Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

BÁO CÁO-Hoàn thiện Chuẩn mực và Chế độ kế toán Việt Nam hiện hành về kế toán chi phí dự phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.15 KB, 38 trang )

Đề án môn học
SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 0
Phần 1: Cơ sở lý luận về chi phí dự phòng và kế toán chi phí dự phòng 2
1.1.

Chi phí dự phòng
2
1.1.1.

Bản chất của chi phí dự phòng
2
1.1.2.Nội dung và phân loại chi phí dự phòng
3
1.2.

Kế toán chi phí dự phòng
7
1.2.1.

Khái quát kế toán chi phí dự phòng trên thế giới
7
1.2.2. Theo hệ thống kế toán Mỹ:
8
1.2.3. Theo hệ thống kế toán Pháp
11
Phần 2: Thực trạng Chuẩn mực và Chế độ kế toán Việt Nam hiện hành về kế
toán chi phí dự phòng 13
2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Chuẩn mực và Chế độ kế toán


Việt Nam về kế toán chi phí dự phòng.
13
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1997 – 2002
13
2.1.2. Giai đoạn từ năm 2002 – 2006
14
2.1.3. Giai đoạn từ năm 2006 - đến nay
15
2.2. Thực trạng Chuẩn mực và Chế độ kế toán Việt Nam hiện hành về kế toán chi
phí dự phòng.
17
2.2.1. Chuẩn mực kế toán Việt Nam
17
2.2.2. Chế độ kế toán Việt Nam
25
Phần 3: Hoàn thiện Chuẩn mực và Chế độ kế toán Việt Nam hiện hành về kế
toán chi phí dự phòng 31
3.1. Đánh giá thực trạng Chuẩn mực và Chế độ kế toán Việt Nam hiện hành về kế
toán chi phí dự phòng
31
3.1.1. Về Chuẩn mực kế toán Việt Nam
31
3.1.2. Về Chế độ kế toán Việt Nam
32
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Chuẩn mực và Chế độ kế toán Việt Nam hiện
hành về kế toán chi phí dự phòng.
33
3.2.1. Hoàn thiện Chuẩn mực kế toán Việt Nam về kế toán chi phí dự phòng.
33
3.2.2. Hoàn thiện Chế độ kế toán Việt Nam về kế toán chi phí dự phòng

33
KẾT LUẬN 36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 37
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

1
MỞ ĐẦU
Để công việc kinh doanh được ổn định và phát trển bền lâu thì doanh nghiệp
phải hạn chế những rủi ro và chủ động được về mặt tài chính. Do vậy, trong các
trường hợp xảy ra các rủi ro do các nguyên nhân khách quan như giảm giá vật tư, hàng
hoá, giảm giá các khoản vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán, thị trường vốn…hoặc
thất thu các khoản nợ phát sinh…;doanh nghiệp cần và được phép thực hiện chính
sách dự phòng giảm giá trị thu hồi của các tổn thất này.Tuy nhiên, việc lập dự phòng
là một trong những yếu tố không thể đo lường chính xác được, chứa đựng nhiều yếu tố
chủ quan, chi phí dự phòng lại ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí kinh doanh từ đó ảnh
hưởng đến kết quả kinh doanh, đến giá trị tài sản, các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính.
Vì thế mà nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng đặc điểm này để điều chỉnh kết quả kinh
doanh theo ý muốn của mình. Có thể tăng mức dự phòng để làm tăng chi phí, giảm lợi
nhuận và giảm thuế, hoặc cho kết quả lãi sai khi mà lãi đó đa số là do hoàn nhập dự
phòng, Như vậy, quản lý việc trích lậpvà kế toán chi phí dự phòng có vai trò quan
trọng không những cho bản thân doanh nghiệp mà còn cho cả những người quan tâm
đến thông tin kế toán , những nhà quản lý. Tuy nhiên, thực tế trong Chuẩn mực và chế
độ kế toán Việt Nam hiện hành quy định về phương pháp trích lập và kế toán các
khoản chi phí dự phòng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập và cần phải hoàn thiện. Nhận
thức được tầm quan trọng của việc kế toán chi phí dự phòng, em đã mạnh dạn chọn đề
tài: “Hoàn thiện Chuẩn mực và Chế độ kế toán Việt Nam hiện hành về kế toán chi phí
dự phòng”. Đề tài của em ngoài phần mở đầu,kết luận được chia thành 3 phần sau:
Phần 1: Cơ sở lý luận về chi phí dự phòng và kế toán chi phí dự phòng

Phần 2: Thực trạng Chuẩn mực và Chế độ kế toán Việt Nam hiện hành về kế
toán chi phí dự phòng
Phần 3: Hoàn thiện Chuẩn mực và Chế độ kế toán Việt Nam hiện hành về kế
toán chi phí dự phòng
Do thời gian nghiên cứu có hạn, hiểu biết chưa được sâu sắc, bài viết của em
còn nhiều thiếu sót và hạn chế, mong các thày cô và các bạn góp ý kiến để em có thể
hoàn thành tốt hơn trong những lần nghiên cứu tiếp theo.
Em xin chân thành cảm ơn !
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

2
Phần 1: Cơ sở lý luận về chi phí dự phòng và kế toán chi phí dự phòng
1.1. Chi phí dự phòng
1.1.1. Bản chất của chi phí dự phòng
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để hạn chế bớt các thiệt hại và
chủ động hơn về tài chính trong các trường hợp xảy ra rủi ro, tổn thất đối với tài sản và
các chi phí phát sinh trong tương lai, doanh nghiệp cần và được phép ghi giảm giá trị
thu hồi của tài sản trong kinh doanh, và việc làm này gọi là lập dự phòng, vậy dự
phòng là gì?
Theo từ điển thuật ngữ kiểm toán - kế toán đã định nghĩa dự phòng như sau: Dự
phòng (provision): là việc dự trữ một số lợi nhuận để thay thế các tài sản đã lỗi thời
hoặc để bù đắp lại những khoản nợ khó đòi hay không đòi được hoặc để ứng phó với
những trách nhiệm không thể xác định trước một cách chính xác.
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 18 “Các khoản dự phòng, tài sản và nợ
tiềm tàng” đã định nghĩa. Một khoản dự phòng là khoản nợ phải trả không chắc chắn
về giá trị hoặc thời gian.
Như vậy, dự phòng là sự xác nhận về phương diện kế toán một khoản giảm giá
trị tài sản hay lợi ích kinh tế của doanh nghiệp do những nguyên nhân mà hậu quả của

chúng chưa thực sự chắc chắn.
Từ các khái niệm trên ta thấy, bản chất của chi phí dự phòng: là việc ghi nhận
trước một khoản chi phí thực tế chưa thực chi vào chi phí kinh doanh, chi phí đầu tư
tài chính của niên độ báo cáo để có nguồn tài chính cần thiết bù đắp những thiệt hại có
thể sẽ xảy ra trong niên độ liền sau. Dự phòng làm tăng tổng số chi phí, do vậy nó
đồng nghĩa với sự tạm thời giảm thu nhập niên độ báo cáo – niên độ lập dự phòng
Việc trích lập và ghi nhận chi phí dự phòng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí
kinh doanh trong kỳ từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh, đến giá trị tài sản, các
chỉ tiêu trên báo cáo tài chính. Hơn nữa dự phòng là sự xác nhận về phương diện kế
toán nên không thể đo lường chính xác được, chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan. Do đó,
việc trích lập và ghi nhận các khoản dự phòng cần phải tuân thủ theo đúng quy định đã
đề ra, đảm bảo cung cấp thông tin chính xác nhất cho những người quan tâm.
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

3
1.1.2.Nội dung và phân loại chi phí dự phòng
Căn cứ vào nội dung, đối tượng, điều kiện trích lập và mức trích lập các khoản
dự phòng thì dự phòng được chia thành các loại sau:
 Dự phòng giảm giá hàng tồn kho
 Dự phòng tổn thất các khoản đầu tư tài chính
 Dự phòng nợ phải thu khó đòi
 Dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp
 Dự phòng trợ cấp mất việc làm
 Dự phòng nợ phải trả
Các loại dự phòng trên đều được trích lập và hoàn nhập vào thời điểm cuối niên
độ kế toán, trước khi lập báo cáo tài chính. Đối với doanh nghiệp có lập báo cáo tài
chính giữa niên độ, nếu có biên độ lớn về dự phòng, doanh nghiệp có thể điều chỉnh số
dự phòng từng loại vào cuối kỳ kế toán giữa niên độ (kế toán quý). Việc lập dự phòng

phải lập riêng cho từng loại hàng tồn kho, từng khoản đầu tư tài chính bị tổn thất, từng
khoản nợ khó đòi. Sau đó, kế toán phải tổng hợp toàn bộ các khoản dự phòng vào bảng
kê chi tiết dự phòng từng loại. Từ đó, tiến hành đối chiếu, so sánh với số dự phòng
trích lập cuối kỳ kế toán trước còn lại chưa sử dụng hết để xác định số dự phòng phải
trích lập bổ sung hay hoàn nhập. Doanh nghiệp phải lập hội đồng để thẩm định mức
trích lập các khoản dự phòng và xử lý tổn thất. Hội đồng bao gồm: giám đốc, kế toán
trưởng, các trưởng phòng có liên quan và chuyên gia (nếu có). Riêng việc trích lập dự
phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp thì thực hiện theo hợp đồng
hoặc cam kết với khách hàng. Sau đây là nội dung các khoản dự phòng:
• Dự phòng giảm giá hàng tồn kho
Dự phòng giảm giá hàng tồn kho là dự phòng phần giá trị bị tổn thất do giá vật tư,
thành phẩm, hàng hoá tồn kho bị giảm. Việc lập dự phòng này nhằm mục đích đề
phòng các tài sản này bị giảm giá so với giá gốc trên sổ đặc biệt khi chuyển nhượng,
cho vay, xử lý, thanh lý tài sản và giúp cho doanh nghiệp xác định được giá trị thực
của tài sản đồng thời chủ động hơn về mặt tài chính khi những tổn thất này thực sự xảy
ra.
Việc lập dự phòng phải tiến hành cho từng loại tài sản bao gồm nguyên vật liệu,
dụng cụ dùng cho sản xuất; vật tư, hàng hoá, thành phẩm tồn kho (gồm cả hàng tồn
kho bị hư hỏng, kém mất phẩm chất, lạc hậu mốt, lạc hậu kỹ thuật, lỗi thời, ứ đọng,
chậm luân chuyển) mà giá gốc ghi trên sổ kế toán cao hơn giá trị thuần có thể thực
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

4
hiện được và phải đảm bảo các điều kiện: Có hoá đơn, chứng từ hợp pháp theo quy
định của Bộ tài chính hoặc các bằng chứng khác chứng minh giá vốn hàng tồn kho; là
những vật tư hàng hoá thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp tồn kho tại thời điểm lập
báo cáo tài chính
Tuy nhiên với trường hợp nguyên vật liệu có giá trị thuần có thể thực hiện được

thấp hơn so với giá gốc nhưng giá bán sản phẩm, dịch vụ được sản xuất từ nguyên vật
liệu này không bị giảm giá thì không được trích lập dự phòng giảm giá nguyên vật liệu
tồn kho đó. Mức trích lập dự phòng được tính theo công thức sau:
Mức dự Lượng vật tư, Giá gốc giá trị
phòng hàng hoá thực tế hàng tồn thuần cóthể
giảm giá = tồn kho tại thời × kho theo - thực hiện
vật tư, điểm lập báo cáo sổ kế được của
hàng hoá tài chính toán hàng tồn kho
Trong công thức trên giá gốc hàng tồn kho bao gồm giá mua, các loại thuế
không được hoàn lại, chi phí vận chuyển, bốc vác trong quá trình mua hàng và các chi
phí khác có liên quan trực tiếp đến việc mua hàng tồn kho. Còn giá trị thuần có thể
thực hiện được của hàng tồn kho (giá trị dự kiến thu hồi) là giá bán ước tính của hàng
tồn kho trừ chi phí để hoàn thành sản phẩm và chi phí tiêu thụ (ước tính). Tuy nhiên,
đối với vật tư, hàng hóa đã trích lập dự phòng nhưng còn tồn đọng do hết hạn sử dụng,
mất phẩm chất, dịch bệnh, hư hỏng, không còn giá trị sử dụng như: dược phẩm, thực
phẩm, con giống, vật nuôi,…thì doanh nghiệp phải lập hội đồng để xử lý tài sản này,
và căn cứ vào biên bản xử lý, doanh nghiệp có thể hủy bỏ sau khi đã bù đắp bằng
nguồn dự phòng đã trích, nếu còn thiếu thì đưa vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
• Dự phòng tổn thất các khoản đầu tư tài chính
Dự phòng tổn thất các khoản đẩu tư tài chính là dự phòng phần giá trị bị tổn
thất do các loại chứng khoán đầu tư của doanh nghiệp bị giảm giá và giá trị các khoản
đầu tư tài chính bị tổn thất do tổ chức kinh tế mà doanh nghiệp đang đầu tư bị lỗ. Việc
lập dự phòng này nhằm mục đích đề phòng về tài chính cho trường hợp chứng khoán
đang đầu tư có thể bị giảm giá khi thu hồi, chuyển nhượng, bán; giá trị các khoản đầu
tư tài chính bị tổn thất do tổ chức kinh tế mà doanh nghiệp đang đầu tư bị lỗ để xác
định giá trị thực tế của các khoản đầu tư tài chính khi lập báo cáo “Bảng cân đối kế
toán”.
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C


5
Lập dự phòng phải tiến hành lập cho từng loại chứng khoán, các chứng khoán
này phải có đủ điều kiện quy định như: cổ phiếu, trái phiếu công ty … được doanh
nghiệp đầu tư theo đúng quy định của pháp luật; được tự do mua bán trên thị trường
mà tại thời điểm kiểm kê, lập báo cáo tài chính có giá trị thị trường giảm so với giá
đang hạch toán trên sổ kế toán. Mức trích lập dự phòng cho năm tiếp theo được xác
định theo công thức sau:
Mức dự phòng Số lượng chứng khoán giá chứng khoán giá chứng
giảm giá đầu tư = bị giảm giá tại thời điểm × hạch toán trên - khoán thực tế
chứng khoán lập báo cáo tài chính sổ kế toán trên thị trường
Còn đối với các khoản đầu tư tài chính dài hạn, cần phải lập dự phòng khi các
khoản đầu tư của doanh nghiệp vào các tổ chức kinh tế khác và tổ chức kinh tế này
đang bị lỗ (trừ trường hợp lỗ theo kế hoạch đã xác định trong phương án kinh doanh
trước khi đầu tư). Mức trích tối đa cho mỗi khoản đầu tư tài chính dài hạn bằng số vốn
đã đầu tư và tính theo công thức sau:
Mức dự tổng vốn vốn vốn đầu tư
phòng tổn góp thực tế chủ của doanh nghiệp
thất các = của các bên - sở ×
khoản tại tổ chức hữu tổng vốn góp thực
đầu tư nhận vốn thực tế của các bên tại
tài chính có tổ chức nhận vốn

Trong công thức trên, vốn góp thực tế của các bên tại tổ chức kinh tế được
xác định trên Bảng cân đối kế toán của tổ chức kinh tế năm trước thời điểm trích lập
dự phòng (mã số 411 và 412 Bảng cân đối kế toán-mẫu B01-DN/HN). Còn vốn chủ sở
hữu thực có được xác định tại Bảng cân đối kế toán của tổ chức kinh tế năm trước thời
điểm trích lập dự phòng (mã số 410 Bảng cân đối kế toán- mẫu B01-DN/HN).
• Dự phòng phải thu khó đòi.
Dự phòng phải thu khó đòi là dự phòng phần giá trị bị tổn thất của các khoản

nợ phải thu quá hạn thanh toán. Nợ phải thu chưa quá hạn nhưng có thể không đòi
được do khách nợ không có khả năng thanh toán. Việc lập dự phòng nhằm mục đích
đề phòng nợ phải thu thất thu khi khách hàng không có khả năng trả nợ; xác định giá
trị thực của một khoản tiền nợ phải thu trên lập các báo cáo tài chính năm báo cáo. Các
khoản nợ được lập dự phòng khi có đủ điều kiện: Khoản nợ phải có chứng từ gốc, có
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

6
đối chiếu xác nhận của khách nợ về số tiền còn nợ, bao gồm: hợp đồng kinh tế, khế
ước vay nợ, bản thanh lý hợp đồng, cam kết nợ, đối chiếu công nợ và các chứng từ
khác. Các khoản không đủ căn cứ xác định là nợ phải thu theo quy định này phải xử lý
như một khoản tổn thất. Đối với các khoản nợ phải thu chưa đến thời hạn thanh toán
nhưng tổ chức kinh tế đã lâm vào tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể,
người mất tích, bỏ trốn, đang bị các cơ quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử, đang
thi hành án hoặc đã chết. Các khoản dự phòng này được trích lập phụ thuộc vào mức
dự kiến của doanh nghiệp. Có hai các để xác định mức dự phòng như sau:
Cách 1: Có thể ước tính một tỷ lệ nhất định (theo kinh nghiệm) trên tổng
doanh số thực hiện bán chịu: Số dự phòng phải lập = Doanh số phải thu * tỉ lệ ước tính
Cách 2: Dựa trên tài liệu hạch toán chi tiết các khoản nợ phải thu của từng
khách hàng, phân loại theo thời hạn thu nợ, các khách hàng quá hạn được xếp loại
khách hàng khó đòi, nghi ngờ. Doanh nghiệp cần thông báo cho khách hàng và trên cơ
sở thông tin phản hồi từ khách hàng, kể cả bằng phương pháp xác minh, để xác định số
dự phòng cần lập theo số % có khả năng mất (thu):
Dự phòng phải thu = Nợ phải thu × số % có
khó đòi cần lập khó đòi khả năng mất
Cụ thể: + 30% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 3 tháng đến dưới 1 năm
+ 50% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 2 năm
+70% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 2 năm đến dưới 3 năm

Những khoản nợ mà quá 3 năm trở lên thì được coi như một khoản nợ không
có khả năng thu hồi.
Đối với nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán nhưng tổ chức kinh tế đã lâm
vào tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể; người nợ mất tích, bỏ trốn, đang
bị các cơ quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử hoặc đang thi hành án … thì doanh
nghiệp dự kiến mức tổn thất không thu hồi được để trích lập dự phòng.
• Dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp:
Đây là dự phòng chi phí cho những sản phẩm, hàng hoá,công trình xây lắp đã
bán, đã bàn giao cho người mua nhưng doanh nghiệp vẫn có nghĩa vụ phải tiếp tục sửa
chữa, hoàn thiện theo hợp đồng hoặc cam kết với khách hàng. Doanh nghiệp dự kiến
mức tổn thất trích bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp đã tiêu thụ trong
năm với tổng mức trích lập dự phòng bảo hành theo quy định đã cam kết với khách
hàng nhưng tối đa không vượt quá 5% tổng doanh thu tiêu thụ của các sản phẩm, hàng
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

7
hoá. Tại thời điểm trích lập, cần so sánh số thực chi bảo hành với số đã trích lập để xác
định có phải lập bổ sung, hoàn nhập hay không phải trích lập. Tuy nhiên, nếu hết thời
hạn bảo hành mà không phải chi bảo hành hoặc không sử dụng hết số tiền bảo hành đã
trích lập thì doanh nghiệp được hoàn nhập số dư còn lại vào thu nhập của kỳ kinh
doanh.
• Dự phòng trợ cấp mất việc làm:
Dự phòng trợ cấp mất việc làm là khoản dự phòng của doanh nghiệp dùng để
chi trả cho người lao động trong các trường hợp: thôi việc, mất việc làm, đào tạo tay
nghề,… Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm được trích vào thời điểm khóa sổ kế toán
với mức trích từ 1% - 3% trên quỹ lương làm cơ sở đóng Bảo Hiểm Xã Hội của doanh
nghiệp. Mức trích cụ thể do doanh nghiệp tự quyết định và tuỳ thuộc vào khả năng tài
chính của doanh nghiệp, và trong năm nếu không chi hết sẽ được chuyển sang năm

sau, ngược lại nếu chi vượt thì được trích bổ sung.
• Dự phòng nợ phải trả:
Dự phòng phải trả là khoản dự phòng mà doanh nghiệp lập ra để bảo đảm bù
đắp cho các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp một khi doanh nghiệp có nghĩa vụ nợ
hiện tại (nghĩa vụ pháp lỳ hoặc nghĩa vụ liên đới) do kết quả từ một sự kiện đã xảy ra
hoặc do sự giảm sút về những lợi ích kinh tế có thể xảy ra dẫn đến việc phải thanh toán
nghĩa vụ nợ.(sau khi Chuẩn mực kế toán số 18 được ban hành thì các khoản trong “dự
phòng phải trả” được ghi nhận là một khoản dự phòng nên phần này tôi xin được trình
bày trong phần sau, phần 2.2.1 về Chuẩn mực kế toán Việt Nam).
1.2. Kế toán chi phí dự phòng
1.2.1. Khái quát kế toán chi phí dự phòng trên thế giới
Kế toán được coi là một công cụ trợ giúp trong việc phản ánh và quan lý trên góc độ
tài chính các hoạt động kinh tế. Hệ thống kinh tế và các điều kiện thương mại khác
nhau từ nước này sang nước khác thì các mô hình và phương pháp kế toán, các quy
định và thực hành kế toán cũng khác nhau. Tính đa dạng về kế toán sẽ là một trở ngại
khi nền kinh tế đang có xu hướng toàn cầu hóa. Điều này đã thúc đẩy sự thay đổi và
hình thành chuẩn mực kế toán quốc tế. Và dự phòng cũng không ngoại lệ. Năm 1998,
ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) đã công bố chuẩn mực số 37 (IAS 37) “dự
phòng, tài sản và công nợ ngoài dự kiến” nhắm đảm bảo các tiêu chuẩn nhận biết thích
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

8
hợp và các cơ sở phản ánh được áp dụng cho các khoản dự phòng và các tài sản, công
nợ ngoài dự kiến.
Chuẩn mực cũng quy định các thông tin được đưa ra trong ghi chú của các báo cáo tài
chính để người sử dụng có thể hiểu bản chất, thời gian và giá trị của chúng. Đây là
chuẩn mực chung, quy định những yêu cầu chung nhất. Các quốc gia sẽ vận dụng
chuẩn mực này để vận dụng vào thực hành kế toán, có thể xây dựng riêng một chuẩn

mực hoặc gắn kết vào cùng chuẩn mực khác, cũng có thể được áp dụng hoàn toàn
(Nam Phi, Thụy Sỹ, ), có thể vận dụng có chọn lọc (Pháp, Anh,…) hoặc có thể là
không vận dụng (Mỹ, Thái Lan,…). Dưới đây là hai mô hình về kế toán chi phí dự
phòng của Mỹ và của Pháp.
1.2.2. Theo hệ thống kế toán Mỹ:
• Đánh giá hàng tồn kho cuối niên độ kế toán
Phương pháp đánh giá hàng tồn kho vào cuối niên độ kế toán của Mỹ là đánh
giá hàng tồn kho theo mức giá thấp hơn giữa giá vốn và giá thị trường (Valuing the
Inventory at the Lower of Cost or Market – LMC). Khi vận dụng phương pháp này
thì, giá thị trường thường có nghĩa là trị giá vốn của hàng hoá thay thế. Điều này có
nghĩa là giá mà công ty sẽ phải trả nếu công ty mua hàng hoá mới để thay thế số hàng
hoá tồn kho. Mô hình này có thể được tiến hành một trong hai phương án: LCM áp
dụng cho từng loại hàng tồn kho: Theo phương pháp này thì mức giá thấp hơn được
xác định trên cơ sở so sánh giữa giá vốn và giá thị trường của từng mặt hàng. Hiện
nay, chế độ kế toán Việt Nam đang sử dụng phương pháp này. Hoặc LCM áp dụng
cho từng nhóm hàng tồn kho: theo phương pháp này mức giá thấp hơn được xác định
trên cơ sở so sánh giữa giá vốn và giá thị trường của từng nhóm hàng. Như vậy, 2
phương pháp đánh giá hàng tồn kho cuối niên độ kế toán khác nhau sẽ cho kết quả
khác nhau, doanh nghiệp có thể vận dụng một trong 2 phương pháp trên. Ở Việt Nam,
trong chế độ kế toán việc đánh giá hàng tồn kho cuối niên độ kế toán áp dụng phương
pháp 1, tức là đánh giá theo từng loại vật tư, hàng hoá, sản phẩm tồn kho. Nhưng theo
cá nhân tôi, tôi cho rằng, chúng ta cũng nên cho phép áp dụng cả hai phương pháp
trên. Việc áp dụng phương pháp nào là do doanh nghiệp lựa chọn. Vì nếu đánh giá
theo từng loại hàng tồn kho đối với doanh nghiệp có danh mục hàng tồn kho ít, giá cả
thị trường tương đối ổn định thì không sao nhưng với những ngành, những doanh
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

9

nghiệp có nhiều danh mục hàng tồn kho, những hàng này lại nhỏ lẻ, có nhiều đặc điểm
giống nhau, mà lại đánh giá theo từng mặt hàng thì khối lượng công việc sẽ rất lớn và
thậm chí không hiệu quả ví dụ như ngành may mặc,ngành dệt,…
Phương pháp sử dụng mô hình LMC cũng được sử dụng để đánh giá các
khoản đầu tư tài chính ngắn hạn của công ty cho các loại chứng khoán thị trường. Tuy
nhiên, trong trường hợp đó chỉ có một cách tính được phép sử dụng. Đó là so sánh
tổng trị giá vốn và tổng giá thị trường của toàn bộ tập hợp chứng khoán đầu tư được
với nhau để xác định mức thấp nhất của trị giá vốn hay giá thị trường. Điều này khác
với chế độ kế toán Việt Nam, đó là theo chế độ kế toán Việt Nam, doanh nghiệp phải
lập dự phòng cho từng loại chứng khoán bị giảm giá và được tổng hợp vào bảng kê chi
tiết dự phòng giảm giá chứng khoán để so sánh với số đã lập cuối năm trước chưa sử
dụng hết để xác định số phải lập thêm hoặc hoàn nhập. Tuy nhiên khi vận dụng mô
hình LCM cần lưu ý một số trường hợp ngoại lệ: giá trị hàng tồn kho không được đánh
giá cao hơn giá trị thuần có thể thực hiện được. Giá trị thuần có thể thực hiện được là
phần lợi ích chắc chắn có được và được xác định bằng giá bán ước tính trừ đi chi phí
bán ước tính; Hàng tồn kho không được đánh giá thấp hơn giá trị thuần có thể thực
hiện được trừ đi số dư lợi nhuận thông thường.
• Nợ khó đòi
Khi doanh nghiệp áp dụng chính sách bán hàng tín dụng nhằm mục đích tăng
doanh thu và lợi nhuận thì doanh nghiệp cũng phải chấp nhận một rủi ro nhất định đối
với các khoản phải thu khách hàng.Thường thì khách hàng thanh toán tiền hàng đầy đủ
nhưng vẫn có các trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán vì những lý
do khách quan và chủ quan khác nhau. Do đó, sẽ có một số khoản nợ doanh nghiệp
khó có thể thu hồi được, những khoản nợ này được gọi là nợ khó đò. Để ghi nhận
khoản nợ phải thu khó đòi, thường có 2 phương pháp là phương pháp trực tiếp và
phương pháp ước tính (phân bổ).
Với phương pháp trực tiếp đó là đến cuối kỳ kế toán mới xem xét khoản nợ phải
thu nào không được thanh toán để ghi nhận khoản nợ khó đòi. Phương pháp này cực
kỳ đơn giản, ít tốn kém khi sử dụng. Hơn nữa không có sự sai sót trọng yếu trong sự
đo lường thu nhập xảy ra nếu khoản nợ khó đòi là nhỏ và tương tụ từ một đến hai năm.

Tuy nhiên phương pháp này bị chỉ trích một cách mạnh mẽ vì vi phạm nguyên tắc phù
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

10
hợp trong kế toán dự thu dự chi (dồn tích). Nguyên tắc phù hợp đòi hỏi việc ghi nhận
vào chi phí các khoản nợ phải thu khó đòi như khoản lỗ vào thời điểm doanh thu được
ghi nhận.Như vậy, áp dụng phương pháp trực tiếp sẽ tạo ra 2 sai sót: Thu nhập của
năm trước bị phóng đại lên vì khoản nợ phải thu khó đòi của năm đó được ghi nhận
vào năm sau liền kề và thu nhập của năm sau giảm. Phần lớn kế toán không sử dụng
phương pháp trực tiếp bởi vì nó vi phạm nguyên tắc phù hợp trong kế toán. Mà thông
thường kế toán sử dụng phương pháp sau đó là phương pháp ước tính (phân bổ). Ở
Việt Nam từ trước năm 2006 khi chưa có sự ra đời của Chuẩn mực kế toán số 18 và
thông tư 13/2006 của Bộ Tài Chính thì việc trích lập dự phòng các khoản phải thu khó
đòi theo phương pháp trực tiếp được quy định trong thông tư 107/2001của Bộ Tài Chính.
Với phương pháp ước tính (phân bổ): Để có thể ước tính được các khoản nợ khó
đòi, doanh nghiệp phải dựa trên số liệu chi tiết cáckhoản phải thu khách hàng, thời
gian tín dụng và tình hình tài chính của từng khách hàng cụ thể. Ngoài ra doanh nghiệp
còn phải căn cứ vào tình hình thanh toán kỳ trước để ước tính mức nợ khó đòi hợp lý.
Theo phương pháp này, có 2 cách để ước tính chi phí nợ khó đòi, đó là ước tính dựa
vào báo cáo thu nhập và dự vào bảng cân đối kế toán. Phương pháp ước tính nợ khó
đòi dựa vào Báo cáo thu nhập là dựa trên quan điểm cho rằng trong kỳ sẽ có một tỷ lệ
nhất định doanh thu bán chịu không thu được tiền và số nợ khó đòi được ước tính dựa
trên tỷ lệ nợ khó đòi trên doanh thu bán chịu của các kỳ trước. Còn phương pháp ước
tính nợ khó đòi dựa vào Bảng cân đối kế toán là dựa trên quan điểm cho rằng một
phần của các khoản phải thu vào ngày lập Bảng cân đối kế toán sẽ trở thành nợ khó
đòi. Theo phương pháp này có hai cách ước tính. Một là, doanh nghiệp ước tính có
một tỷ lệ nhất định các khoản phải thu hiện có vào thời điểm cuối kỳ sẽ trở thành nợ
khó đòi. Tỷ lệ ước tính này dựa trên kinh nghiệm của những năm trước và kinh

nghiệm của các doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực. Hai là, theo dõi chi tiết
thời gian nợ của từng khách nợ hàng qua đó xây dựng tỷ lệ nợ khó đòi cho từng
khoảng thời gian cụ thể. Nguyên tắc chung của phương pháp này là thời gian nợ quá
dài càng lớn thì tỷ lệ nợ khó đòi càng cao. Với phương pháp này, các nhà quản lý phải
tính thời hạn của các khoản phải thu vào cuối mỗi kỳ, xem xét từng khoản phải thu và
xếp loại theo tiêu thức độ dài thời gian mà chúng tồn tại, sau đó dựa trên kinh nghiệm
để ước tính tỷ lệ mỗi loại có thể trở thành khoản khó đòi. Điều này có thể thực hiện
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

11
bằng cách lập bảng theo dõi nợ theo thời gian như chia các khoản nợ thành các tuổi
nợ: chưa đến tuổi trưởng thành (nợ chưa đến hạn); nợ quá hạn (chia theo ngày 1-30
ngày, 31-60 ngày, 61-90 ngày, trên 91 ngày) để xác định tỷ lệ dự phòng.
Như vậy, cả hai phương pháp ước tính nợ khó đòi dựa vào Báo cáo thu nhập
và dựa vào Bảng cân đối kế toán đều dựa vào kinh nghiệm để ước tính chi phí nợ khó
đòi vì vậy kết quả thu được thường thiếu chính xác. Phương pháp theo thời gian nợ
của từng khách hàng cũng là một phương pháp ước tính do đó kết quả thu được cũng
không phải là kết quả chính xác nhưng so với các phương pháp khác thì đây là phương
pháp mang lại kết quả có độ tin cậy cao nhất
1.2.3. Theo hệ thống kế toán Pháp
Theo hệ thống kế toán Pháp thì, dự phòng là phương pháp kế toán dùng để
đánh giá sự giảm giá của tài sản có thể xảy ra do các nguyên nhân mà hậu quả không
chắc chắn. Dự phòng gồm các loại: dự phòng giảm giá bất động sản vô hình và hữu
hình, dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng giảm giá các tài khoản khách hàng,
dự phòng giảm giá chứng khoán, dự phòng rủi ro và tổn phí.
Nhìn chung,việc lập dự phòng tại Pháp và Việt Nam tương đối giống nhau về
mục đích, thời điểm lập dự phòng,…nhưng bên cạnh đó cũng có những điểm khác
biệt. Tại Việt Nam có một số khoản không được lập dự phòng như các bất động sản vô

hình và hữu hình,dự phòng rủi ro và tổn phí về tiền phạt, kiện tụng,…Nhưng với kế
toán Pháp vẫn lập dự phòng thậm chí cho vào hẳn một tài khoản riêng như: TK 151 -
Dự phòng rủi ro và các tài khoản chi phí đặc biệt (TK687) và thu nhập đặc biệt (TK
787) để phản ánh việc trích lập và hoàn nhập loại dự phòng này.
• Dự phòng giảm giá bất động sản vô hình và hữu hình
Ở Việt Nam các bất động sản này chi được trích khấu hao mà không lập dự
phòng, nhưng ở Pháp có một số loại không phải trích khấu hao mà chỉ lập dự phòng
giảm giá như: đất đai (trừ đất đai có hầm mỏ), nhãn hiệu, phương thức sản xuất, quyền
thuê nhà,…và cũng có một số bất động sản khác, mặc dù đã trích khấu hao nhưng vẫn
phải lập dự phòng như: cửa hàng (lợi thế thương mại), các bất động sản đặc
nhượng,…Phương pháp kế toán thì cũng như các khoản dự phòng khác, trước khi lập
báo cáo tài chính của năm, tiến hành kiểm kê các loại bất động sản nếu thấy có khả
năng giảm giá (giá thực tế thị trường thấp hơn giá đang ghi sổ kế toán) thì cần lập dự
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

12
phòng. Khi lập các khoản dự phòng thì cho vào chi phí kinh doanh,còn khi hoàn nhập
thì đưa vào thu nhập kinh doanh.
• Dự phòng giảm giá hàng tồn kho và dự phòng giảm giá chứng khoán
Mục đích lập dự phòng, phương pháp lập và cách hạch toán tương tự như kế
toán dự phòng giảm giá hàng tồn khovà dự phòng giảm giá chứng khoán ở Việt Nam,
chỉ khác một điều đó là: theo kế toán Pháp, khi hoàn nhập dự phòng thì cho vào tài
khoản thu nhập còn ở Việt Nam thì ghi giảm chi phí với bút toán ngược lại.
• Dự phòng giảm giá tài khoản khách hàng
Nói chung việc lập dự phòng phải thu khó đòi tại Pháp và Việt Nam là tương
đối giống nhau, nhưng có một số điểm khác biệt. Với kế toán Pháp cũng như Việt
Nam, mức dự phòng cần lập bằng số nợ phải thu khó đòi nhân với số phần trăm (% )
có khả năng mất. Tuy nhiên, Pháp tính trên cơ sở số nợ phải thu ngoài thuế vì họ quan

niệm rằng: thuế giá trị gia tăng (VAT) của hàng mua – bán là VAT trả hộ, thu hộ Nhà
nước. Vì thế, phần VAT của khoản phải thu khó đòi bị mất sẽ do Nhà nước chịu, còn
Việt Nam lại tính trên số có thuế, tức là doanh nghiệp phải chịu thêm % trên số thuế bị
mất. Trong trường hợp này theo ý kiến cá nhân tôi, tôi cho rằng, ta nên sửa đổi như đối
với kế toán Pháp vì như vậy sẽ hợp lý hơn. (Tôi xin được trình bày phần này cụ thể
hơn trong phần 3 – Hoàn thiện Chuẩn mực và Chế độ kế toán Việt Nam hiện hành).
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

13
Phần 2: Thực trạng Chuẩn mực và Chế độ kế toán Việt Nam hiện hành về
kế toán chi phí dự phòng
2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Chuẩn mực và Chế độ kế toán
Việt Nam về kế toán chi phí dự phòng.
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1997 – 2002
Các khoản dự phòng lần đầu tiên được đề cập trong thực hành kế toán Việt
Nam vào năm 1997. Khi đó văn bản quy định về điều kiện trích lập và sử dụng các
khoản dự phòng là thông tư số 64/TC – TCDN “Hướng dẫn chế độ trích lập và sử
dụng dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng công nợ khó đòi, dự phòng giảm giá
chứng khoán tại doanh nghiệp nhà nước”. Thông tư đã trình bày khá rõ về bản chất các
khoản dự phòng tuy nhiên cũng còn nhiều điểm chưa thật sự hợplý.
- Về khái niệm và mục đích lập dự phòng:
Thông tư đưa ra chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động sản xuất kinh
doanh và các khoản dự phòng đề cập trong thông tư chỉ là các dự phòng tổn thất là dự
phòng phần giá trị dự kiến bị tổn thất sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh do giảm
giá tài sản có thể xảy ra trong năm kế hoạch.Các khoản dự phòng này được lập và
hoàn nhập tại thời điểm khoá sổ kế toán để lập báo cáo tài chính năm.
Tuy nhiên, thông tư mới chỉ đề cập đến 3 khoản dự phòng chính của dự phòng rủi ro
mà chưa đề cập đến một số dự phòng khác như: các khoản giảm giá đầu tư tài chính

dài hạn, bảo hành sản phẩm, hàng hoá, … và cũng có thể trong thời gian này chưa thấy
được những rủi ro do những khoản này gây ra. Mặt khác, thời điểm lập và hoàn nhập
dự phòng là năm tài chính theo dương lịch, nhưng nếu có những doanh nghiệp hoạt
động sản xuất không phải theo năm dương lịch thì hạch toán như thế nào? Trong thông
tư không đề cập đếnvấn đề này.
- Về trích lập và sử dụng các khoản dự phòng
Vì thông tư chỉ hướng dẫn việc trích lập và sử dụng 3 khoản dự phòng nên đối tượng
lập dự phòng chỉ bao gồm: vật tư hàng hoá, các chứng khoán do doanh nghiệp đầu tư
và các khoản nợ phải thu khó đòi. Điều kiện trích lập các khoản dự phòng là không
vượt qua số lợi nhuận phát sinh của doanh nghiệp (sau khi đã hoàn nhập các khoản dự
phòng trích trước), tức là không được làm cho doanh nghiệp bị thua lỗ và có các bằng
chứng hợp lý khác.
Về phương pháp lập dự phòng, công thức giống như những công thức được đề cập
trong phần 1.1.2 - Nội dung và phân loại chi phí dự phòng. Tuy nhiên, với dự phòng
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

14
giảm giá hàng tồn kho và dự phòng giảm giá chứng khoán thì chỉ lập dự phòng cho
những hàng hoá tồn kho và các loại chứng khoán tại thời điểm 31/12 năm báo cáo, giá
thực tế trên thị trường cũng là giá tại thời điểm này. Riêng đối với dự phòng các khoản
nợ phải thu khó đòi lạiđược xác định theo phương pháp trực tiếp,mức dự phòng tối đa
không vượt quá 20% tổng số dư nợ phải thu của doanh nghiệp tại thời điểm 31/12
hàng năm.
Khi xử lý các khoản dự phòng thì phải hoàn nhập tất cả các khoản dự phòng vào thu
nhập rồi mới xác định mức dự phòng mới. Chứ không phải xử lý bằng cách so sánh số
dự phòng đã trích và số dự phòng cần trích để đưa ra quyết định là không phải trích dự
phòng hay trích bổ sung hoặc là hoàn nhập dự phòng.
Tóm lại, giai đoạn này cũng đã hướng dẫn khá tỉ mỉ về điều kiện và mứctrích lập, sử

dụng các khoản dự phòng , tuy nhiên, thông tư chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà
nước, phạm vi áp dụng hạn hẹp, và còn nhiềuđiểm bất cập, hạn chế. Quy định về trích
lập dự phòng cần được sửa đổi, bổ sung trong những theo thời gian tiếp theo cho phù
hợp với sự đổi mới quy chế tài chính và kế toán.
2.1.2. Giai đoạn từ năm 2002 – 2006
Trong giai đoạn này, chưa có một Chuẩn mực riêng quy định về các khoản dự
phòng mà văn bản hướng dẫn vẫn là thông tư của BộTài Chính, đó là thông tư số
107/2001/TT – BTC “Hướng dẫn chế độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng
giảm giá hàng tồn kho, giảm giá chứng khoán đầu tư, dự phòng nợ khó đòi tại doanh
nghiệp”. Thông tư này đã kế thừa những ưu điểm của thông tư trong giai đoạn trước,
bện cạnh đó, cũng mở rộng thêm về phạm vi và đối tượng áp dụng, khắc phục một số
điểm không còn phù hợp.
-Về khái niệm và mục đích lập dự phòng
Cơ bản là giống như quy định trong thông tư năm 1997 nhưng cũng có một số điểm
mới đó là: Phạm vi áp dụng không chỉ giới hạn là các doanh nghiệp Nhà nước mà còn
có các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp năm 1999, các doanh nghiệp
liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hơn nữa thời điểm lập và hoàn nhập
dự phòng cũng đã được mở rộng phù hợp với thực tế đó là đối với các doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh áp dụng năm tài chính khác với năm dương lịch (bắt đầu từ ngày
1/1 và kết thúc 31/12 hàng năm) thì thời điểm lập dự phòng là ngày cuối cùng của năm
tài chính.
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

15
Trong giai đoạn này, thị trường chứng khoán vẫn là vấn đề mới, gần cuối năm 2000
trung tâm giao dich chứng khoán đầu tiên mới được thành lập nên số công ty niên yết
trên thị trường là ít do vậy mà thông tư không đưa ra các hướng dẫn về trích lập dự
phòng cho các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, phải trình báo cáo kế

toán hàng quý.
-Về trích lập và sử dụng các khoản dự phòng:
Phương pháp lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho và dự phòng giảm giá chứng khoán
thì được lập dự phòng cho tất cả hàng tồn kho và chứng khoán tại thời điểm lập báo
cáo tài chính có thể là tại ngày 31/12 hoặc là ngày khác đó là ngày cuối cùng của năm
tài chính đó nếu sử dụng năm tài chính không phải là năm dương lịch. Còn đối với dự
phòng các khoản phải thu khó đòi vẫn như thông tư số 64. Tức là trong giai đoạn này,
trích lập dự phòng các khoản nợ khó đòi vẫn theo phương pháp trực tiếp.Việc áp dụng
phương pháp này sẽ vi phạm nguyên tắc phù hợp trong kế toán.Hơn nữa, theo thông tư
107 thì tổng mức lập dự phòng các khoản nợ thu khó đòi tối đa bằng 20% tổng số dư
nợ phải thu của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo tài chính năm, việc quy định
này là vi phạm nguyên tắc thận trọng. Do đó không nên theo phương pháp này, mà nên
xây dựng phương pháp trích lập khác có hiệu quả hơn.
Xử lý các khoản dự phòng, kế toán không phải làm bút toán hoàn nhập tất cả rồi xác
định mức lập mới khác mà kế toán so sánh giữa mức lập dự phòng cũ và mức dự
phòng cần lập mới để để xem có phải lập bổ sung hay hoàn nhập dự phòng không.
Như vậy, mặc dù phạm vi áp dụng đã được mở rộng, quy định về điều kiện trích lập,
sử dụng các khoản dự phòng hợp lý hơn, chi tiết hơn.Tuy nhiên, thông tư vẫn còn
nhiều điểm còn chưa hợp lý, còn thiếu nhiều khoản chưa được quy định gây khó khăn
cho những người làm công tác kế toán và sử dụng thông tin và những người muốn
kiểm tra thông tin.Chúng ta cần phải đưa ra một thông tư hướng dẫn cụ thể hơn và hợp
lý hơn, đặc biệt nên có một chuẩn mực quy định thống nhất về cách hạch toán giúp
cho công tác kế toán được minh bạch hơn và thông tin được đưa ra đáng tin cậy hơn.
2.1.3. Giai đoạn từ năm 2006 - đến nay
Từ trước năm 2006, việc trích lập, sử dụng các khoản dự phòng và kế toán chi
phí dự phòng đều dựa vào thông tư hướng dẫn của Bộ tài chính do đó vẫn còn nhiều
vấn đề gây khó khăn cho người làm kế toán, cho doanh nghiệp và những người sử
dụng thông tin kế toán. Để khắc phục được những nhược điểm của các giai đoạn trước,
trong giai đoạn này đã có hẳn một chuẩn mực riêng quy định về các khoản dự phòng
Đề án môn học


SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

16
đó là Chuẩn mực số 18 “Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng”. Cùng với
chuẩn mực này Bộ tài chính cũng cho ra đời thông tư số 13/2006 và hướng dẫn chế độ
trích lập và sử dụng các khoản dự phòng. Như vậy, việc trích lập các khoản dự phòng
được quy định trong các thông tư của Bộ tài chính, Chế độ kế toán chỉ quy định về
cách thức hạch toán.Trong giai đoạn này, không những các nhược điểm của giai đoạn
trước đã được khắc phục về cơ bản mà còn nhiều nét đổi mới, phù hợp với chuẩn mực
kế toán quốc tế và phù hợp với điều kiện nước ta
-Về khái niệm và mục đích lập dự phòng
Đối tượng áp dụng đã được mở rộng, đó là các doanh nghiệp thành lập theo quy định
của pháp luật Việt Nam bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Về các
khoản dự phòng, không phải chỉ có dự phòng tổn thất nữa mà đã có nhiều khoản dự
phòng mới như: Dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp, dự phòng
tranh chấp, dự phòng tiền phạt, dự phòng những hợp đồng có rủi ro lớn, dự phòng tái
cơ cấu doanh nghiệp,… Trong giai đoạn này thị trường chứng khoán Việt Nam phát
triển mạnh, nhiều công ty gia nhập, niêm yết trên thị trường chứng khoán, và với
những công ty này cần phải công khai tài chính thường xuyên theo các quý, và thông
tư cũng quy định, đối với các doanh nghiệp này, do phải lập báo cáo tài chính giữa
niên độ nên được trích lập và hoàn nhập dự phòng cả thời điểm lập báo cáo tài chính
giữa niên độ. Điều này trong giai đoạn trích không được phản ánh.
-Về việc trích lập và sử dụng các khoản dự phòng
Về cơ bản việc trích lập và sử dụng các khoản dự phòng giống với giai đoạn trích,
riêng về phương pháp trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi đã có sự thay đổi hoàn
toàn. Trong giai đoạn trước việc trích lập các dự phòng phải thu khó đòi theo phương
pháp trực tiếp mà phương pháp này lại vi phạm nguyên tắc phù hợp và cả nguyên tắc
thận trọng do quy định cụ thể mức lập dự phòng phải thu khó đòi tối đa được trích.
Nhưng trong giai đoạn này, nhược điểm này đã được khắc phục, việc trích lập dự

phòng nợ phải thu khó đòi không theo phương pháp trực tiếp nữa mà theo phương
pháp ước tính (phân bổ). Có thể căn cứ vào tỷ lệ doanh thu hoặc căn cứ vào tuổi nợ để
xác định mức dự phòng cần lập.
Còn một số khoản dự phòng mới được nêu khá chi tiết trong Chuẩn mực và tôi xin
được trình bày trong phần sau, phần 2.2 - Thực trạng Chuẩn mực và Chế độ kế toán
Việt Nam hiện hành về kế toán chi phí dự phòng.
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

17
Tóm lại, việc ghi nhận, trích lập và sử dụng các khoản dự phòng trong giai đoạn này
được cụ định cụ thể và rõ ràng hơn, đã khắc phục được những hạn chế của hai giai
đoạn trước và phù hợp với Chuẩn mực quốc tế, giúp cho những người làm công tác kế
toán được dễ dàng hơn và những người sử dụng thông tin dễ nhận biết và nắm bắt
được thông tin nhanh chóng và thuận lợi hơn.
2.2. Thực trạng Chuẩn mực và Chế độ kế toán Việt Nam hiện hành về kế toán chi
phí dự phòng.
2.2.1. Chuẩn mực kế toán Việt Nam
Dự phòng được biết đến từ trước năm 2000, nhưng mới chỉ có các thông tư hướng dẫn
việc sử dụng và trích lập mà chưa đi sâu vào việc kế toán các khoản dự phòng. Điều
này gây khó khăn cho những người làm công tác kế toán hơn nữa dự phòng ngày càng
quan trọng vì dự phòng nếu không được xác định hợp lý sẽ làm sai lệch kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể từ lãi về lỗ hoặc ngược lại. Nắm được
tầm quan trọng của dự phòng, đã có một chuẩn mực riêng quy định về các khoản dự
phòng đó là: Chuẩn mực kế toán số 18 (VAS18) “các khoản dự phòng, tài sản và nợ
tiềm tang”. Chuẩn mực này được ban hành và công bố theo Quyết định số 100/QĐ –
BTC ngày 28/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
• Phạm vi mà Chuẩn mực không đề cập đến:
Chuẩn mực này áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp để kế toán các khoản dự phòng,

tài sản và nợ tiềm tàng, ngoại trừ một số trường hợp sau:
- Các khoản mục phát sinh từ các hợp đồng thông thường, không kể các hợp đồng có
rủi ro lớn.
- Những khoản mục đã quy định trong các chuẩn mực kế toán khác như: các loại dự
phòng được đề cập trong các chuẩn mực sau: VAS 15 “Hợp đồng xây dựng”, VAS 17
“Thuế thu nhập doanh nghiệp”, VAS 06 “Thuê tài sản. Trừ trường hợp tài sản thuê
hoạt động có rủi ro lớn thì áp dụng chuẩn mực này, VAS 14 “Doanh thu và thu nhập
khác”.
- Các công cụ tài chính ( bao gồm các điều khoản bảo lãnh), các công cụ tài chính này
áp dụng theo quy định của chuẩn mực kế toán về công cụ tài chính.
• Phân biệt các khoản dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng:
Một khoản nợ phải trả: là nghĩa vụ nợ hiện tại của doanh nghiệp phát sinh từ các
sự kiện đã qua và việc thanh toán khoản phải trả này dẫn đến sự giảm sút về lợi ích
kinh tế của doanh nghiệp, nợ phải trả bao gồm nợ thông thường và nợ tiềm tàng. Nợ
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

18
thông thường là các khoản nợ phải trả được xác định gần như chắc chắn về giá trị và
thời gian như: Các khoản nợ phải trả người bán, phải trả tiền vay,… Còn nợ tiềm tàng
là các khoản không được ghi nhận là các khoản nợ thông thường vì các khoản nợ tiềm
tàng chưa chắc chắn xảy ra (chưa chắc chắn về giá trị và thời gian).
Tất cả các khoản dự phòng đều là nợ tiềm tàng vì chúng không được xác định một
cách chắc chắn về giá trị hoặc thời gian.Dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng đều là một
khoản nợ tiềm tàng và không được xác định một cách chắc chắn về giá trị hoặc thời
gian.
+ Các khoản dự phòng là các khoản đã được ghi nhận là các khoản nợ phải trả (giả
định đưa ra một ước tính đáng tin cậy) vì nó là các nghĩa vụ về nợ phải trả hiện tại và
chắc chắn sẽ làm giảm sút các lợi ích kinh tế để thanh toán các nghĩa vụ về khoản nợ

phải trả đó. Các khoản dự phòng cần phải được xem xét lại vào mỗi ngày lập bảng
tổng kết tài sản và được điều chỉnh để phản ánh cách đánh giá tốt nhất theo giá trị hiện
tại.
+ Nợ tiềm tàng, trong phạm vi chuẩn mực, thuật ngữ “ tiềm tàng” được áp dụng
cho các khoản nợ và những tài sản không được ghi nhận vì chúng chỉ được xác định cụ
thể khi khả năng xảy ra hoặc không xảy ra của một hoặc nhiều sự kiện không chắc
chắn trong tương lai mà doanh nghiệp không kiểm soát được. Các khoản nợ tiềm tàng
là các khoản không được ghi nhận là các khoản nợ thông thường, chúng thường xuyên
xảy ra không theo dự tính ban đầu, do vậy, chúng phải được ước tính thường xuyên để
xác định xem liệu có sự giảm sút kinh tế hay không.
• Nội dung cơ bản của Chuẩn mực:
-Nguyên tắc ghi nhận các khoản dự phòng: Một khoản dự phòng chỉ được ghi
nhận khi thỏa mãn các điều kiện sau:
+ Doanh nghiệp có nghĩa vụ nợ hiện tại (nghĩa vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ liên đới)
do kết quả từ một sự kiện đã xảy ra
+ Sự giảm sút về những lợi ích kinh tế có thể xảy ra dẫn đến việc yêu cầu phải
thanh toán nghĩa vụ nợ.
+ Đưa ra được một ước tính đáng tin cậy về giá trị của nghĩa vụ nợ đó.
Về nghĩa vụ nợ:
Trong hầu hết các trường hợp, doanh nghiệp đều xác định được với một sự
kiện đã xảy ra có phát sinh một nghĩa vụ nợ hay không. Nhưng trong một số ít trường
hợp lai không xác đinh được. Ví dụ: Trong một vụ xét xử mà đến ngày kết thúc kỳ kế
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

19
toán vẫn chưa giải quyết xong,như vậy không thể kết luận một cách chắc chắn là ai
thắng, ai thua và có phát sinh nghĩa vụ nợ hay không. Trong trường hợp này, để đảm
bảo nguyên tắc thận trọng,doanh nghiệp cần phải xem xét tài liệu, nếu nghiêm trọng có

thể tham khảo ý kiến chuyên gia,để xác định có tồn tại nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc
kỳ kế toán năm hay không.
+ Nếu chắc chắn xác định được nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm, thì
doanh nghiệp phải lập dự phòng
+ Nếu chưa chắc chắn có nghĩa vụ nợ nào tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm, thì
doanh nghiệp không được lập dự phòng mà phải trình bày trong bản thuyết minh báo
cáo tài chính một khoản nợ tiềm tàng. Trừ khi khó xảy ra khả năng phải chi trả, doanh
nghiệp phải trình bày tóm tắt bản chất của khoản nợ tiềm tàng tại ngày kết thúc kỳ kế
toán năm và các thông tin sau: ước tính về ảnh hưởng tài chính của khoản nợ tiềm tàng
này, dấu hiệu không chắc chắn liên quan đến giá trị và thời gian của các khoản chi trả
có thể xảy ra, khả năng nhận được các khoản bồi hoàn.
Sự kiện đã xảy ra:
Một sự kiện đã xảy ra trở thành một sự kiện ràng buộc, nếu doanh nghiệp
không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc thanh toán nghĩa vụ nợ gây ra bởi sự kiện
đó. Điều này chỉ xảy ra khi: khi thanh toán nghĩa vụ nợ này do pháp luật bắt buộc hoặc
khi có nghĩa vụ liên đới, khi xảy ra sự kiện này (có thể là hoạt động của doanh nghiệp)
dẫn đến có ước tính đáng tin cậy để bên thứ 3 chắc chắn là doanh nghiệp sẽ thanh toán
khoản nợ phải trả đó.
Báo cáo tài chính chỉ liên quan đến tình trạng tài chính của doanh nghiệp tại
thời điểm kết thúc kỳ báo cáo và không liên quan đến vấn đề tài chính có thể xảy ra
trong tương lai. Vì vậy, không cần phải ghi nhận bất kỳ một khoản dự phòng nào cho
các khoản chi phí cần thiết cho hoạt động trong tương lai. Các khoản nợ phải trả được
ghi nhận trong Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp là những khoản nợ phải trả đã
xác định tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
Những nghĩa vụ nợ phát sinh từ các sự kiện đã xảy ra độc lập với các hoạt
động trong tương lai của doanh nghiệp thì phải lập dự phòng. Ví dụ: chi phí phạt hoặc
chi phí xử lý thiệt hại do vi phạm pháp luật về môi trường, đều làm giảm sút các lợi
ích kinh tế và tất yếu sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động trong tương lai của doanh
nghiệp. Tương tự, doanh nghiệp phải ghi nhận một khoản dự phòng cho những chi phí,
như chi phí tháo dỡ trang thiết bị khi di chuyển hoặc tái cơ cấu doanh nghiệp. Các chi

Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

20
phí phát sinh do áp lực về thương mại hoặc quy định của pháp luật mà doanh nghiệp
dự định phải chi tiêu như trường hợp đặc biệt trong tương lai thì không được lập dự
phòng (Ví dụ: lắp thêm các thiết bị lọc khói cho một nhà máy). Các biện pháp dự định
thực hiện trong tương lai của doanh nghiệp có thể tránh được chi phí (Ví dụ: doanh
nghiệp dự định thay đổi phương thức hoạt động), doanh nghiệp sẽ không phải chịu
nghĩa vụ hiện tại cho các khoản chi phí trong tương lai và cũng không phải ghi nhận
bất kỳ một khoản dự phòng nào.
Một sự kiện không nhất thiết phát sinh nghĩa vụ nợ ngay lập tức mà có thể sẽ
phát sinh sau này do những thay đổi về pháp luật hoặc do hoạt động của doanh nghiệp
dẫn đến nghĩa vụ nợ liên đới. Ví dụ:Khi xảy ra thiệt hại về môi trường có thể sẽ không
phát sinh ra nghĩa vụ nợ để giải quyết các hậu quả gây ra. Tuy nhiên, nguyên nhân gây
ra thiệt hại sẽ trở thanh một sự kiện hiện tại khi có một quy định mới yêu cầu các thiệt
hại hiện tại phải được điều chỉnh hoặc khi doanh nghiệp công khai thừa nhận nghĩa vụ
nợ của mình trong việc xử lý các thiệt hại đó như là nghĩa vụ nợ liên đới.
Sự giảm sút về kinh tế có thể xảy ra
Khi có nhiều nghĩa vụ nợ tương tự nhau (Ví dụ: các giấy bảo hành sản phẩm
hoặc các hợp đồng giống nhau) thì khả năng giảm sút lợi ích kinh tế do việc thanh
toán nghĩa vụ nợ được xác định thông qua việc xem xét toàn bộ nhóm nghĩa vụ nói
chung. Mặc dù việc giảm sút lợi ích kinh tế do việc thanh toán từng nghĩa vụ nợ là rất
nhỏ, nhưng hoàn toàn có thể làm giảm sút lợi ích kinh tế do việc thanh toán toàn bộ
nhóm nghĩa vụ đó. Trường hợp này, cần ghi nhận một khoản dự phòng nếu thỏa mãn
các điều kiện ghi nhận.
-Phương pháp xác định:
+ Phương pháp được sử dụng để xác định mức dự phòng cần lập là phương pháp
ước tính hay phân bổ.Vì phương pháp này không vi phạm nguyên tắc phù hợp và sử

dụng phương pháp này đặc biệt đúng với các khoản mục dự phòng vì đây là những
khoản mục không chắc chắn về thời gian và giá trị. Trong trường hợp không thể ước
tính nghĩa vụ nợ một cách đáng tin cậy, thì khoản nợ hiện tại không được ghi nhận, mà
phải được trình bày như một khoản nợ tiềm tàng.
+ Giá trị ước tính hợp lý: giá trị ghi nhận một khoản dự phòng phải là giá trị
được ước tính hợp lý nhất về khoản tiền sẽ phải chi để thanh toán nghĩa vụ nợ hiện tại
tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

21
Giá trị ước tính hợp lý nhất về khoản chi phí để thanh toán nghĩa vụ nợ hiện tại là
giá trị mà doanh nghiệp sẽ phải thanh toán nghĩa vụ nợ hoặc chuyển nhượng cho bên
thứ ba tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Thường là không thể bỏ ra chi phí rất cao để
thanh toán hoặc chuyển nhượng nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc kỳ kế toán. Tuy nhiên,
cách ước tính về giá trị mà doanh nghiệp phải suy tính để thanh toán hoặc chuyển
nhượng nghĩa vụ nợ sẽ đưa ra được giá trị ước tính đáng tin cậy nhất về chi phí sẽ phải
dùng để thanh toán nghĩa vụ hiện tại tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
Cách ước tính về kết quả và ảnh hưởng tài chính đều được xác định thông qua
đánh giá của Ban giám đốc doanh nghiệp, được bổ sung thông qua kinh nghiệm từ các
hoạt động tương tự và các bản báo cáo của các chuyên gia độc lập. Các căn cứ có thể
dựa trên bao gồm cả các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
Có nhiều phương pháp đánh giá để ghi nhận giá trị các khoản mục không chắc
chắn là một khoản dự phòng. Khi các khoản dự phòng được đánh giá là có liên quan
đến nhiều khoản mục, thì nghĩa vụ nợ sẽ được tính theo tất cả các kết quả có thể thu
được với các xác suất có thể xảy ra (phương pháp giá trị ước tính). Do đó, khoản dự
phòng sẽ phụ thuộc vào xác suất phát sinh khoản lỗ đã ước tính là bao nhiêu, ví dụ:
60% hay 90%. Nếu các kết quả ước tính đều tương đương nhau và liên tục trong một
giới hạn nhất định và mỗi điểm ở trong giới hạn đó đều có khả năng xảy ra như nhau

thì sẽ chọn điểm ở giữa trong giới hạn đó.
Khi đánh giá từng nghĩa vụ một cách riêng rẽ, mỗi kết quả có nhiều khả năng xảy
ra nhất sẽ là giá trị nợ phải trả ước tính hợp lý nhất. Tuy nhiên, thậm chí trong trường
hợp như thế, doanh nghiệp cũng cần phải xét đến các kết quả nữa. Khi các kết quả có
nhiều khả năng xảy ra nhất, thì giá trị ước tính đáng tin cậy nhất sẽ là giá trị cao hơn
hoặc thấp hơn đó. Ví dụ, doanh nghiệp buộc phải sửa chữa một hỏng hóc nghiêm trọng
trong một thiết bị lớn đã bán cho khách hàng, và kết quả có khả năng xảy ra nhất là sẽ
tốn 1 triệu đồng để sửa chữa thành công lần đầu, nhưng nếu có khả năng phải sửa chữa
các lần tiếp theo thì phải đưa ra một khoản dự phòng có giá trị lớn hơn.
Doanh nghiệp cần phải ước tính giá trị hợp lý nhất cho các khoản dự phòng để
hạn chế rủi ro thể hiện sự giảm sút kết quả. Khi đưa ra những đánh giá trong các điều
kiện không chắc chắn phải thận trọng không thì sẽ làm sai lệch tăng thu nhập hay tài
sản, giảm chi phí và các khoản nợ. Tuy nhiên tình trạng không chắc chắn không có
nghĩa là tạo ra các khoản dự phòng quá mức hoặc khai khống các khoản nợ một cách
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

22
cố ý. Doanh nghiệp cấn phải chú ý để tránh các bước đánh giá trùng lặp đối với rủi ro
và sự không chắc chắn dẫn đến làm tăng các khoản dự phòng.
+ Thay đổi các khoản dự phòng:
Các khoản dự phòng phụ thuộc vào giá trị thời gian của tiền, nếu ảnh hưởng về
giá trị thời gian của tiền là trọng yếu thì các khoản dự phòng liên quan đến các luồng
tiền ra phát sinh ngay sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm có giá trị thực cao hơn các
khoản dự phòng có cùng giá trị liên quan đến các luồng tiền ra phát sinh muộn hơn.
Do đó, các khoản dự phòng đều phải được chiết khấu và tỷ lệ chiết khấu phải là tỷ lệ
trước thuế. Tỷ lệ chiết khấu không được phản ánh rủi ro đã tính đến của giá trị ước
tính luồng tiền trong tương lai.
Những sự kiện xảy ra trong tương lai có thể ảnh hưởng đến giá trị đã ước tính để

thanh toán nghĩa vụ nợ, do đó có thể rất quan trọng khi đánh giá các khoản dự phòng.
Và không được tính các khoản lãi từ hoạt động thanh lý tài sản khi xác định giá trị
khoản dự phòng, ngay cả khi hoạt động thanh lý dự tính gắn liền với điều kiện phát
sinh khoản dự phòng đó.
Một khoản dự phòng dự tính được bên thứ 3 bồi hoàn một phần hay toàn bộ
thì chỉ được ghi nhận khi doanh nghiệp chắc chắn nhận đượckhoản bồi hoàn đó.
Khoản bồi hoàn này được ghi nhận như một tài sản riêng biệt, giá trị ghi nhận của
khoản bồi hoàn không được vượt quá giá trị khoản dự phòng, còn khoản dự phòng
trong Báo cáo kết quản hoạt động kinh doanh là phần giá trị sau khi đã trừ đi khoản
bồi hoàn được nhận.
Các khoản dự phòng phải được xem xét lại và điều chỉnh tại ngày kết thúc kỳ
kế toán năm để phản ánh ước tính hợp lý nhất ở thời điểm hiện tại.Nếu doanh nghiệp
chắc chắn không phải chịu sự giảm sút về lợi ích kinh tế do không phải chi trả nghĩa
vụ nợ thì khoản dự phòng đó phải được hoàn nhập.
+ Sử dụng cáckhoản dự phòng: chỉ nên sử dụng một khoản dự phòng cho những
chi phí mà khoản dự phòng đó đã lập từ ban đầu
- Áp dụng nguyên tắc ghi nhận và xác định giá trị:
+ Dự phòng những hợp đồng có rủi ro lớn:
Hợp đồng có rủi ro lớn là hợp đồng mà trong đó, chi phí bắt buộc phải trả cho
các nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng vượt quá lợi ích kinh tế dự tính thu được từ hợp
đồng đó.
Đề án môn học

SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

23
Trước khi lập một khoản dự phòng riêng biệt cho một hợp đồng có rủi ro lớn,
doanh nghiệp phải ghi nhận bất kỳ sự giảm sút giá trị nào của tài sản có liên quan đến
hợp đồng đó. Nghĩa vụ nợ hiện tại theo hợp đồng phải được ghi nhận và đánh giá như
một khoản dự phòng.

+ Dự phòng tái cơ cấu doanh nghiệp:
Các ví dụ về tái cơ cấu doanh nghiệp: Bán hoặc chấm dứt một dâychuyền sản
xuất sản phẩm; đóng cửa cơ sở kinh doanh ở một địa phương, một quốc gia khác hoặc
chuyển đổi hoạt động kinh doanh từ địa phương nàym quốc gia này sang một địa
phương hoặc một quốc gia khác; thay đổi cơ cấu bộ máy quản lý,ví dụ loại bỏ một cấp
quản lý; hoạt động tái cơ cấu bản sẽ gây ra tác động lớn đến bản chất và mục tiêu hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
Khoản dự phòng cho chi phí tái cơ cấu doanh nghiệp chỉ được ghi nhận khi thoả
mãn các điều kiện ghi nhận một khoản dự phòng chung. Mặt khác khi tiến hành tái cơ
cấu doanh nghiệp thì nghĩa vụ liên đới chỉ phát sinh khi: Có kế hoạch chính thức, cụ
thể để xác định rõ việc tái cơ cấu doanh nghiêp, trong đó phải thoả mãn ít nhất 5 nội
dung sau:
 Thay đổi toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh
 Các vị trí quan trọng bị ảnh hưởng
 Vị trí , nhiệm vụ và số lượng nhân viên ước tính sẽ được nhận bồi
thường khi họ thôi việc
 Các khoản chi phí sẽ phải chi trả
 Khi kế hoạch được thực hiện
Và đưa danh sách chủ thể chắc chắn bị ảnh hưởng; thực hiện kế hoạch tái cơ cấu
hoặc thông báo các vấn đề quan trọng đến những chủ thể bị ảnh hưởng của việc tái cơ
cấu.
Một khoản dự phòng cho việc tái cơ cấu chỉ được dự tính cho những chi phí trực
tiếp phát sinh từ hoạt động tái cơ cấu, đó là những chi phí thoả mãn: cần phải có cho
hoạt động tái cơ cấu và không liên quan đến hoạt động thường xuyên của doanh
nghiệp. Một khoản dự phòng không bao gồm các chi phí như: đào tạo lại hoặc thuyên
chuyển nhân viên hiện có, tiếp thị hoặc đầu tư vào những hệ thống mới và các mạng
lưới phân phối. Những chi phí này liên quan đến hoạt động trong tương lai của doanh
nghiệp và không phải là các khoản nợ phải trả cho việc tái cơ cấu tại ngày kết thúc kỳ
Đề án môn học


SV: Nguyễn Thị Nhung Lớp: Kế toán 48C

24
kế toán năm. Các chi phí này phải được ghi nhận theo nguyên tắc ghi nhận cac chi phí
không liên quan tới việc tái cơ cấu.
Những khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh trong tương lai có thể xác định được
tính đến ngày tái cơ cấu thì không được bao gồm trong khoản dự phòng, trừ khi chúng
liên quan đến hợp đồng có rủi ro lớn.
-Trình bày báo cáo tài chính: Doanh nghiệp phải trình bày trong báo cáo tài chính
từng loại dự phòng theo các khoản mục sau:
 Số dư đầu kỳ và cuối kỳ
 Số dự phòng tăng do các khoản dự phòng trích lập bổ sung trong kỳ, kể cả
việc tăng các khoản dự phòng hiện có;
 Số dự phòng giảm trong kỳ do phát sinh các khoản chi phí liên quan đến
khoản dự phòng đó đã được lập từ ban đầu;
 Số dự phòng không sử dụng đến được ghi giảm (hoàn nhập) trong kỳ; và
 Số dự phòng tăng trong kỳ do giá trị hiện tại của khoản dự phòng tăng lên
theo thời gian và do ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ lệ chiết khấu dòng tiền.
Doanh nghiệp không phải trình bày thông tin so sánh về các khoản dự phòng.
Đối với mỗi khoản dự phòng có giá trị trọng yếu,doanh nghiệp phải trình bày các
thông tin sau:
 Tóm tắt bản chất của nghĩa vụ nợ và thời gian chi trả dự tính;
 Dấu hiệu cho thấy có sự không chắc chắn về giá trị hoặc thời gian của các
khoẩn chi trả. Khi cần đưa ra thông tin đầy đủ thì doanh nghiệp phải trình bày
những giả định chính liên quan đến các sự kiện xảy ra trong tương lai; và
 Giá trị của khoản bồi hoàn dự tính nhận được nếu giá trị cảu tài sản đã được
ghi nhận liên quan đến khoản bồi hoàn dự tính đó.










×