Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

luận văn quản trị kinh doanh Nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế hội nhập, hoạt động kinh tế theo quy luật Thương trường như chiến trường, hay mạnh được yếu thua.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.13 KB, 56 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Tình hình nợ xấu của Chi nhánh Error: Reference source not found
Biểu đồ 2: Tình hình hoạt động tài chính của Chi nhánh.Error: Reference source not
found
LỜI MỞ ĐẦU
Tín dụng là một trong những chức năng quan trọng nhất của các tổ chức
trung gian tài chính, là dịch vụ sinh lời chủ yếu, đồng thời cũng là lĩnh vực
chứa đựng nhiều rủi ro nhất của các ngân hàng thương mại và các định chế tài
chính khác.
Trong bối cảnh nền kinh tế mở cửa kéo theo sự cạnh tranh gay gắt, tín dụng
chính là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp được liên tục và đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên,
trong những năm qua, vấn đề tín dụng đối với doanh nghiệp của các ngân hàng
thương mại, đặc biệt là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, gặp không ít khó khăn và
tồn tại như sự an toàn, chất lượng, hiệu quả… Điều này cho thấy tầm quan trọng
của tín dụng đối với không chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại mà còn đối với toàn
bộ nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng chính là hạn chế rủi
ro, hạn chế những tổn thất to lớn có thể xảy ra làm ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát
triển của từng ngân hàng thương mại nói riêng và toàn bộ hệ thống ngân hàng nói
chung. Do đó, củng cố, tăng cường, nâng cao chất lượng tín dụng là mối quan tâm
hàng đầu của các ngân hàng thương mại, trong đó có Chi nhánh Chương Dương
Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam bởi đây luôn là vấn đề cấp
thiết và quan trọng đối với mỗi ngân hàng.
Từ thực tế của nền kinh tế Việt Nam với hơn 95% các doanh nghiệp là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, do có vốn tự có ít nên nhu cầu về vốn là rất cấp thiết,
đồng thời xuất phát từ thực tế tại Chi nhánh Chương Dương Ngân hàng thương
mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam, sưau thời gian học tập, nghiên cứu những
vấn đề mang tính lý luận, em lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng
tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Chương Dương


Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam” đề làm chuyên đề thực
tập tốt nghiệp của mình.
1
Mục đích của chuyên đề
Em muốn đánh giá một cách khách quan thực trạng chất lượng tín dụng đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Chi nhánh Chương Dương Ngân hàng thương mại
cổ phần Kỹ Thương Việt Nam, để từ đó, đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm
góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi
nhánh Chương Dương Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam.
Phạm vi của chuyên đề
Chuyên đề tập trung nghiên cứu thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Chương Dương Ngân hàng thương mại cổ phần
Kỹ Thương Việt Nam từ các số liệu thống kê trong 3 năm gần đây.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận tư duy: duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Các phương pháp tổng hợp, phân tích, thực chứng, diễn giải, kết hợp với quy
nạp và diễn dịch.
Phương pháp thu thập thông tin từ các số liệu báo cáo do Chi nhánh cung
cấp, tham khảo các sách chuyên ngành, thông tin từ báo, tạp chí…
Phương pháp quan sát: quan sát tình hình thực tế tại Chi nhánh
Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung chuyên đề bao gồm 3 phần lớn:
Phần 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng của ngân hàng
thương mại
Phần 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Chi nhánh Chương Dương Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương
Việt Nam
Phần 3: Kiến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Chương Dương Ngân hàng thương
mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam

2
PHẦN I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bộ về mặt
vốn, lao động hay doanh thu. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể chia thành ba loại,
cũng căn cứ vào quy mô, là: Doanh nghiệp siêu nhỏ, Doanh nghiệp nhỏ, Doanh
nghiệp vừa. Theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp vừa và nhỏ bao
gồm:
• Doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 10 người,
tổng tài sản có giá trị không quá 100.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không
quá 100.000 USD.
• Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động từ 10 đến dưới 50
người, tổng tài sản có giá trị không quá 3 triệu USD và tổng doanh thu hàng năm
không quá 3 triệu USD.
• Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 50 đến dưới 300 lao động,
tổng tài sản có giá trị không quá 15 triệu USD và tổng doanh thu hàng năm không
quá 15 triệu USD.
Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ở Việt Nam, theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ, qui
định số lượng lao động trung bình hàng năm từ 10 người trở xuống được coi là
doanh nghiệp siêu nhỏ, từ 10 đến dưới 200 người lao động được coi là doanh
nghiệp nhỏ và từ 200 đến 300 người lao động thì được coi là doanh nghiệp vừa.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay chiếm trên 95% tổng số doanh
nghiệp trên toàn quốc với gần 120.000 doanh nghiệp. Trong đó, doanh nghiệp Nhà
nước chiếm 3,5%, còn lại chủ yếu là doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm xấp xỉ
97%. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp chiếm 17%, lĩnh vực xây dựng chiếm 14%, nông nghiệp

chiếm 14%, còn lại 55% số doanh nghiệp này hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ.
Những số liệu này cho thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam góp phần
3
đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của cả nước.
1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ mang những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có vốn đầu tư
ban đầu thấp, khả năng thu hồi vốn nhanh, tạo điều kiện tăng tốc độ vòng quay vốn.
Thứ hai, doanh nghiệp vừa và nhỏ không thuộc diện kinh doanh những mặt
hàng mang tính chất độc quyền, tính ổn định trong sản xuất kinh doanh không cao.
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có định hướng lâu dài trong hoạt động
kinh doanh mà thường xuyên thay đổi ngành nghề, cơ cấu mặt hàng, các mặt hàng
sản phẩm dịch vụ nhiều về chủng loại, nhưng không lớn về số lượng.
Thứ ba, tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ thường gọn nhẹ, các mối quan hệ nội bộ dễ điều chỉnh. Vì thế, doanh nghiệp
vừa và nhỏ có tinh linh hoạt cao, dễ thích ứng với biến động của nền kinh tế thị
trường. Công tác điều hàng mang tính trực tiếp, quan hệ giữa người quản lý và
người lao động khá chặt chẽ. Mô hình quản lý gọn nhẹ, ít trung gian đầu mối sẽ
giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí, tận dụng được các cơ hội kinh doanh
khi thời cơ đến.
Thứ tư, doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động đa dạng, phong phú, trong mọi
lĩnh vực , trong mọi thành phần kinh tế như sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhân, sở
hữu hỗn hợp, sở hữu nước ngoài. Ở Việt Nam, doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là
doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Thứ năm, năng lực tài chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ thấp dẫn đến vốn
đầu tư cho doanh nghiệp hạn hẹp cùng với khả năng tiếp cận vốn vay của doanh
nghiệp còn nhiều hạn chế, khả năng tự tích lũy thấp nên nhiều doanh nghiệp phải
tìm đến con đường kinh doanh liên kết. Khi tìm đến con đường này, các doanh
nghiệp sẽ phát huy được sức mạnh tập thể, nâng cao uy tín cũng như giá trị tài sản,
việc tiếp cận với vốn tín dụng cũng sẽ dễ dàng hơn.

Thứ sáu, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp do hạn
chế về vốn, trình độ công nghệ, phương thức quản lý. Đồng thời, khả năng tiếp cận
thông tin, tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp loại này vẫn chưa cao. Đây
chính là yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
Trong những năm gần đây, người ta đã nhận thấy nền kinh tế càng phát triển
4
thì vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ càng trở nên quan trọng, khu vực các
doanh nghiệp vừa và nhỏ là nhân tố kinh tế cực kỳ quan trọng thúc đẩy và mở rộng
cạnh tranh, đảm bảo ổn định kinh tế, phòng chống nguy cơ khủng hoảng… Vai trò
này được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong sự tăng
trưởng của nền kinh tế và đóng góp ngày càng nhiều trong giá trị GDP. Doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số về mặt số lượng trong tổng số các cơ sở sản suất
kinh doanh và ngày càng tăng mạnh. Ở hầu hết các nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ
chiếm khoảng trên dưới 90% tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ nhanh hơn các doanh nghiệp lớn. Ở Việt Nam, con số này
ở mức trên 95% nên hàng năm các doanh nghiệp này cung cấp một khối lượng sản
phẩm hàng hóa đa dạng và phong phú, đóng góp đáng kể vào tổng thu nhập quốc
nội. Trên thế giới, phần đóng góp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng
50% GDP ở mỗi nước; ở Việt Nam là trên 40%.
Thứ hai, doanh nghiệp vừa và nhỏ giải quyết một số lượng lớn chỗ làm việc
cho dân cư, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói, giảm nghèo và ổn
định xã hội. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể thành lập dễ
dàng với số vốn nhỏ, hoạt động ở nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau và nhiều
khu vực địa lý kể cả các khu vực vùng sâu, vùng xa, miền núi mà các doanh nghiệp
lớn khó có thể vươn tới. Sự tồn tại và kinh doanh có hiệu quả của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ đã tạo thu nhập và việc làm cho người lao động. Ở hầu hết các nước trên
thế giới, doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm cho khoảng 50%-80% lao động
trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, còn ở Việt Nam là 70%.

Thứ ba, các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần làm năng động nền kinh tế
trong cơ chế thị trường. Nguyên nhân là do lợi thế quy mô vừa và nhỏ, chuyển đổi
mặt hàng nhanh, tận dụng các nguồn nguyên vật liệu, nhân lực tại chỗ, những nơi
ko thích hợp cho sản xuất lớn nhưng lại sẽ lãng phí nếu không sản xuất.
Thứ tư, doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự
phát triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu theo vùng, lãnh thổ. Thông thường các
doanh nghiệp lớn tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế phát triển như các thành phố
lớn, nơi có cơ sở hạ tầng phát triển nhưng lại không đáp ứng được tất cả các yêu cầu
5
như: lưu thông hàng hóa, dịch vụ, phát triển tiểu thủ công nghiệp, giải quyết lao
động, ổn định đời sống nhân dân… Chiều hướng đó sẽ gây ra tình trạng mất cân đối
nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa xã hội giữa thành thị với nông
thôn, giữa các vùng trong cả nước. Với ưu thế là năng động, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ sẽ là động lực chính để phát triển các làng nghề truyền thống, tận dụng
nguồn lao động tại địa phương phù hợp với tiềm năng của từng vùng, đặc biệt các
vùng có tiềm năng chỉ vừa đủ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự phát triển của
loại hình doanh nghiệp này góp phần làm tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và làm
thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân và góp phần
đa dạng hóa cơ cấu công nghiệp.
Thứ năm, doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần quan trọng trong việc thu hút
vốn đầu tư trong dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn vốn địa phương. Do tính chất
nhỏ lẻ, dễ phân tán, đi sâu vào dân cư và yêu cầu số lượng không nhiều nên các
doanh nghiệp vừa và nhỏ có tác động rất lớn trong việc thu hút các nguồn nhỏ lẻ,
nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh, thúc đẩy đầu tư
phát triển.
Thứ sáu, doanh nghiệp nhà nước góp phần làm tăng nguồn hàng xuất khẩu
và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Hiện nay, trong xu hướng hội nhập thì
quan hệ giao lưu, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước là một tất yếu và ngày
càng gắn bó khăng khít. Do đó, các sản phẩm truyền thống của từng nước đã trở
thành nguồn xuất khẩu quan trọng, vừa có ý nghĩa quảng bá cho hình ảnh của đất

nước đó, vừa tăng thêm thu nhập cho quốc gia. Việc tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thúc đẩy việc khai thác tiềm năng các ngành nghề
truyền thống ở các địa phương của từng nước. Bên cạnh đó, việc thành lập các
doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ làm tăng khả năng cung ứng sản phẩm và dịch vụ cho
xã hội. Cùng với đó, ngân sách Nhà nước cũng được tăng lên. Mặc dù số đóng góp
của mỗi doanh nghiệp vừa và nhỏ là không lớn, nhưng với số lượng đông đảo thì sự
đóng góp đó là đáng kể.
Thứ bảy, doanh nghiệp vừa và nhỏ hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh
nghiệp lớn thông qua việc cung cấp nguyên vật liệu, thực hiện các hợp đồng phụ,
làm đại lý tạo lập các kênh phân phối sản phẩm. Một doanh nghiệp lớn để đảm bảo
6
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thường phải có một mạng lưới các nhà
cung cấp và phân phối sản phẩm. Những đối tượng này, không ai khác chính là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này giúp cho các doanh nghiệp lớn làm giảm được
sự ảnh hưởng do biến động của thị trường. Mặt khác, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
làm hạn chế sự độc quyền của các tập đoàn lớn, duy trì tính cạnh tranh lành mạnh
của nền kinh tế, đảm bảo lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Bản thân các
doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cạnh tranh với nhau gay gắt nhằm tìm một chỗ đứng
cho mình trên thị trường để tồn tại và hơn nữa, để phát triển thành các doanh nghiệp
lớn. Chính yếu tố này làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn, dễ thích nghi hơn
trước những biến động của thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu sử dụng các công nghệ trung gian vào
sản xuất kinh doanh. Họ tìm mọi cách sử dụng tối đa những công nghệ đó, tìm hiểu
những phương pháp sử dụng hiệu quả và đặc biệt luôn tìm cách sáng tạo, cải tiến
công nghệ ở một mức độ nào đó. Quá trình này thúc đẩy nhanh tốc độ chuyển giao
công nghệ, tránh lãng phí nguồn lực về tri thức của mỗi quốc gia.
Thứ tám, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra môi trường thuận lợi cho việc
đào tạo và phát triển kỹ năng kinh doanh. Mọi người khi làm quen với môi trường
kinh doanh thường bắt đầu với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ những doanh nghiệp
vừa và nhỏ, các nhà kinh doanh sẽ được làm quen với sự cạnh tranh, tiếp cận các kỹ

năng quản lý cơ bản, tích lũy kinh nghiệm cho bản thân. Họ sẽ là người lãnh đạo
các doanh nghiệp này phát triển thành các doanh nghiệp lớn hoặc tự tìm kiếm các
doanh nghiệp lớn để phát triển hơn nữa năng lực của mình. Nguồn nhân lực về quản
lý vì thế được nâng cao cả về số lượng và chất lượng.
1.4. Nguồn vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cũng như bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào trong nền kinh tế, nguồn vốn
của doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa vào hai nguồn sau:
Thứ nhất là nguồn vốn chủ sở hữu. Đây là số vốn của các chủ sở hữu mà
doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Nguồn vốn chủ sở hữu do chủ doanh
nghiệp và các nhà đầu tư góp vốn hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh, do đó
nguồn vốn chủ sở hữu không phải là một khoản nợ. Nguồn vốn chủ sở hữu bao
gồm:
• Vốn đóng góp của các nhà đầu tư để thành lập mới hoặc mở rộng
7
doanh nghiệp. Chủ sở hữu vốn của doanh nghiệp có thể là Nhà nước, cá nhân hoặc
các tổ chức tham gia góp vốn, các cổ đông mua và nắm giữ cổ phiếu;
• Các khoản thặng dư vốn cổ phần do phát hành cổ phiếu cao hơn hoặc
thấp hơn mệnh giá;
• Các khoản nhận biếu, tặng, tài trợ (nếu được ghi tăng vốn chủ sở
hữu);
• Vốn được bổ sung từ kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
theo quy định của chính sách tài chính hoặc quyết định của các chủ sở hữu vốn, của
Hội đồng quản trị,. . .
• Các khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá hối
đoái phát sinh trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản, và các quỹ hình thành tư lợi
nhuận sau thuế (Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, các quỹ khác thuộc
vốn chủ sở hữu, lợi nhuận chưa phân phối, nguồn vốn đầu tư XDCB,. . .);
• Giá trị cổ phiếu quỹ làm giảm nguồn vốn chủ sở hữu.
Đây là nguồn vốn an toàn nhất cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc mở rộng
kinh doanh dựa trên nguồn vốn này là không khả thi đối với các doanh nghiệp vừa và

nhỏ vì hạn chế về tiềm lực tài chính. Bên cạnh đó, việc sử dụng vốn chủ sở hữu làm
cho các doanh nghiệp không tận dụng được khoản tiếp kiệm thuế nhờ đòn bẩy nợ.
Thứ hai là vốn vay. Các nguồn tín dụng chính thức mà các doanh nghiệp
hiện có thể tiếp cận được là từ trái phiếu, cổ phiếu, tín dụng thương mại, tín dụng
ngân hàng…
Tiếp cận vốn thông qua thị trường chứng khoán chính là bán cổ phiếu và trái
phiếu công ty ra công chúng. Cổ phiếu chính là một công cụ huy động vốn một cách
nhanh chóng của doanh nghiệp. Ngoài ra, cổ phiếu còn nhiều ưu điểm khác như:
mệnh giá thấp nên dễ thu hút nhà đầu tư, thủ tục đơn giản, là nguồn vốn dài hạn
tương đối ổn định Tuy nhiên, thị trường chứng khoán đang trong giai đoạn “lình
xình” và cổ phiếu cũng có nhược điểm như: chỉ có công ty đại chúng (tức công ty
cổ phần nằm trong các loại hình mà Nhà nước quy định) mới được phép phát hành
cổ phiếu hoặc doanh nghiệp phải có vốn điều lệ từ 10 tỉ đồng trở lên, trong khi đã là
doanh nghiệp nhỏ thì thường có vốn điều lệ thấp hơn mức này; ngoài ra, phát hành
cổ phiếu doanh nghiệp phải chia sẻ lợi nhuận với cổ đông theo tỷ lệ góp vốn, chi
phí sử dụng vốn cao Còn đối với trái phiếu cũng là công cụ hữu hiệu để doanh
8
nghiệp huy động vốn trung hạn hoặc cho các dự án. Nhưng trái phiếu cũng có
nhược điểm như: để vay vốn từ trái phiếu đòi hỏi doanh nghiệp phải là doanh
nghiệp lớn và được sự bảo lãnh tốt; hơn nữa, giao dịch trái phiếu trên thị trường
chứng khoán hiện tại chưa sôi động, chi phí phát hành cao, áp lực trả lãi và nợ gốc,
phát hành trái phiếu quá mức sẽ giảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nên kế
hoạch sử dụng vốn phải rất khả thi.
Nguồn vốn tín dụng thương mại được hình thành dưới dạng các khoản phải
thu có ảnh hưởng lớn tới các doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.
Tỷ lệ nguồn vốn tín dụng thương mại có thể chiếm đến 20% tổng nguồn vốn, thậm
chí lên tới 40%. Đây là một phương thức tài trợ có chi phí thấp, tiện dụng và linh
hoạt trong hoạt động kinh doanh, tạo cơ hội cho việc mở rộng các quan hệ hợp tác
kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên, có thể thấy rằng nguồn vốn tín dụng
thương mại dựa trên sự tín nhiệm trong kinh doanh giữa các đối tác với nhau nên

điều này gây ra những cản trở cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tiếp cận
nguồn vốn này.
Các doanh nghiệp cũng có thể tiếp cận nguồn vốn thông qua các công ty cho
thuê tài chính. Công ty cho thuê tài chính là tổ chức phi tín dụng, hoạt động gần
giống như ngân hàng. Các công ty thực hiện cho thuê tài chính dưới hình thức
không cần thế chấp ngân hàng. Thế nhưng, thời gian qua còn nhiều doanh nghiệp
vừa và nhỏ hầu như chưa tiếp cận dịch vụ này vì các loại hình của các hình thức này
chưa đa dạng, chỉ ưu tiên cho các khách hàng thuê tài chính mua các thiết bị thông
dụng phục vụ sản xuất, kinh doanh như: phương tiện vận tải (ô tô, tàu), máy ủi, máy
móc văn phòng, thiết bị ngành mà loại trừ các thiết bị có khấu hao lớn và phức
tạp, hoặc có giá trị vài chục tỉ đồng. Ngoài ra, khi chọn cách tiếp cận nguồn vốn
này, doanh nghiệp ngoài tham gia 20% vốn trên giá trị tài sản còn phải ký quỹ thêm
khoảng 10%, quỹ này không được xem là trả nợ trước và được khấu trừ vào kỳ nợ
cuối cùng.
Như vậy, tín dụng ngân hàng được xem là nguồn vốn căn bản của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ bởi ngân hàng là một tổ chức tài chính huy động vốn từ nhiều
nguồn khác nhau, vì thế luôn có đủ khả năng cung cấp các nguồn tài trợ ngắn, trung
và dài hạn cho các doanh nghiệp trong các dự án mở rộng hoặc đầu tư theo chiều
9
sâu của doanh nghiệp. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm như tính
linh hoạt về thời hạn, sự đa dạng về hình thức tài trợ. Tuy nhiên, nó hạn chế sự tiếp
cận của doanh nghiệp vì các điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí
sử dụng vốn.
2. Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ
2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một mắt xích quan trọng trong quá trình phát triển của cả một
nền kinh tế bởi tín dụng thúc đẩy, làm cho nền kinh tế không những thay đổi về
lượng mà còn thay đổi về chất. Đã có rất nhiều những khái niệm khác nhau về tín
dụng tồn tại qua các thời kỳ; song, tín dụng có thể được hiểu một cách chung nhất

như sau:
Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giao dịch giữa hai
chủ thể; trong đó, người sở hữu chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị cho
người sử dụng, sau một thời gian nhất định, người sở hữu sẽ thu hồi lại một lượng
giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên
cho vay (ngân hàng) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác),
trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời
hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn
gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Tóm lại, quan hệ tín dụng ngân hàng, cũng như quan hệ tín dụng, bao giờ
cũng dựa trên ba đặc tính cơ bản: lòng tin, tính thời hạn và tính hoàn trả.
2.2. Những đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng rất phong phú và đa dạng.
Theo các tiêu thức khác nhau thì các loại tín dụng cũng được phân loại khác nhau.
Các loại tín dụng khác nhau lại có những đặc điểm khác nhau. Tín dụng ngân hàng
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những đặc trưng như sau:
Thứ nhất, do quy mô sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
không lớn, cùng với đó, việc tiếp cận thôgn tin và công nghệ tiên tiến thường là một
trở ngại lớn khó vượt qua nên tín dụng cho loại hình các doanh nghiệp này thường
không lớn lắm.
10
Thứ hai, do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan nền hầu hết
các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ vay các khoản vốn ngắn hạn. Các khoản vốn này
chủ yếu phục vụ cho quá trình sản xuất chứ chưa có tác dụng nâng cao, mở rộng
năng lực sản xuất.
Thứ ba, vì thường có vốn chủ sở hữu nhỏ, quy mô sản xuất nhỏ, thương hiệu
chưa được biết đến rộng rãi cùng với hạn chế trong khả năng trình bày về sự hiểu
quả của phương án sản xuất kinh doanh nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đủ

sức thuyết phục đối với các ngân hàng, do đó họ khó tiếp cận được với nguồn vốn
của ngân hàng. Thêm vào đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường hạn chế về mặt
tài sản thế chấp. Vì thế, việc vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc biệt khó
khăn cho các dự án đầu tư trung và dài hạn.
2.3. Các hình thức tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản tín dụng theo từng nhóm dựa
trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại tín dụng có cơ sở khoa học là tiền đề
để thiết lập các quy trình để cung cấp vốn cho khách hàng một cách thích hợp và
nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Các hình thức tín dụng được phân loại
dựa trên những căn cứ sau đây:
∗ Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
• Tín dụng ngắn hạn: là loại hình tín dụng có thời hạn dưới 1 năm, được
ngân hàng sử dụng để cho vay vốn lưu động tạm thời thiếu ở các
doanh nghiệp.
• Tín dụng trung hạn: là loại hình tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm,
các doanh nghiệp sử dụng loại vốn vay này để mua sắm thêm máy
móc thiết bị, dây chuyền sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động,
hạ giá thành sản phẩm hoặc xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn
thu hồi vốn nhanh.
• Tín dụng dài hạn: là loại hình tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được
sử dụng để cung cấp vốn cho việc xây dựng cơ bản như: đầu tư xây
dựng các xí nghiệp mới, xây dựng cơ sở hạ tầng…
Cách phân chia này giúp ngân hàng biết được nhu cầu vốn của các doanh
nghiệp trong từng thời kỳ nhất định, để từ đó, điều chỉnh mức cung tín dụng cho
phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế.
∗ Căn cứ vào đối tượng tín dụng:
11
• Tín dụng vốn lưu động: là loại hình tín dụng được cung cấp để hình
thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế như cho vay để dữ trữ
hàng hóa đối với xí nghiệp, thương nghiệp, bù đắp vốn lưu động thiếu

hụt tạm thời. Loại tín dụng này được thực hiện dưới hai phương thức:
 Cho vay dữ trữ hàng hóa, cho vay chi phí sản xuất.
 Cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức
chiết khấu kỳ phiếu với thời hạn cho vay là ngắn hạn.
• Tín dụng vốn cố định: là loại hình tín dụng mà ngân hàng cho vay để
hình thành tài sản cố định trong các doanh nghiệp, doanh nghiệp dựng
vốn này để mua sắm máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất, xây
dựng nhà xưởng, kho bãi… Tín dụng vốn cố định được thực hiện theo
các phương thức: tín dụng theo dự án, tín dụng thuê mua, tín dụng trả
góp… Thời hạn cho vay đối với loại này là trung và dài hạn.
∗ Căn cứ vào mức độ đảm bảo tiền vay:
• Tín dụng có đảm bảo: là loại hình tín dụng, trong đó, ngân hàng cung
cấp với điều kiện phải có tài sản thế chấp hoặc cần có bảo lãnh của
bên thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân
hàng, khi vay vốn, đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ
pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn
thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn nhằm bù lại khoản tiền vay trong
trường hợp người vay không có khả năng trả nợ.
• Tín dụng không có đảm bảo: là loại hình tín dụng, trong đó, khoản
vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của bên thứ
ba. Việc cho vay chỉ dựa trên uy tín. Đối với những khách hàng tốt,
trung thực trong kinh doanh, có khả nâng tài chính mạnh, quản trị có
hiểu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng mà không đòi hỏi nguồn
thu nợ bổ sung.
∗ Căn cứ vào mục đích tín dụng:
• Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm
và xây dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh
vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ
• Cho vay công nghiệp và thương mại: là cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.

12
• Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản
xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, con giống, lao
động…
∗ Căn cứ vào phương thức cấp tiền vay:
• Phương thức cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn, khách hàng và
ngân hàng làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín
dụng, mỗi hợp đồng có thể phát tiền vay một lần hay nhiều lần phù
hợp với tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn thực tế của khách hàng.
Mỗi lần nhận tiền vay, khách hàng phải làm giấy nhận nợ.
• Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng: khách hàng và ngân
hàng căn cứ vào dự án, phương thức sản xuất, kế hoạch sản xuất
kinhdoanh để tính toán và thỏa thuận một hạn mức tín dụng được
duy trì trong một thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất
kinh doanh. Phương thức cho vay này áp dụng cho các doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả, khả năng quay vòng vốn nhanh, hệ số
thanh toán cao, vay trả thường xuyên.
∗ Căn cứ vào hình thức giá tự có:
• Cho vay bằng tiền: là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng, được
thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau.
• Cho vay bằng tài sản: là loại cho vay được áp dụng phổ biến dưới
hình thức tài trợ thuê mua.
Ngoài ra, các hình thức tín dụng còn được phân chia căn cứ vào phương thức
hoàn trả tiền vay (trả nợ một lần trong kỳ, trả nợ nhiều lần trong kỳ), xuất xứ vốn
vay (cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp), đối tượng được cấp tín dụng (tín dụng
cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính khác; tín dụng cho Nhà nước vay).
Các hình thức tín dụng là sản phẩm của ngân hàng thương mại trên thị
trường kinh doanh tín dụng và cung cấp dịch vụ ngân hàng. Chính sự phong phú về
nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp cùng với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường
ngân hàng đã làm cho các sản phẩm tín dụng của ngân hàng ngày càng được cải

thiện theo hướng đi lên. Để đạt được doanh số và hiệu quả cho vay cao, các ngân
hàng đã không ngừng tìm cách đổi mới nghiệp vụ kinh doanh của mình cho phù
13
hợp với các đối tượng khách hàng. Điều đó có nghĩa là không phải đối với mọi
doanh nghiệp, ngân hàng đều cung cấp một sản phẩm tín dụng như nhau mà đối với
từng khách hàng, ngân hàng sẽ áp dụng một hình thức tín dụng hợp lý, với một mức
lãi suất và thời hạn cho vay phù hợp. Nhận thức rõ vấn đề này là vô cùng cần thiết
đối với ngân hàng, nhất là khi cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một
đối tượng khách hàng có độ rủi ro cao.
3. Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương
mại
3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp
với sự phát triển kinh tế xã hội, phù hợp với khả năng của ngân hàng, và số vốn vay
này được khách hàng đứa vào quá trình sản xuất, kinh doanh tạo ra số tiền lớn hơn,
đảm bảo khả năng trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng đủ và đúng hạn, đồng thời, khách
hàng vay có thể trang trải đủ chi phí và có lợi nhuận, khối lượng sản phẩm hàng hóa
hữu ích cung cấp cho xã hội tăng.
Như vậy, khi xem xét chất lượng tín dụng của ngân hàng nói chung và đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, cần tính đến ba nhân tố: ngân hàng thương
mại, khách hàng và nền kinh tế.
Xét từ giác độ ngân hàng thương mại: chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm
vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích
cực của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường,
đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng
phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ ngày càng tăng trưởng,
tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa
ngắn hạn, trung và dài hạn trong nền kinh tế.
Xét từ giác độ khách hàng: thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am
hiểu khách hàng sẽ làm cho ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của ngân hàng, đảm

bảo thỏa mãn nhu cầu hợp lý về vốn cho họ. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay,
chất lượng là yêu cầu hàng đầu, vì vậy, chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu
hợp lý của khách hàng, lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản không phiền hà, thu hút
được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng phù
14
hợp với tốc độ phát triển của xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng,
góp phần làm lành mạnh tài chính khách hàng.
Xét từ giác độ nền kinh tế: hoạt động tín dụng trong những năm gần đây
phản ánh rõ nét sự năng động của nền kinh tế khi chuyển sang cơ chế mới với nhiều
khái niệm mới, nội dung mới để đạt được sự thống nhất về nhận thức và tạo điều
kiện nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Tín dụng phục vụ sản xuất kinh
doanh, tạo việc làm cho người lao động, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, góp phần
tăng trưởng kinh tế và khai thác khả năng tiềm ẩn trong nền kinh tế, thu hút tối đa
nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vay vốn nước ngoài có lợi cho nền kinh tế
phát triển.
Như vậy, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, phản ảnh mức độ
thích nghi của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể
hiến sức mạnhc ủa một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Chất lượng
tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được khách hàng tốt, thủ tục đơn
giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí tổng thể về sản xuất, chi
phí nghiệp vụ…
3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Có nhiều chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng,
trong đó có các chỉ tiêu cơ bản sau:
∗ Tỷ lệ nợ xấu:
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/04/2005 của
Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi,
nợ không thể đòi,…) được định nghĩa là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5 quy
định tại điều 6 hoặc điều 7 của Quy định này.
Nợ xấu mang các đặc trưng sau:

∗ Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các
cam kết này đã hết hạn.
∗ Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn
đến có khả năng ngân hàng không thu hồi được cả gốc lẫn lãi.
∗ Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị
phát mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi.
∗ Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.
15
Cụ thể, các khoản nợ xấu bao gồm:
- Nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3)
- Nợ nghi ngờ (nợ nhóm 4)
- Nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5)
Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu và tổng dư nợ của ngân hàng
thương mại tại một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm.
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Tỷ lệ nợ xấu =
Dư nợ xấu
X 100%
Tổng dư nợ cho vay
Cũng theo quy định này, các ngân hàng có thể chọn phân loại nợ theo
phương pháp định lượng hay phương pháp định tính với các cách xếp loại khác
nhau như sau:
Phương pháp định lượng của Quyết định 493 phân loại nợ thành năm nhóm,
bao gồm:
∗ Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có
khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát
sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp
nhận thanh toán
∗ Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ

∗ Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180
ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày
∗ Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày
và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày
∗ Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày,
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính
phủ xử lý
Theo phương pháp này, mặc dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để
phân loại nợ như trên nhưng tổ chức tín dụng vẫn có quyền chủ động tự quyết định
phân loại bất kỳ khoản nợ nào vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức
độ rủi ro cao nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm.
Phương pháp định tính của Quyết định 493 cũng quy định phân loại nợ thành
năm nhóm tương ứng như năm nhóm nợ theo cách phân loại nợ theo phương pháp
16
định lượng, nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ,
mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro của
tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Các nhóm nợ bao gồm:
∗ Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng
thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn
∗ Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh già là có khả năng thu
hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả
năng trả nợ
∗ Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có
khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn
∗ Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn
thất cao
∗ Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không
còn khả năng thu hồi, mất vốn
Tỷ lệ nợ xấu được coi là chỉ tiêu quan trọng và phổ biến nhất khi đánh giá về
chất lượng tín dụng ngân hàng vì nó biểu hiện cho những rủi ro tiềm ẩn về khả năng

thu hồi gốc và lãi vay của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng thấp thì chất lượng tín dụng
của ngân hàng càng cao và ngược lại. Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước
cho phép tỷ lệ nợ xấu của các Ngân hàng thương mại không được vượt quá 5%,
nghĩa là trong 100 đồng vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ xấu tối đa chỉ được
phép là 5 đồng. Tuy nhiên, để chỉ tiêu này không vượt quá quy định của Ngân hàng
Nhà nước, hầu hết các ngân hàng thương mại đều phân loại nợ theo phương pháp
định lượng do việc phân loại nợ theo phương pháp định tính có nguy cơ làm tăng tỉ
lệ nợ xấu của một ngân hàng gấp 2-3 lần so với cách phân loại định lượng. Ngân
hàng Nhà nước trong một khảo sát công bố mới đây cũng nhận thấy, phần đông các
tổ chức tín dụng đang thực hiện phân loại nợ theo quy định tại Điều 6 (theo phương
pháp định lượng) đều có tỉ lệ nợ xấu dưới 3%.
∗ Tỷ lệ nợ quá hạn:
Bên cạnh tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nợ quá hạn cũng góp phần phản ánh chất lượng
tín dụng ngân hàng, tuy với mức độ thấp hơn.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá
hạn. Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả
17
đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện gia hạn nợ. Các khoản nợ quá
hạn bao gồm:
- Nợ cần chú ý
- Nợ dưới tiêu chuẩn.
- Nợ nghi ngờ
- Nợ có khả năng mất vốn
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Dư nợ quá hạn
x 100%
Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu này cho biết việc khách hàng không thực hiện được việc trả nợ đúng
hạn theo cam kết. Cũng như tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nợ quá hạn cao phản ánh tình hình

tín dụng của ngân hàng có chất lượng thấp. Một tỷ lệ nợ quá hạn được coi là chấp
nhận được là dưới 3%.
Các khoản nợ quá hạn phát sinh có thể do nhiều nguyên nhân chủ quan (trình
độ quản lý của doanh nghiệp còn yếu kém, công nghệ sản xuất lạc hâu, doanh nghiệp
không thích nghi được với thị trường, doanh nghiệp bị đình trệ sản xuất…) và nguyên
nhân khách quan (rủi ro trong kinh doanh do thiên tai, chiến tranh, có các khoản nợ
do bị chậm thanh toán tiền hàng…). Trong thực tế, rủi ro trong hoạt động kinh doanh
là không thể tránh khỏi, do đó, các ngân hàng thương mại phải tùy thuộc vào đối
tượng khách hàng của mình mà thiết lập mức giới hạn tỷ lệ nợ quá hạn nhất định.
∗ Hiệu suất sử dụng vốn:
Đây là chỉ tiêu dựng để so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với khả
năng huy động vốn của ngân hàng đó tại một thời điểm, đồng thời, xác định hiệu
quả của một đồng vốn huy động. Chỉ tiêu này được tính như sau:
Hiệu suất sử
dụng vốn
=
Tổng dư nợ
Tổng vốn huy động
Thông thường, nếu nhìn vào cách tính, ta sẽ thấy chỉ tiêu này càng lớn chứng
tỏ ngân hàng sử dụng nhiều vốn huy động và hoạt động của ngân hàng sẽ hiệu quả
hơn. Tuy nhiên, điều này chưa chắc đã đúng. Thực ra, ta chưa thể khẳng định được
hiệu suất sử dụng vốn cao thì chất lượng tín dụng cựa ngân hàng là tốt và ngược lại,
bởi tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động lớn song có thể tỷ lệ nợ đủ tiêu chuẩn vẫn ở tỷ lệ
thấp, làm ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Ngoài ra, ta có thể thấy rằng
ngân hàng có hiệu suất sử dụng vốn cao chưa hẳn đã tốt hoặc ngược lại, do nếu chỉ
18
tiêu này có giá trị lớn (càng lớn hơn 1, tức tổng số tiền huy động ít hơn tổng số tiền
cho vay) thì ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn khác có chi phí cao hơn; đồng
thời, nếu hiệu suất sử dụng vốn thấp (có giá trị càng nhỏ hơn 1, tức tổng số tiền huy
động được nhiều hơn tổng số tiền cho vay) thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng thừa

vốn. Do đó, chỉ tiêu này chỉ mang tính tương đối giúp so sánh khả năng cho vay và
huy động vốn của ngân hàng. Vì vậy, khi xem xét ảnh hưởng của chỉ tiêu này tới
chất lượng tín dụng của ngân hàng, chúng ta phải xem xét một cách tổng hợp chỉ
tiêu này trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác.
∗ Tỷ lệ thu nợ:
Tỷ lệ thu nợ =
Doanh số thu nợ
x 100%
Doanh số cho vay
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả tín dụng trong việc thu nợ của ngân hàng. Nó
phản ánh với doanh số cho vay nhất định thì ngân hàng sẽ thu về được bao nhiêu
đồng vốn. Tỷ lệ này càng cao càng tốt và càng chứng tỏ ngân hàng có nhiều khoản
tín dụng có chất lượng tốt.
∗ Vòng quay vốn tín dụng:
Chỉ tiêu này đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của ngân hàng trong
một thời gian nhất định (thường là một năm), phản ánh thời gian thu hồi nợ của
ngân hàng là nhanh hay chậm và được xác định như sau:
Vòng quay vốn
tín dụng
=
Doanh số thu nợ
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này càng tăng thì tính tổ chức, quản lý tín dụng càng tốt, chất lượng
tín dụng càng cao. Tuy nhiên, chỉ tiêu này chỉ phản ánh một cách tương đối, vì
lượng vốn do các doanh nghiệp sản xuất vay chiếm tỷ trọng lớn dư nợ thì chỉ tiêu
này của ngân hàng sẽ thấp hơn (vốn quay vòng chậm hơn) so với lượng vốn do các
doanh nghiệp thương mại vay chiếm tỷ trọng lớn dư nợ. Do vậy, để có sự chính xác
trong xem xét chất lượng tín dụng thông qua chỉ tiêu này thì các tiêu thức tính toán
phải thống nhất, vòng quay vốn tín dụng phải tính toán cho từng loại vay, thời hạn
vay và từng đối tượng vay cụ thể.

19
∗ Tỷ suất lợi nhuận của hoạt động tín dụng:
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Tỷ suất lợi nhuận của
hoạt động tín dụng
=
Lợi nhuận từ hoạt động
tín dụng
x 100%
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời của các khoản tín dụng, một khoản tín
dụng ngắn hạ hay dài hạn không thể xem là có chất lượng cao nếu nó không đem lại
lợi nhuận cho ngân hàng. Chỉ tiêu này có giá trị lớn chứng tỏ các khoản vay của
ngân hàng sinh lời và ngược lại. Đánh giá chất lượng tín dụng thông qua chỉ tiêu
này cũng chỉ mang tính chất tương đối vì chỉ tiêu này cũng phụ thuộc khá nhiều vào
chính sách lãi suất. Chẳng hạn trường hợp khách hàng được vay một khoản tín
dụng, cam kết trả nợ theo niên kim cố định và đã trả nợ đầy đủ qua các kỳ đầu,
nhưng đến kỳ cuối cùng, do khó khăn trong sản xuất kinh doanh, khách hàng này
không trả được nợ đúng hạn, lúc này khoản vay có sinh lời nhưng vẫn tồn tại một
khoản nợ quá hạn là một phần trong dư nợ gốc ban đầu nên cũng không thể khẳng
định đây là một khoản tín dụng có chất lượng tốt. Ngoài ra, khi so sánh chất lượng
tín dụng giữa các ngân hàng thương mại, không thể kết luận được chất lượng tín
dụng của ngân hàng này cao hơn ngân hàng khác do có tỷ suất lợi nhuận của hoạt
động tín dụng cao hơn, nguyên nhân cũng bởi do sự khác nhau trong chính sách lãi
suất của từng ngân hàng. Vì vậy, chỉ tiêu này cũng nên được xem xét một cách
tương đối trong mối quan hệ với các chỉ tiêu và yếu tố quan trọng khác làm ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng.
3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng
Để có thể nâng cao được chất lượng tín dụng ngân hàng đối với doanh
nghiệp, ta phải hiểu rõ các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng để

từ đó phát huy những ảnh hưởng tích cực cũng như hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực.
Mặt khác, cả ngân hàng và doanh nghiệp cần cố gắng linh hoạt để phù hợp với
những quy định về hoạt động tín dụng của Nhà nước. Có như thế, cả ngân hàng và
20
doanh nghiệp mới đề ra được các biện pháp đúng đắn, cụ thể, linh hoạt để đạt được
mục tiêu hoạt động của mình một cách tốt nhất. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất
lượng tín dụng bao gồm:
a. Các nhân tố thuộc về ngân hàng
∗ Chính sách tín dụng của ngân hàng
Đây là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của ngân hàng, nó có ý nghĩa
quyết định sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Chính sách tín dụng chính là
quy định, hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng
cường chuyên môn hóa trong phan tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt
động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Chính sách tín
dụng của ngân hàng thương mại phải phù hợp với chính sách tín dụng của Ngân
hàng Nhà nước, với đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước; đồng thời,
cũng phải hài hòa giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng và người sử
dụng vốn vay. Muốn vậy, chính sách tín dụng phải được xây dựng trên cơ sở khoa
học và thực tiễn.
Chính sách tín dụng của ngân hàng gồm có những nội dung cơ bản sau:
chính sách khách hàng, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng, lãi suất và phí suất
tín dụng, thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ, các khoản đảm bảo, chính sách đối với các
tài sản có vấn đề. Những nội dung cơ bản, cụ thể trong chính sách tín dụng đã trỏ
thành xương sống trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Mục tiêu
của nó là giảm thiểu rủi ro tín dụng, phục vụ khách hàng trên cơ sở an toàn và làm
tăng khả năng sinh lời. Chính sách tín dụng của ngân hàng càng cụ thể, logic, chặt
chẽ, vẫn đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng, mà không làm bó
hẹp, gây ảnh hưởng không tốt đến khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng thì chất
lượng tín dụng của ngân hàng càng cao và ngược lại.
∗ Thông tin tín dụng

Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản lý có thể đưa ra những quyết định
cần thiết liên quan đến việc cho vay, quản lý đảm bảo tiền vay, giảm thiểu rủi ro tín
21
dụng, nâng cao hiệu quả tín dụng. Những quyết định đúng đắn này góp một phần
không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng tín dụng của khoản vay cũng như chất
lượng tín dụng chung của toàn bộ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Thông tin tín
dụng có thể thu thập được từ nguồn thông tin tín dụng sẵn có của ngân hàng, từ
khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh, từ nguồn trực tiếp, nguồn gián tiếp, từ các nguồn
thông tin của cơ quan pháp luật…
∗ Công tác tổ chức của ngân hàng
Nhân tố này không chỉ tác động đến chất lượng tín dụng mà còn tác động
đến mọi hoạt động của ngân hàng. Một ngân hàng có cơ cẩu tổ chức được sắp xếp
một cách khoa học, sự phân công công việc được tiến hành một cách cụ thể, có sự
liên kết giữa các bộ phận thì việc đáp ứng các yêu cầu của khách hàng sẽ được thực
hiện kịp thời, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, quản lý có hiệu của và an toàn các
khoản tín dung, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.
∗ Chất lượng, trình độ cán bộ tín dụng
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh
nói chung và với hoạt động ngân hàng nói riêng. Chính nhân viên tín dụng là những
người thu thập và xử lý thông tin về doanh nghiệp, đánh giá tài sản, các khoản nợ
của doanh nghiệp, phân tích luồng tiền, đưa ra quyết định cho vay, thu nợ, kiểm tra,
kiểm soát việc sử dụng vốn của doanh nghiệp, đồng thời kiểm tra, kiểm soát đối với
việc thu nợ… Như vậy, trình độ, kinh nghiệm của cán bộ tín dụng ảnh hưởng rất
lớn tới chất lượng của các khoản tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của
ngân hàng nói chung bởi đây là hoạt động chính và cơ bản của bất cứ một ngân
hàng nào. Vì vậy, cán bộ tín dụng phải có đạo đức tốt, giỏi chuyên môn nghiệp vụ,
như vậy sẽ giúp ngân hàng hạn chế tối đa những sai phạm có thể xảy ra để đem lại
những khoản tín dụng có chất lượng cho ngân hàng.
∗ Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Đây là công tác mà ngân hàng nào cũng cần tiến hành thường xuyên, liên tục

22
nhằm duy trì chất lượng, hiệu quả kinh doanh của mình, để phù hợp với các chính
sách, đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đã đề ra. Công tác này có tác dụng điều chỉnh hoạt
động tín dụng của ngân hàng cho đúng hướng, phát hiện những sai phạm trong quá
trình làm việc, trong đội ngũ cán bộ nhân viên, kiểm tra hiệu quả hoạt động tín dụng
nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung. Để làm tốt công tác
này, ngân hàng cần sắp xếp một đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, nghiệpv ụ, trung
thực làm nhiệm vụ này và có chế độ thưởng, phạt nghiêm minh. Có như thế, công
tác tín dụng mới được thực hiện đúng quy trình nhằm nâng cao chất lượng tín dụng.
b. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp
∗ Năng lực của doanh nghiệp
Không một doanh nghiệp nào đi vay lại không muốn món vay đem lại hiệu
quả. Nhưng nhiều khi do năng lực còn hạn chế, họ không thực hiện được mục đích
của mình và làm ảnh hưởng đến khoản tín dụng mà họ đã nhận từ ngân hàng, làm
giảm hoặc mất khả năng trả nợ. Như vậy là làm giảm chất lượng của khoản tín dụng
mà doanh nghiệp đã vay.
∗ Trình độ quản lý và điều hành của doanh nghiệp
Do trình độ của nhiều nhà lãnh đạo còn nhiều hạn chế (về học vấn, kiến thức,
kinh nghiệm thực tế…) nân nhiều khi công việc không được tổ chức, sắp xếp hợp
lý, doanh nghiệp chuyên môn hóa chưa cao, phân công công tác chưa rõ ràng, nhân
viên chưa làm việc với hiệu suất, mang lại hiệu quả cao, cán bộ lãnh đạo không dự
đoán được những biến động của thị trường, có những yếu kém trong marketing sản
phẩm… Do bảo thủ, nhiều nhà quản lý không dám đổi mới, khiến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp không có hiệu quả, dẫn đến tình trạng không thu hồi hết
được vốn và làm ảnh hưởng tới hiệu quả của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến
chất lượng của khoản tín dụng đã sử dụng.
∗ Đạo đức của khách hàng
Ngân hàng chỉ quyết định cho vay sau khi đã phân tích kỹ các yếu tố có liên
23

×