện, tiền đề cần thiết để đi tới xác lập một cơ cấu kinh tế phù hợp.
Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá một cách khách quan, Đại hội VI
chỉ rõ phải nhận thức cho đúng về CNXH, về bố trí cơ cấu kinh tế, phải căn cứ vào điều
kiện lịch sử mới của đất nước và xu thế phát triển để đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức về
cơ cấu kinh tế. Và Đại hội cũng đã xác định rõ nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của
những năm còn lại trong chặng đường đầu tiên là phải tập trung “ổn định mọi mặt tình
hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”. Từ nhiệm vụ bao trùm đó,
Đảng ta nhấn mạnh phải: “Dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý,
trong đó các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất có qui mô và
trình độ kỹ thuật khác nhau phải được bố trí cân đối, liên kết với nhau, phù hợp với điều
kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định”. Như vậy, so với trước năm 1986,
trong bố trí cơ cấu kinh tế, vấn đề mới được Đại hội VI đặc biệt chú ý là tính “phù hợp
điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định”. Điều này khác hẳn với tư
tưởng chủ quan, nóng vội, thoát ly thực tế khách quan trong thời kỳ trước năm 1986 khi bố
trí cơ cấu kinh tế thiên về công nghiệp nặng, chú trọng công nghiệp sản xuất tư liệu sản
xuất qui mô lớn mà chưa chú ý đúng mức đến phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng và phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, vì vậy đầu tư nhiều nhưng
hiệu quả thấp...
Từ cách đặt vấn đề như vậy, Đại hội VI đã nêu một số quan điểm về xác lập cơ cấu kinh
tế trong thời kỳ đổi mới:
Thứ nhất, phải nhận thức đầy đủ, toàn diện về chặng đường đầu tiên của thời kỳ
quá độ đi lên CNXH, “thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên CNXH từ một nền sản
xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn... độ
dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội...”. Đối với nước ta,
nhiệm vụ xây dựng những tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội cho thời kỳ quá độ đòi hỏi phải
có thời gian dài hơn, vì xuất phát điểm kinh tế - xã hội của nước ta rất thấp, lại bị tổn thất
nặng nề sau mấy chục năm chiến tranh và vẫn tiếp tục phải đối phó với những âm mưu
xâm lược, phá hoại của kẻ thù. Việc khẳng định thời kỳ quá độ ở nước ta là lâu dài và rất
khó khăn giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn trong xác định bố trí cơ cấu kinh tế của
chặng đường đầu tiên trong thời kỳ quá độ.
Thứ hai, phải bố trí lại cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư
trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp với đặc thù tự nhiên, kinh tế - xã hội của Việt Nam trong
chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ: phải phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp,
tiểu công nghiệp và công nghiệp nhẹ tới một mức nhất định mới có đủ điều kiện phát triển
7
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
công nghiệp nặng. Mức nhất định ở đây là giải quyết về cơ bản các nhu cầu của đời sống
xã hội và tạo ra được nguồn tích lũy cần thiết để xây dựng công nghiệp nặng.
Căn cứ vào những quan điểm nêu trên, Đại hội VI đã đề ra mục tiêu phải thực hiện trong 5
năm (1986-1990): “Về lương thực, thực phẩm: Bảo đảm lương thực đủ ăn cho toàn xã hội
và có dự trữ. Đáp ứng một cách ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng
lương thực, thực phẩm phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động; Về hàng tiêu dùng: sản
xuất đáp ứng được nhu cầu bình thường của nhân dân thành thị và nông thôn về những sản
phẩm công nghiệp thiết yếu; Về hàng xuất khẩu: tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ
lực, đạt kim ngạch xuất khẩu đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc,
phụ tùng và những hàng hóa cần thiết”.
Để thực hiện thắng lợi 3 chương trình kinh tế lớn, phải tạo ra cơ cấu hợp lý giữa công
nghiệp và nông nghiệp, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu giữa 2 ngành kinh tế này nhằm đảm
bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối với nhịp độ tăng trưởng ổn định. Nhưng ở mỗi giai
đoạn, trong từng chặng đường, vị trí của nông nghiệp, công nghiệp có khác nhau. Trong
chặng đường hiện nay, xuất phát từ “yêu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm, về
nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng, về hàng xuất khẩu quyết định vị trí hàng đầu của
nông nghiệp”.
Đối với công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, Đại hội cũng chỉ rõ: “đáp ứng cho được
nhu cầu của nhân dân về những loại hàng hóa thông thường, bảo đảm yêu cầu chế biến
nông, lâm, thủy sản, tăng nhanh việc làm hàng gia công xuất khẩu và các mặt hàng xuất
khẩu khác, đồng thời mở rộng mặt hàng đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu
dùng”. Với công nghiệp nặng và xây dựng kết cấu hạ tầng, quan điểm của Đại hội VI rất
rõ ràng: “phải nhằm phục vụ các mục tiêu kinh tế, quốc phòng trong chặng đường đầu tiên,
và theo khả năng thực tế... sản phẩm nào mà công nghiệp nặng nhất thiết phải tạo ra trong
nước để phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ thì cố gắng làm với quy mô và kỹ thuật
thích hợp... không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực
tế, ngay cả để phục vụ cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”.
Như vậy, nếu so sánh với thời kỳ 1976-1986, qua các kỳ Đại hội IV, V, quan điểm
của Đảng tại Đại hội VI về bố trí cơ cấu kinh tế đã có sự đổi mới để phù hợp hơn với thực
tiễn khách quan. Đã thực sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đặt đúng tầm và xác
định đúng vị trí của nó và tập trung sức để thực hiện 3 chương trình kinh tế, coi đó như
một hướng đi để dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Về cơ cấu đầu tư, Đại hội
chỉ rõ: “Theo phương hướng bố trí lại cơ cấu kinh tế, phải điều chỉnh lớn cơ cấu đầu
tư xây dựng cơ bản của nhà nước nhằm tập trung cho việc thực hiện ba chương trình mục
tiêu nói trên và bảo đảm phát huy hiệu quả”. Tức là, phương hướng đầu tư cho những năm
tới tập trung chủ yếu cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, còn công nghiệp nặng chỉ đầu
tư cho những công trình nhanh chóng mang lại hiệu quả. Thực tiễn đã chứng minh quan
điểm bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư của Đại hội VI là đúng đắn, phù hợp với thực
trạng kinh tế - xã hội nước ta và có vai trò quyết định trong việc đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển vào những năm sau đó.
8
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ ba, “Phải coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ” đi lên CNXH ở nước ta, và “Muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đi
đôi với việc bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư theo ngành, theo vùng, phải xác định
đúng cơ cấu thành phần kinh tế” nhằm khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế
phi XHCN vào xây dựng, phát triển kinh tế nước nhà, trước mắt là vốn đầu tư và giải
quyết việc làm. Đại hội VI xác định, hiện nay nước ta còn tồn tại các thành phần kinh tế:
kinh tế XHCN gồm quốc doanh và tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ công,
nông dân cá thể, người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân;
kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.Trên cơ sở xác định các thành phần
kinh tế, việc cải tạo XHCN cũng xuất phát từ sự nhận thức đầy đủ về chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ: “Cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh
tế” bởi vì nó “cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế qui mô và trình độ kỹ thuật thích
hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và lưu thông nhằm khai thác mọi khả năng của
các thành phần kinh tế liên kết với nhau, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo”.
Mọi hình thức cải tạo quan hệ sản xuất chỉ được coi là hợp qui luật khi nó thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển và đưa tới năng suất lao động cao hơn, tạo điều kiện mở rộng tái
sản xuất và nâng cao đời sống cho nhân dân.
Như vậy, một mặt Đảng ta thừa nhận còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, mặt
khác đặt vấn đề cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân, nhưng
không phải trong một thời gian ngắn vài ba năm, thậm chí một vài kế hoạch 5 năm, mà coi
đó là nhiệm vụ tiến hành trong suốt thời kỳ quá độ. Đại hội VI phân tích rõ: “Mười năm
qua, hai kỳ đại hội Đảng đều ghi vào nhiệm vụ căn bản hoàn thành cải tạo XHCN trong
nhiệm kỳ đại hội đó, song đều chưa thực hiện được. Cuộc sống cho ta một bài học thấm
thía là không thể nóng vội làm trái quy luật. Nay phải sửa lại cho đúng như sau: “đẩy mạnh
cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH,
với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất”. Vấn đề cải tạo và sử dụng các thành phần kinh tế được
thực hiện theo phương châm: sử dụng để cải tạo, cải tạo để sử dụng tốt hơn. Đây là 2 mặt
của một vấn đề trong thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng XHCN. Việc thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế và
phương châm kết hợp cải tạo với sử dụng đã mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển,
dần ổn định tình hình kinh tế - xã hội như mục tiêu đã định.
Tuy nhiên, để tiến hành cải tạo XHCN một cách vững chắc và khai thác có hiệu quả những
tiềm năng của các thành phần kinh tế phi XHCN, Đại hội VI nhấn mạnh: “làm cho kinh tế
quốc doanh thật sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác”. Đây là
điều kiện tiên quyết trong sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của thời kỳ quá độ đi
lên CNXH ở nước ta.
Cùng với quan điểm đổi mới bố trí cơ cấu kinh tế, Đại hội VI cũng nhấn mạnh phải kiên
quyết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (bao gồm hệ thống các đòn bẩy kinh tế, các hình
thức và biện pháp quản lý kinh tế cụ thể), nhằm giải quyết hiệu quả những mục tiêu, nhiệm
vụ ổn định tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Việc đồng thời đổi mới cơ chế quản lý
đã tạo điều kiện cho bố trí cơ cấu kinh tế mới phù hợp với tình hình đất nước thời kỳ đầu
9
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đổi mới phát huy được tác dụng. Sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VI “nền kinh tế
đang có những chuyển biến có ý nghĩa cả về cơ cấu và cơ chế quản lý. Đã bước đầu hình
thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước. Cơ cấu đầu tư, cơ cấu sản xuất đã có điều chỉnh quan trọng theo hướng
tập trung cho ba chương trình kinh tế, đáp ứng có hiệu quả hơn những nhu cầu của thị
trường trong nước và bước đầu mở rộng quan hệ với thị trường thế giới”. Như vậy, trong
đường lối đổi mới kinh tế được Đảng đề xướng tại Đại hội VI, vấn đề đổi mới
bố trí cơ cấu kinh tế (cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế) được đặt trong tổng
thể đường lối đổi mới toàn diện và đồng bộ về kinh tế - xã hội, với những hình thức, biện
pháp, bước đi tuần tự phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội đất nước trong chặng đường
đầu thời kỳ quá độ. Đây là cơ sở thực tiễn, lý luận quan trọng cho Đại hội VII đề ra chủ
trương hoàn thiện cơ cấu kinh tế và Đại hội VIII, IX đề ra chủ trương đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.
Đến nay, chúng ta đã có cơ cấu kinh tế tương đối hợp lý và đang chuyển dịch theo
hướng CNH-HĐH, với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong xã hội; giá trị sản
xuất của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày
càng lớn trong GDP; công nghiệp đã tăng từ 21,6% (1988) lên 41% (2005); dịch vụ từ
33,1% lên 38,5%; nông nghiệp đã giảm từ 46,3% xuống còn 20,5%; các vùng kinh tế và
vùng kinh tế trọng điểm đã hình thành, phát triển trên cả nước. Những thành tựu mà đất
nước đạt được trong những năm đầu và cả chặng đường gần 20 năm đổi mới, phát triển có
nguyên nhân của sự tìm tòi, xác lập một cơ cấu kinh tế phù hợp, trong đó Đại hội VI đóng
vai trò mở đầu, đột phá. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI đã tìm ra lối thoát cho cuộc
khủng hoảng kinh tế xã hội, thể hiện quan điểm đổi mới toàn diện đất nước, đặt nền tảng
cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những chủ
trương, chính sách mới đã gợi mở, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, giải
phóng năng lực sản xuất của xã hội để mở đường cho phát triển sản xuất.
Trong bối cảnh đất nước đang thay đổi: từ 1 nước thiếu đói đủ ăn, xuất khẩu gạo ra
nước ngoài đứng hàng thứ 2,3 trên thế giới. Mức lạm phát 3 con số thì bị đẩy lùi và tiến tới
điều chỉnh lạm phát, hàng tiêu dùng ngày 1 nhiều,SX được đẩy mạnh. Xã hội, đất nước
còn người thì ngày càng đổi mới. Với những tồn tại: Phân hóa giàu nghèo ngày càng xa,
các tiêu cực xã hội đã xuất hiện và phát triển nhanh. Sau 5 năm tiến hành đổi mới, nhân
dân ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là về mặt kinh tế:
+ Nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ do có chủ trương "khoán" thích hợp. Sản lượng
lương thực, thực phẩm tăng nhanh. Từ 1 nước thiếu lương thực triền miên, nay không
những đủ ăn mà còn trở thành 1 nước xuất khẩu gạo với số lượng lớn, đứng hàng thứ 3 về
xuất khẩu gạo trên TG.
+ Lạm phát trước đây ở mức rất cảo, nay đã khống chế được.
+ Nền kt hàng nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đã được hình thành, có
tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ cả sx và phân phối, lưu thông;
+ Đời sống vật chất và văn hóa của đông đảo nhân dân có nhiều thay đổi lớn. Sự phát triển
của xây dựng có những tiến bộ rõ rệt. . .
+ Kt đối ngoại đã có những tiến bộ đáng kể. Tuy nước ta vẫn bị đế quốc mỹ áp đặt chính
sách cấm vận và bao vây kt, nhưng do chính sách kt quốc tế thông thoáng: "đa phương
hóa", "đa dạng hóa" các quan hệ đối ngoại, nên đã thu hút được nhiều tổ chức kt của các
10
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
nước đến đầu tư...
+ Văn hóa, giáo dục, y tế...cũng có những bước phát triển nhanh. Nhưng, quan hệ xh, trật
tự kỷ cương xh và lối sống có nhiều diễn biến phức tạp. Tiêu cực xh và tệ nạn xh có chiều
hướng gia tăng và nẩy sinh nhiều vấn đề bức xúc.
Thì Đại hội 7 diễn ra từ ngày 27-6-1991 tại Hà nội với những nội dung cơ bản là: kiểm
điểm, tổng kết tình hình 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội đảng lần thứ VI, đánh giá
thành tựu, tồn tại, rút ra các bài học kinh nghiệm lớn. Thông qua "cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN " và chiến lược ổn định và phát triển kt-xh đến
năm 2000.
+ Về kiểm điểm đánh giá tình hình, đại hội khẳng định: công cuộc đổi mới đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng. Nền kt đã có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành
nền kt hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước...Tình hình chính trị của đất nước giữ được ổn định, sinh hoạt dân chủ trong xh ngày
càng phát huy...
+ Đại hội cũng nhận định là: thành tự đổi mới tuy đã đạt nhiều thành tựu quan trọng nhưng
còn nhiều hạn chế. Nước ta còn nhiều yếu kém, vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kt-xh. Còn
nhiều vấn đề kt, xh nóng bỏng chưa được giải quyết. Nước ta cũng còn đang đứng trước
những khó khăn khách quan như vẫn còn bị đế quốc mỹ và các thế lực thù địch bao vây,
cấm vận. Hệ thống XHCN thế giới đang khủng hoảng sâu sắc và đang đứng trước những
thử thách quyết liệt.
+ Đại hội chủ trương đẩy mạnh công cuộc đổi mới và xác định:
Mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kt,
xh; tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xh; đưa nước ta cơ bản ra
khỏi tình trạng khủng hoảng kt-xh hiện nay.
+ Đại hội đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH là:
Cương lĩnh đã trình bày tổng quát quá trình cách mạng VN từ khi đảng ra đời đến nay, nêu
lên các bài học kinh nghiệm lớn và chỉ rõ bước quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Đặc biệt
cương lĩnh đã nêu lên quan niệm của đảng về CNXH: vận dụng các quy luật chung về xây
dựng xã hội chủ nghĩa đã nêu trong lý luận CN Mac-Lenin, tham khảo các mô hình XHCN
đã được xây dựng ở Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN trên thế giới, và cũng từ
thực tiễn xây dựng XHCN ở nước ta.
Đại hội VII có ý nghĩa lịch sử rất to lớn,đi vào lịch sử của 1 đại hội trí tuệ, đổi mới dân
chủ, kỷ cường và đoàn kết. Thể hiện tính kiên định cách mạng, tinh thần độc lập tự
chủ,tính sáng tạo của đảng và nhân dân ta trong việc tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận,
xây dựng con đường đi lên CNXH của nước ta trong điều kiện lịch sử mới. Việc đại hội
thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã tạo
cơ sở chính trị và tư tưởng cho toàn đảng, toàn dân thống nhất ý chí hành động để tiếp tục
đi theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đại hội VII đã giúp nhân dân ta có
thêm sức mạnh và niềm tin để vượt qua những thử thách vô cùng to lớn: sau khi Liên Xô
sụp đổ, hệ thống XHCN ở Đông Âu tan vỡ nhưng xã hội chủ nghĩa VN vẫn đứng vững và
tiếp tục giành được nhiều thắng lợi. Từ sau Đại hội VII, đường lối đổi mới của Đảng được
phát triển toàn diện, đồng bộ hơn và ngày càng khẳng định trong thực tế góp phần đưa đất
nước vượt qua khủng hoảng kinh tế-xã hội, ổn định chính trị trên con đường đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương từ sau Đại hội VII đến
11
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trước Đại hội VIII, theo thời gian: 27-6-1991; từ 21- 11 đến 4-12-1991; 18 đến 29-6-1992;
10 đến 14-1-1993; 3 đến 10-6-1993; 24-11 đến 1-12-1993; từ 17 đến 18-1-1994; từ 20 đến
25-1-1994 (Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ tổng kết những thực tiễn của đổi
mới từ Đại hội VI, khẳng định kiên trì đổi mới đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội...giữ
vững ổn định chính trị. Hội nghị này đã bổ sung 20 ủy viên Trung ương Đảng); 25 đến 30-
7-1994; 16 đến 23-1-1995; 6 đến 14-11-1995.
Tiếp tục đường lối trên đất nước ta đã trải qua việc thực hiện công cuộc đổi mới hơn 10
năm và đạt được những thắng lợi to lớn, được nhân dân ủng hộ đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ 8 diễn ra từ ngày 28/06 – 01/07/1996 tại Hà Nội nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi
mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng đã
tổng kết đánh giá và kiểm điểm 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của đại hội 6 và 5
năm thực hiện nghị quyết đại hội 7, đề ra nhiệm vụ, chủ trương nhằm thừa kế, phát huy
những thành tựu và ưu điểm đã đạt được; tiếp tục điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối
đổi mới để đưa sự nghiệp đất nước tiến lên.
Xuất phát từ đặc điểm tình hình đất nước và nhận định Việt Nam đã thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội cũng như căn cứ vào cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH, đại hội khẳng định tiếp tục nắm vững 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và
bảo vệ Tổ Quốc XHCN, nhấn mạnh đất nước đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đề ra và thực hiện kế hoạch 5 năm
1996 – 2000 với mục tiêu: đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát triển toàn diện đồng bộ; phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và phấn đấu đạt, vượt mục tiêu tăng trưởng
kinh tế nhanh hiệu quả cao, bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc của xã
hội; cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Kế hoạch 5
năm do đại hội đề ra đã đạt được những thành tựu trên các lĩnh vực của sự nghiệp đổi mới:
- Phát triển kinh tế vẫn giữ vững được nhịp độ cao, những mục tiêu chủ yếu
của kế hoạch hoàn thành vượt mức. Tổng sản phẩm trong nước đã tăng
7%/năm, công nghiệp tăng 13.5%/năm. Cơ cấu kinh tế thay đổi, tỉ trọng
công nghiệp tăng 36.6% và tỉ trọng nông nghiệp giảm 24.3%.
- Kinh tế đối ngoại phát triển: xuất khẩu đạt tới 51.6 tỉ USD, nhập khẩu đạt 61
tỉ USD, có quan hệ buôn bán với hơn 140 nước, nhà nước mở rộng quyền
xuất nhập khẩu cho tư nhân. Vốn đầu tư nước ngoài tăng, đạt trên 40 tỉ USD
và đã bắt đầu đầu tư sang nước khác.
- Khoa học công nghệ, văn hóa xã hội phát triển, thu nhập quốc dân tăng và
giải quyết được nạn đói.
- Chính trị- xã hội, quốc phòng được củng cố, quan hệ đối ngoại được mở
rộng.
Đồng thời những kết quả với những ý nghĩa lớn lao như thế đất nước ta vẫn gặp phải
không ít hạn chế và khó khăn. Nền kinh tế Việt Nam còn chưa phát triển vững chắc, lạc
hậu, trình độ kém, thu nhập quốc dân và năng suất còn thấp, đời sống nhân dân còn nhiều
khó khăn, tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc cao. Xã hội nảy sinh những hiện tượng tiêu cực,
12
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
tham nhũng lãng phí, buôn lậu…Trình độ khoa học kỹ thuật kém không đáp ứng được nhu
cầu của đất nước, tình trạng “ chảy máu chất xám” nhiều.
Vì thế với những thách thức này việc nhanh chóng nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức,
phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng và nhân dân
ta. Đại hội 9 diễn ra tại Hà Nội từ ngày 19 đến 22/4/2001 đã xác định mô hình kinh tế tổng
quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Và cũng tại đại hội đã xác
định rõ ràng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “ một kiểu tổ chức kinh
tế vừa tuân theo quy luật kinh tế của thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi
phối bởi các nguyên tắc và bản chất chủ nghĩa xã hội”. Nói cách khác, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh nhằm mục đích là phát triển lực lượng sản xuất, phát
triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất
mới, tiên tiến. Đại hội chỉ rõ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và
bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị
trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để
kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân
dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn
lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn
liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng
kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực của đất nước. Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ
nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội
mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt
xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất
lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể
hiện tư duy, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Từ đó Đảng đã đề ra phương hướng là:
1 – Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan
13