Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

BÁO CÁO-PHÂN TÍCH KHÁI NIỆM, CẤU TRÚC CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.8 KB, 11 trang )

PHÂN TÍCH KHÁI NIỆM, CẤU TRÚC CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT

I. Khái niệm ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước, phản ánh
trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết phải kể đến các quan hệ
sản xuất được thể hiện trong các luật lệ của nhà nước. Ý thức pháp luật xuất
hiện xuất hiện cùng với sự xuất hiện của pháp luật. Nó là sản phẩm của quá
trình phát triển của xã hội, chịu ảnh hưởng sâu sắc của các hệ tư tưởng, quan
điểm và quan niệm trong xã hội. Ý thức pháp luật dần dần trở thành yếu tố
không thể thiếu trong đời sống xã hội.
Xung quanh khái niệm ý thức pháp luật còn có những quan niệm, cách
hiểu khác nhau, cả dưới góc độ nghiên cứu khoa học cũng như trong thực tế
cuộc sống hằng ngày.
Theo quan niệm thông thường, ý thức pháp luật được hiểu một cách đơn
giản, gắn liền với một trong những biểu hiện cụ thể của nó, như ý thức chấp
hành pháp luật của một cá nhân hay tập thể nào đó, phản ứng của con người
trước một sự kiện pháp lý, thái độ của người dân đối với một văn bản pháp
quy. Thước đo trình độ ý thức pháp luật của một đối tượng cụ thể trong xã
hội phụ thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi mà chủ thể bộc lộ ra trong
quá trình tuân thủ các nguyên tắc, quy định của pháp luật. Tuy còn đơn giản,
cảm tính song cách hiểu này góp phần quan trọng vào việc điều chỉnh hành
vi pháp luật của các cá nhân trong xã hội.
Trong nghiên cứu lý luận, vấn đề ý thức pháp luật được quan tâm nghiên
cứu từ góc độ của nhiều ngành khoa học khác nhau như triết học, luật
học.v.v. và còn có những quan điểm khác nhau. Điều đó cũng dễ hiểu, vì
mỗi khoa học đều có cách tiếp cận nghiên cứu riêng, làm nên sự khác biệt
giữa các khoa học.
Dưới góc độ triết học, ý thức pháp luật được tiếp cận nghiên cứu trước
hết với tư cách là một hình thái ý thức xã hội bên cạnh các hình thái ý thức
xã hội khác như ý thức chính trị, ý thức đạo đức.v.v. Trong các giáo trình
triết học Mác Lênin, ý thức pháp luật (còn gọi là ý thức pháp quyền) được


định nghĩa như sau: "Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm
của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ
của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp hay không
hợp pháp của hành vi con người trong xã hội." Cách tiếp cận triết học cho
thấy, thứ nhất, ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, có nguồn gốc
từ thực tiễn và đời sống xã hội và phản ánh tồn tại xã hội từ góc nhìn pháp
luật; thứ hai, con đường hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tuân
theo quy luật chung của quá trình nhận thức: xuất phát từ nhận thức cảm tính
(tình cảm, tâm trạng, thái đọ của con người đối với pháp luật và các sự kiện
pháp lý), tiếp theo là giai đoạn nhận thức lý tính (hình thành nên các khái
niệm, quan điểm, học thuyết về các vấn đề pháp luật); thứ ba, ý thức pháp
luật là toàn bộ những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm của một
giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật. Quan điểm triết học coi ý thức
pháp luật như một hình thái ý thức xã hội mang lại cái nhìn sâu sắc và khái
quát về bản chất và vai trò của ý thức pháp luật trong ý thức xã hội nói
chung. Đồng thời, nó cũng là cơ sở lý luận để tiếp cận nghiên cứu ý thức
pháp luật dưới góc nhìn của các khoa học cụ thể.
Dưới góc độ luật học, có khá nhiều quan niệm về ý thức pháp luật đã
được nêu ra. Chẳng hạn, "ý thức pháp luật là một dạng cụ thể của hệ thống ý
thức xã hội, nó phản ánh những quy luật khách quan, nó tác động đến mọi
lĩnh vực hoạt động và đời sống xã hội" (Lê Đức Tiết: Ý thức pháp luật, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994). Loại quan niệm này mang tính khái
qutas cao nhưng quá chung chung và chưa nêu lên được những nội dung cơ
bản của ý thức pháp luật. Hoặc một quan niệm khác: "ý thức pháp luật - đó
là trình độ hiểu biết của các tầng lớp nhân dân về pháp luậ, là thái độ đối với
pháp luật, ý thức tôn trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối với
hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội" (Viện nghiên cứu nhà nước và pháp
luật, Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995). Cách tiếp cận này thiên về xác định chủ thể của ý
thức pháp luật với các biểu hiện cụ thể của nó là trình độ hiểu biết pháp luật

và thái độ đối với pháp luật. Một quan niệm khác đề cập đến ý thức pháp
luật một cách khá đầy đủ và chi tiết, theo đó. "ý thức pháp luật là tổng thể
những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm thịnh hành trong xã hội,
thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật
đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay
không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, cũng như trong tổ chức
và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội" (Trường đại
học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2004). Như vậy, dưới góc độ luật học, bên cạnh việc tiếp
thu quan điểm triết học, coi ý thức pháp luật như một hình thái ý thức xã hội,
là toàn bộ những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm của một giai
cấp về bản chất và vai trò của pháp luật.v.v. các nhà luật học chủ yếu nhấn
mạnh đến: thứ nhất, chủ thể của ý thức pháp luật là các giai cấp, các nhóm
xã hội, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tầng lớp nhân dân; thứ
hai, nội dung của ý thức pháp luật thể hiện trình độ nhận thức, hiểu biết về
pháp luật, tình cảm, thái độ của con người đối với pháp luật, thể hiện sự
đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con
người, trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức
xã hội dưới môi trường điều trỉnh của pháp luật. Cách tiếp cận luật học tạo
cơ sở để có thể tìm hiểu, phân tích nội dung của ý thức pháp luật gắn với
từng chủ thể cụ thể.
Từ các điểm nêu trên, có thể định nghĩa: ý thức pháp luật là toàn bộ các
học thuyết, quan điểm, quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan
hệ của con người đối với pháp luật, trình độ hiểu biết pháp luật, thái độ, sự
đánh giá về pháp luật của các giai cấp, tầng lớp xã hội, về tính hợp pháp hay
không hợp pháp trong hành vi ứng xử của con người, trong tổ chức và hoạt
động của các thiết chế xã hội.

II. Cấu trúc của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật có cấu trúc khá phức tạp. Việc xem xét và phân tích cấu

trúc của ý thức pháp luật là cơ sở để đánh giá sự tác động của dư luận xã hội
đối với ý thức pháp luật nói chung. Cấu trúc của ý thức pháp luật có thể
được nhìn nhận từ những góc độ khác nhau tùy thuộc vào mục đích nghiên
cứu:
Căn cứ và nội dung và tính chất của các bộ phận hợp thành, ý thức pháp
luật bao gồm hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật bao gồm hệ
tư tưởng pháp luật (toàn bộ những tư tưởng, học thuyết, quan điểm, quan
niệm khoa học về pháp luật) và tâm lý pháp luật (phản ánh những tâm trạng,
cảm xúc, thái độ, tình cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp luật cụ
thể khác). Ý thức pháp luật còn thể hiện ở động cơ hành vi, tinh thần sẵn
sàng thức hiện những hành vi theo yêu cầu của pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các tư tưởng, quan điểm, quan niệm có
tính chất lý luận và khoa học về pháp luật và các hiện tượng pháp luật một
cách sâu sắc, tự giác dưới dạng các khái niệm, phạm trù khoa học. Hệ tư
tưởng pháp luật phản ánh trình độ nhận thức cao, có tính hệ thống về các vấn
đề có tính chất bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật trên lập
trường của một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng pháp luật có khả năng đi sâu
vào bản chất của các quan hệ pháp luật trong xã hội, do đó, nó là cơ sở để
sáng tạo các giá trị pháp luật, phổ biến các tư tưởng, quan điểm pháp luật
tiến bộ, nhân văn trong xã hội. Đồng thời nó là nền tảng góp phần làm sâu
sắc thêm nội dung các phán xét và đánh giá của dư luật xã hội đối với những
vấn đề có liên quan đến lĩnh vực pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật chính thống của một quốc gia là hệ tư tưởng của
giai cấp cầm quyền, vì vậy, nó chứa đựng những tư tưởng, quan điểm về lợi
ích kinh tế, chính trị, xã hội và thể hiện ý chí của một gia cấp nhất định. Các
tư tưởng học thuyết, quan niệm về pháp luật có thể hình thàh, tồn tại, phát
triển hoặc biến mất tùy thuộc vào vai trò xã hội của giai cấp thống trị trong
xã hội ở từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Khi giai cấp thống trị là lực lượng tiến
bộ của xã hội, có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của đông đảo các tầng

lớp khác trong xã hội thì tính khoa học, tính dân chủ và tính xã hội của hệ tư
tưởng sẽ thể hiện nổi trội, trở thành hệ tư tưởng chung cho toàn xã hội.
Ngược lại, nếu giai cấp thống trị là lực lượng thoái bộ, bảo thủ, áp đặc hệ tư
tưởng pháp luật của mình cho các giai cấp, tầng lớp khác thông qua sức
mạnh cưỡng chế của pháp luật thì hệ tư tưởng pháp luật đó mang tính chất
phản động, lạc hậu.
Tâm lý pháp luật là một bộ phận quan trọng của ý thức pháp luật, hình
thành tự phát dưới dạng tình cảm, cảm xúc, tâm trạng của các cá nhân và các
nhóm xã hội đối với pháp luật cũng như các hiện tượng pháp lý xảy ra trong
đời sống xã hội. Tâm lý pháp luật chỉ biểu hiện cấp độ nhận thức thông
thường dựa trên cơ sở tình cảm pháp luật truyền thống, kinh nghiệm sống,
tập quán và tâm lý xã hội. Sự phát sinh, tồn tại của tâm lý pháp luật chính là
sự thể hiện tâm lý của con người một cách trực diện trước các sự việc, sự
kiện, hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội, mang nặng tính chất
cảm tính, chủ quan. Nội cách khác là ở cấp độ này, ý thức pháp luật chỉ mới
thể hiện ở sự thừa nhận, tiếp thu và xử sự theo sự thừa nhận và tiếp thu đó:
điều hay lẽ phải, việc nên làm, việc nên tránh, theo tình cảm hướng thiện. Có
thể nói, tâm lý pháp luật (dưới dạng tính cảm, cảm xúc đối với pháp luật là
"nguồn sữa" nuôi sống hệ tư tưởng pháp luật, bảo vệ tồn tại và phát triển hệ
tư tưởng pháp luật.
Tâm lý pháp luật của cá nhân thường bị quy định bở tư tưởng pháp luật
của cá nhân đó. Vì vậy, đối với từng cá nhân nói riêng, nếu không có tâm lý
pháp luật tích cực thì không có hệ tư tưởng pháp luật và do đó cũng không
có ý thức pháp luật. Với ý nghĩa đó, có thể nói rằng tâm lý phảm luật là
mảnh đất nuôi sống tư tưởng pháp luật, hình thành ý thức pháp luật một cách
đầy đủ nhất.
Ý thức pháp luật nói chung, tâm lý pháp luật nói riêng có quan hệ mật
thiết với pháp luật. Nói như vậy không có nghĩa là khi ban hành pháp luật
mọi người đều có ý thức và thái độ đúng đắn đối với pháp luật, mà thái độ
đúng đắn đối với pháp luật chỉ có thể hình thành và xây dựng trên cơ sở ý

thức pháp luật nói chung, tâm lý pháp luật nói riêng đã được định hướng phù
hợp với nội dung của pháp luật. Ý thức pháp luật có ý nghĩa quan trọng
trong việc tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Định hướng cho việc bồi dưỡng ý
thức pháp luật nói chung và tâm lý pháp luật nói riêng chính là tạo ra những
điều kiện cần thiết để mỗi công dân tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Tâm lý
pháp luật đúng đắn có vai trò thiết thực trong việc thực hiện pháp luât, nghĩa
là vận dụng pháp luật để xem xét, giải quyết các vụ việc cụ thể. Không có
tâm lý pháp luật đúng đắn sẽ không thể có ý thức pháp luật đầy đủ để thực
hiện các quy định của pháp luật trong thực tế.
Sự kết hợp hài hòa giữa tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật thể
hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật, được biểu hiện thành
hành vi pháp luật. Hành vi pháp luật là hành động có ý thức của con người
diễn ra trong môi trường điểu chỉnh của pháp luật. Nói cách khác, hành vi
pháp luật là hành động có ý thức được xác định trước bằng các quy phạm
pháp luật. Trong mọi trường hợp, hành vi pháp luật chỉ có thể là hành vi hợp
pháp hay hành vi bất hợp pháp. Hành vi pháp luật hợp pháp là hành vi phù
hợp với các đòi hỏi của pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật; hành vi
pháp luật bất hợp pháp là hành vi trái với quy định của pháp luật hiện hành.
Căn cứ vào cấp độ và giới hạn nhận thức, ý thức pháp luật được chia
thành hai bộ phận cơ bản: ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật
lý luận.
Thứ nhất, ý thức pháp luật thông thường: ý thức pháp luật thông thường
thể hiện mức độ nhận thức còn hạn chế, thông qua sự phản ánh trực tiếp,
giản đơn về các sự kiện, hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội,
chưa được hệ thống hóa, khái quát hòa. Ý thức pháp luật thông thường có
thể có được ở đa số các thành viên trong xã hội, được hình thành dưới ảnh
hưởng trực tiếp của những điều kiện sống, lao động, sinh hoạt hằng ngày và
kinh nghiệm của các cá nhân khi họ tiếp cúc, va chạm với các sự việc, sự
kiện pháp lý. Ý thức pháp luật thông thường thể hiện kinh nghiệm của chủ
thể nhận thức trong việc xử lý các thông tin pháp luật, nói lên khả năng lý

giải các sự kiện pháp luật; do đó, nó chủ yếu mang tính kinh nghiệm, kém
sâu sắc và thiếu sự ổn định.
Ở cấp độ nhận thức này, ý thức pháp luật nhìn chung mới chỉ biểu hiện ở
việc con người thừa nhận, tiếp thu các nguyên tắc, quy định chung của pháp
luật và xử sự theo sự thừa nhận, tiếp thu đó. Mặc dù vậy, ý thức pháp luật
thông thường có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Nó giúp
cho chủ thể pháp luật nhận thức, xử lý nhanh chóng, kịp thời các tình huống
pháp luật xảy ra trong thực tế; định hướng và điều chỉnh hành vi pháp luật
phù hợp với các quy định của pháp luật trong chừng mực chấp nhận được.
Trước khi các lý luận khoa học pháp lý có thể can thiệp vào từng tình huống
pháp luật cụ thể của cuộc sống thì ý thức pháp luật thông thường là cái cần
thiết, cái thường trực trong mỗi người khi họ tham gia vào các quan hệ pháp
luật. Như vậy, ý thức pháp luật thông thường có tính phổ quát, phong phú,
được đặc trưng bằng các yếu tố tâm lý xã hội. Nó là nền tảng không thể
thiếu để xây dựng và phát triển ý thức pháp luật lý luận.
Thứ hai, ý thức pháp luật lý luận: ý thức pháp luật lý luận thể hiện trình
độ nhận thức cao, mang tính hệ thống và sâu sắc về các vấn đề có tính bản
chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật dưới dạng các khái niệm, các
phạm trù khoa học pháp lý. Nó là sự nhận thức có căn cứ khoa học, chỉ ra
được cái bản chất, mối quan hệ bên trong của các hiện tượng pháp luật. Để
đạt tới cấp độ ý thức pháp luật lý luận thì ngoài các điều kiện cần thiết về
tuyên truyền, giáo dục chung như đối với ý thức pháp luật thông thường, còn
cần phải trai qua một quá trình học tập, đào tạo, nghiên cứu có hệ thống, qua
hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn đời sống pháp luật.
Ý thức pháp luật lý luận là cơ sở cho hoạt động sáng tạo pháp luật, truyền bá
tư tưởng, quan điểm pháp lý cũng như những hoạt động pháp luật thực tiễn.
Như vậy, ý thức pháp luất lý luận thể hiện tính tư tưởng và tính khoa học sâu
sắc.
Bên cạnh ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật lý luận, có
nhà nghiên cứu còn đề cập đến cập độ ý thức pháp luật nghề nghiệp, coi nó

là ý thức của các luật gia và các nhà chức trách mà nghề nghiệp có liên quan
đến việc hoạch định chính sách pháp luật, nghiên cứu pháp luật, xây dựng và
tổ chức thực hiện pháp luật. Ý thức pháp luật nghề nghiệp là sự kết hợp hài
hòa của những yếu tố hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Nó không
chỉ biểu hiện ở trình độ hiểu biết cao về pháp luật mà còn phản ánh trình độ
nghiệp vụ, kỹ năng sử dụng và áp dụng pháp luật vào việc giải quyết các
công việc của thực tiễn đời sống. Có thể coi ý thức pháp luật nghề nghiệp là
cầu nối giữa ý thức pháp luật lý luận và ý thức pháp luật thông thường.
Căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật, ý thức pháp luật được chia
thành: ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật
xã hội.
Thứ nhất, ý thức pháp luật cá nhân: ý thức pháp luật cá nhân phản ánh
những tư tưởng, quan điểm, tâm lý, tình cảm, thái độ của mỗi con người về
pháp luật và đối với pháp luật. Ý thức pháp luật cá nhân được hình thành và
phát triển do sự tác động của các yếu tố xã hội (và của các điều kiện hoàn
cảnh riêng của từng người. Ý thức pháp luật cá nhân rất đa dạng, phong phú
và thể hiện nhiều vẻ: nó có thể cao hoặc thấp, tiến bộ hoặc lạc hậu, tích cực
hoặc tiêu cực, mức độ ảnh hưởng có thể sâu rộng hoặc hạn hẹp. Ý thức pháp
luật cá nhân là cơ sở để hình thành ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp
luật xã hội. Tuy nhiên, không phải ý thức pháp luật cá nhân nào cũng đạt
được trình độ ý thức pháp luật nhóm hoặc ý thức pháp luật xã hội, nhất là
khi ý thức pháp luật cá nhân đó hình thành một cách chủ quan, cảm tính và
chưa thông qua hoạt động giáo dục pháp luật. Trước mỗi sự kiện, sự việc
pháp luật xảy ra trong thực tiễn cuộc sống, thu hút sự chú ý của dư luận xã
hội, ý thức pháp luật cá nhân là cơ sở để mỗi người đưa ra phán xét đánh giá
của mình.
Thứ hai, ý thức pháp luật nhóm: ý thức pháp luật nhóm phản ánh những
tư tưởng, quan điểm, tình cảm, thái độ của các nhóm xã hội nhất định về
pháp luật và đối với pháp luật. Nhóm xã hội là tập hợp người có những nét
tương đồng về điều kiện sống, lao động, sinh hoạt; về mục đích, nhu cầu, lợi

ích cơ bản.v.v. nên về ý chí, nhận thức cũng có những điểm chung tương đối
thống nhất với nhau và tạo thành ý thức nhóm. Sự tiếp nhận và cùng chia sẽ
giữa các thành viên trong nhóm xã hội trước các sự kiện, hiện tượng pháp
luật làm hình thành nên ý thức pháp luật của nhóm. Ý thức pháp luật của
nhóm xã hội loại trừ ra ngoài những nét khác biệt của từng cá nhân và chỉ
giữ lại những nét chung điển hình, đặc trưng cho tư tưởng, quan điểm, tâm
lý và thái độ của nhóm xã hội. Có thể coi ý thức pháp luật nhóm là khâu
trung gian, liên kết ý thức pháp luật của cá nhân với ý thức pháp luật xã hội.
Do mang tính khái quát hơn và sâu sắc hơn so với ý thức pháp luật của cá
nhân nên ý thức pháp luật nhóm tạo cơ sở vững chắc hơn cho sự phán xét
đánh giá của dư luận xã hội về một thực tiễn pháp luật nhất định.
Thứ ba, ý thức pháp luật xã hội: ý thức pháp luật xã hội là ý thức đã được
kết tinh, chứa đựng những tư tưởng, quan điểm khoa học được thừa nhận và
thịnh hành trong xã hội về pháp luật và những vấn đề cơ bản nhất của đời
sống pháp luật xã hội. Nó là ý thức của bộ phận tiên tiến, đại diện cho xã
hội, được chính thức hóa trong toàn xã hội. Ý thức pháp luật xã hội được
hình thành xuất phát từ ý thức pháp luật của cá nhân và ý thức pháp luật
nhóm, nhưng nó không phải là tổng số đơn giản các nội dung chứa đựng
trong đó, mà là ý thức pháp luật mới về chất, là kết quả được chắt lọc, kết
tinh từ quá trình tương tác giữa các cá nhân với nhau, cá nhân với nhóm xã
hội, và giữa các nhóm xã hội với nhau. Khác với ý thức pháp luật của cá
nhân và ý thức pháp luật của nhóm xã hội, ý thức pháp luật xã hội mang tính
khái quát ở trình độ cao, có cơ sở khoa học và tính hệ thống chặt chẽ. Hệ
thống quan điểm, tư tưởng của ý thức pháp luật xã hội giữ vai trò định
hướng và quyết định đối với nội dung các phán xét, đánh giá của dư luận xã
hội về các vấn đề pháp luật.
Sự phân chia ý thức pháp luật thành các bộ phận dù là theo tiêu chí nào
cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối, phục vụ cho các mục đích khảo sát,
nghiên cứu, bởi vì các bộ phận hợp thành đó luôn nằm trong mối liên hệ chặt
chẽ với nhau, thẩm thấy vào nhau, tác động qua lại và bổ sung cho nhau,

×