Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

tập san viện cơ học việt nam 30 năm xây dựng và phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.54 MB, 164 trang )

Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
VIỆN CƠ HỌC















(Sách kỷ niệm)





NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG NGHỆ

Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
VIỆN CƠ HỌC












(Sách kỷ niệm)







NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG NGHỆ
Hà Nội 2009









BAN BIÊN SOẠN
Trưởng ban: Dương Ngọc Hải, Nguyễn Đông Anh
Phó Trưởng ban: Đào Chí Thành, Trần Thị Ngọc Duyệt
Thư kí: Đào Như Mai, Nguyễn Hồng Phan

Các ủy viên: Lê Thị Minh Châu, Đặng Song Hà, Đinh Văn Mạnh,
Trịnh Văn Tín, Bùi Đình Trí, Nguyễn Thị Trung, Phạm Hữu Tự









Lời cảm ơn:

Cuốn sách được in với sự tài trợ của Tập đoàn FPT



iện Cơ học là một trong số những viện nghiên cứu khoa học của Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam được thành lập ngay sau ngày đất nước được hoàn toàn
giải phóng. Trải qua 30 năm xây dựng, Viện Cơ học đã trở thành một viện nghiên cứu
đầu ngành trong lĩnh vực Cơ học ở nước ta. Với những thành tựu trong nghiên cứu
khoa học, ứng dụng và phát triển công nghệ, đào tạo cán bộ và hợp tác quốc tế, Viện
Cơ học đã nhận được nhiều phần thưởng cao quý của Nhà nước và của Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam.

V
Chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng trong thời gian sắp tới với bề dày truyền
thống và kinh nghiệm trong suốt 30 năm qua Viện Cơ học sẽ tiếp tục phát triển, góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ
nghĩa.

Nhân dịp này, chúng tôi xin chúc toàn thể các đồng chí lãnh đạo, cán bộ và viên
chức Viện Cơ học luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và đạt được những kết quả xuất sắc
trong công tác.
Chủ tịch Viện Khoa học Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học
và Công nghệ Việt Nam Công nghệ và Môi trường Quốc hội
Nguyên Chủ tịch Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam




GS.TS. Châu Văn Minh GS.TSKH. Đặng Vũ Minh


3
Lời nói đầu
gày 10 tháng 4 năm 1979, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã kí Quyết định số
147/CP về việc thành lập Viện Cơ học trên cơ sở Phòng Cơ học thuộc Viện
Khoa học Việt Nam và GS.VS. Nguyễn Văn Đạo được bổ nhiệm làm Viện
trưởng đầu tiên. Ba mươi năm đã qua kể từ ngày đầu tiên ấy, Viện Cơ học đã trở thành
mái nhà yêu dấu và là nơi phấn đấu xây dựng của bao nhiêu thế hệ cán bộ. Có những
người đã mãi mãi ra đi, đã nghỉ hưu và cũng có những mái đầu xanh mới ra trường.
Trong quá trình xây dựng và phát triển để thực sự trở thành Viện Nghiên cứu Quốc gia
đầu ngành về Cơ học có biết bao sự kiện quan trọng, những kỉ niệm vui buồn, những
hình ảnh sinh động và tha thiết ngày càng đầy ắp trong trái tim của mỗi cán bộ.

N
Nhân dịp kỉ niệm 30 năm ngày thành lập, Viện Cơ học xuất bản cuốn sách “Viện
Cơ học, 30 năm xây dựng và phát triển” nhằm ghi lại các sự kiện và các hình ảnh sâu
sắc về những công lao đóng góp của các thế hệ cán bộ. Chúng tôi hy vọng rằng, cuốn

sách sẽ là nguồn động viên và suy ngẫm cho tất cả những ai đã và đang phấn đấu cho
một nền cơ học hiện đại của nước nhà. Cuốn sách gồm ba phần chính:
− Những giai đoạn xây dựng và phát triển,
− Một số hình ảnh,
− Những kỉ niệm sâu sắc.
Việc biên soạn sách kỉ yếu là một công việc khó khăn, đòi hỏi thời gian và công
sức của rất nhiều người. Chúng tôi đã tham khảo các tài liệu lưu trữ và tư liệu của các
đồng chí lãnh đạo và các cán bộ qua các thế hệ. Tuy vậy, do thời gian và khả năng có
hạn, việc biên soạn cuốn sách không thể tránh khỏi sơ suất và thiếu sót. Chúng tôi xin
chân thành cám ơn và mong được các anh chị em trong và ngoài Viện đóng góp thêm
ý kiến để sửa chữa và bổ sung trong lần kỉ niệm tiếp sau.
GS.TSKH. Nguyễn Đông Anh GS.TSKH. Dương Ngọc Hải

4


5
Mục lục

Lời nói đầu 3
Mục lục 5
Nh÷ng giai ®o¹n x©y dùng vμ ph¸t triÓn 9
Quá trình xây dựng và phát triển 11
1. Về tình hình trước khi thành lập Viện Cơ học 11
2. Sơ lược lịch sử phát triển của Viện Cơ học từ khi thành lập đến nay 12
3. Tóm tắt một số thành tựu về hoạt động khoa học và công nghệ của
Viện Cơ học trong 30 năm qua 18

4. Xây dựng đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất kĩ thuật 30
5. Viện Cơ học hôm nay 32

Chi bộ Viện Cơ học 63
Đoàn Thanh niên Viện Cơ học 65
Mét sè h×nh ¶nh 67
Nh÷ng kû niÖm s©u s¾c 105
Nhớ lại tiến trình thành lập Viện Cơ học năm 1979 107
Những bước đi ban đầu của Viện Cơ học thuộc Viện Khoa học Việt Nam 109
Tháng Tư 113
Viện Cơ học và những kỉ niệm khó quên trong tôi 114
Kí ức ngày về công tác tại Viện Cơ học 124
Giáo sư Nguyễn Văn Đạo - Cái duyên, cái nghiệp với Cơ học 125
Những kỉ niệm về Viện Cơ học - Giai đoạn 1997-2002 129
Một số hoạt động văn nghệ của cán bộ Viện Cơ học 132
Khoảng trời riêng 133
Viện Cơ học 30 năm xây dựng và phát triển
6
Những năm tháng vui buồn đáng nhớ 134
Những kỉ niệm khó quên 138
Hai lần đi Tây Nguyên từ 208D Đội cấn 144
Phô lôc 149
Khen thưởng cấp nhà nước tập thể và cá nhân 151
Cán bộ chủ chốt Viện Cơ học qua các thời kì 152
Danh sách cán bộ Phòng Cơ học thời điểm 10/4/1979 154
Các cán bộ đã nghỉ hưu từ Viện Cơ học 155
Những cán bộ đã trưởng thành từ Viện Cơ học 156

7
CHỦ TỊCH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TẶNG THƯỞNG TẬP THỂ CÁN BỘ VIÊN CHỨC VIỆN CƠ HỌC
HUÂN CHƯƠNG LAO ĐỘNG HẠNG NHẤT




8

9
Nh÷ng giai ®o¹n
x©y dùng vμ ph¸t triÓn

10


11
Quá trình xây dựng và phát triển
1. Về tình hình trước khi thành lập Viện Cơ học
uy Viện Cơ học được chính thức thành lập ngày 10 tháng 4 năm 1979, nhưng
trên thực tế, Cơ học đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từng bước xây
dựng lực lượng và tổ chức nghiên cứu từ những năm 1962. Những cán bộ đầu
tiên về Cơ học là các cử nhân tốt nghiệp từ Liên Xô và các trường Đại học trong nước,
thuộc Tổ nghiên cứu Toán-Cơ-Lí thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước (lúc đó bao gồm
cả Khoa học Xã hội và Khoa học Tự nhiên).

T
Năm 1965, các cán bộ Cơ học được tách ra thành một Phòng nghiên cứu độc lâp
trực thuộc Ủy ban Khoa học và Kĩ thuật Nhà nước với trưởng phòng đầu tiên là Tiến sĩ
(theo quy định trước đây là Phó Tiến sĩ) Trần Lưu Chương tốt nghiệp tại Liên Xô về lí
thuyết đàn hồi và dẻo. Lực lượng cán bộ lúc này đã có 3 tiến sĩ, 6 cử nhân và 4 kĩ thuật
viên.
Cuối năm 1968, lần đầu tiên Phòng Cơ học được bổ sung thêm một lực lượng
đông đảo các cán bộ mới tốt nghiệp, gồm 3 tiến sĩ, 5 cử nhân từ Liên Xô về và 2 kĩ sư,

1 cử nhân từ các trường đại học trong nước. Đến thời điểm này, phòng đã hình thành 4
nhóm nghiên cứu: nhóm Cơ học Chất lỏng - Chất khí do Tiến sĩ Nguyễn Văn Điệp phụ
trách, nhóm Cơ học Vật rắn Biến dạng do Tiến sĩ Đỗ Sơn phụ trách, nhóm Cơ học Đại
cương do Tiến sĩ Phạm Huyễn phụ trách và nhóm Điều khiển Tự động do Tiến sĩ
Nguyễn Thành Bang phụ trách.
Những nghiên cứu về Cơ học Vật rắn Biến dạng, đứng đầu là Tiến sĩ Trần Lưu
Chương và các đồng nghiệp, đã được áp dụng để tính toán cầu treo, cầu phao và các
giải pháp đảm bảo giao thông thời chiến. Việc đo đạc, tính toán ứng suất biến dạng và
dao động của kết cấu để đánh giá lại độ an toàn của các công trình bị đánh phá hoặc
mới được khôi phục cũng được thực hiện ngay trong thời kì chiến tranh phá hoại. Việc
tính toán khử rung cho các máy để bảo đảm vẫn vận hành sản xuất được ở các địa
điểm sơ tán của nhà máy cũng được các cán bộ của Phòng Cơ học thực hiện, kịp thời
phục vụ cho thực tiễn. Những nghiên cứu khoa học với trình độ cao vẫn được tiến
hành trong thời kì khó khăn nhất. Chính vì vậy, nhân dịp kỉ niệm 10 năm ngày thành
lập Viện Khoa học Việt Nam (tiền thân của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Viện Cơ học 30 năm xây dựng và phát triển
12
ngày nay) năm 1985, tập thể cán bộ nghiên cứu về “Dao động Cơ học” của Viện Cơ
học đã được giải thưởng về thành tích nghiên cứu khoa học và ứng dụng thực tiễn.
Những vấn đề khoa học liên quan đến phòng chống lũ lụt, sử dụng tài nguyên
nước, vấn đề xâm nhập mặn vùng cửa sông v.v cũng đã được tiến hành ngay từ trước
khi thành lập Viện Cơ học.
Từ năm 1969 cho tới năm 1976, Phòng Cơ học đã trải qua nhiều biến động về tổ
chức, gặp không ít khó khăn do điều kiện khách quan và chủ quan. Nhưng nhờ có sự
quan tâm của Nhà nước, của Lãnh đạo Viện Khoa học Việt Nam và đặc biệt là lòng
quyết tâm xây dựng ngành Cơ học của các cán bộ Phòng Cơ học cũng như của anh em
cán bộ giảng dạy, nghiên cứu, ứng dụng Cơ học trong cả nước, mọi khó khăn đã dần
được khắc phục.
Từ năm 1977, lãnh đạo của Phòng được củng cố và tăng cường. Nhiều cán bộ cơ
học giỏi mới tốt nghiệp tại Liên Xô và các nước Đông Âu đã được mời về công tác tại

phòng Cơ học.
Cho tới cuối năm 1978, Phòng Cơ học có 4 tổ nghiên cứu:
− Tổ Cơ học Chất lỏng - Chất khí gồm tổ trưởng là Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Văn
Điệp và 9 cử nhân.
− Tổ Cơ học Vật rắn Biến dạng do Tiến sĩ Cao Chí Dũng là tổ trưởng, trong đó có
Tiến sĩ Đỗ Sơn và 8 cử nhân.
− Tổ Dao động và Cơ học Máy do Tiến sĩ Nguyễn Cao Mệnh là tổ trưởng, trong đó
có các Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Quỳnh, Tiến sĩ Nguyễn Trường và 7 cử nhân.
− Tổ Thực nghiệm gồm tổ trưởng là Tiến sĩ Phạm Hữu Hùng và 3 kĩ sư.
Ngày 10 tháng 4 năm 1979, sau quá trình chuẩn bị khẩn trương, theo đề nghị của
Viện Khoa học Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã kí quyết định thành lập Viện Cơ
học với 4 phòng nghiên cứu đầu tiên dựa trên cơ sở của 4 tổ nghiên cứu kể trên thuộc
Phòng Cơ học.
2. Sơ lược lịch sử phát triển của Viện Cơ học từ khi thành lập đến nay
Năm 1979, Viện Cơ học được thành lập, do Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Nguyễn
Văn Đạo làm Viện trưởng, với 40 cán bộ, trong đó có 2 tiến sĩ khoa học, 6 tiến sĩ và 27
cử nhân, kĩ sư với 4 phòng nghiên cứu, được phân chia theo các ngành: Phòng Cơ học
Vật rắn Biến dạng, Phòng Cơ học Dao động, Phòng Cơ học Chất lỏng - Chất khí và
Phòng Cơ học Thực nghiệm. Sau khi thành lập, lực lượng cán bộ được tăng cường
thêm, có hướng nghiên cứu được tập trung hơn và số cán bộ khoa học được đào tạo
nâng cao trình độ cũng nhanh chóng tăng lên.
Những giai đoạn xây dựng và phát triển
13





GS.VS. Nguyễn Văn Đạo Viện trưởng sáng lập Viện Cơ học
Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000


Viện Cơ học 30 năm xây dựng và phát triển
14

Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Viện Cơ học tại thời điểm thành lập ngày 10/4/1979
và sự phát triển trong giai đoạn 1979-1990

LÃNH ĐẠO VIỆN
Phòng Cơ học Chất lỏng Chất khí
Phòng Cơ học Vật rắn biến dạng
Tổ Hành chính và Thư viện
Phòng Cơ học Thực nghiệm
Phòng Cơ học Dao động
Phòng Cơ học Nền móng
Thành lập 5/1986
Phòng Cơ học Biển
Thành lập 5/1986
Trung tâm Cơ học Máy
Thành lập 10/1988
Phân viện Cơ học
tại thành phố Hồ Chí Minh
Thành lập 6/1984
Những giai đoạn xây dựng và phát triển
15

Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Viện Cơ học thời điểm 1999

Hội đồng Khoa học LÃNH ĐẠO VIỆN
Phân viện Cơ học Biển
Phòng Mô phỏng Cơ học

Môi trường liên tục
Phòng Chẩn đoán Kĩ thuật
Trung tâm Tính toán, Mạng và Internet
Phòng Cơ học Công trình
Phòng Thí nghiệm Trao đổi Nhiệt Chất
Phòng Cơ học Đất và Nền móng
Xưởng Cơ điện Thực nghiệm
Phòng Quản lí Tổng hợp
Thư viện
Trung tâm Hợp tác,
Đào tạo và Bồi dưỡng
Cơ học
Trung tâm Khảo sát,
Nghiên cứu, Tư vấn
Môi trường Biển
Liên hiệp Khoa học,
Sản xuất vật liệu
Kĩ thuật cao-IFTECH
Trung tâm Cơ học công
trình và Kĩ thuật Biển
Trung tâm Tư vấn và
Thẩm định xây dựng
Trung tâm Nghiên cứu,
Đào tạo và Tư vấn
Môi trường Lục địa
Viện Cơ học 30 năm xây dựng và phát triển
16

Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Viện Cơ học thời điểm 2004
Hội đồng Khoa học LÃNH ĐẠO VIỆN

Trung tâm Hợp tác, Đào tạo
và Bồi dưỡng Cơ học
Trung tâm Khảo sát,
Nghiên cứu, Tư vấn
Môi trường Biển
Liên hiệp Khoa học,
Sản xuất vật liệu
Kĩ thuật cao-IFTECH
Trung tâm Cơ học công
trình và Kĩ thuật Biển
Công ty Phát triển
Công nghệ IMTECH
Phòng Cơ học và Môi trường Biển
Phòng Thuỷ khí Công nghiệp
và Môi trường Lục địa
Phòng Cơ học Công trình
Phòng Cơ Điện tử
Phòng Chẩn đoán Kĩ thuật Công trình
Phòng Thủy Tin học
Phòng Cơ học Vật rắn và Nền móng
Phòng Cơ điện Thực nghiệm
Phòng Tự động hoá và Xử lí tín hiệu
Phòng Quản lí Tổng hợp
Tổ mạng và Thông tin
Những giai đoạn xây dựng và phát triển
17
Năm 1984, Phân viện Cơ học được thành lập tại Thành phố Hồ Chí Minh do
GS.TSKH. Nguyễn Xuân Hùng làm Phân viện trưởng.
Năm 1990, từ Viện Cơ học đã tách ra và hình thành thêm 2 đơn vị mới của ngành
Cơ học là Trung tâm Cơ học Máy và Phân viện Cơ học Biển. GS.TSKH. Nguyễn Văn

Điệp được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Cơ học.
Năm 1993, Viện Khoa học Việt Nam được đổi tên thành Trung tâm Khoa học Tự
nhiên và Công nghệ Quốc gia, Phân viện Cơ học Biển được sát nhập trở lại vào Viện
Cơ học và Giáo sư Nguyễn Văn Điệp tiếp tục làm Viện trưởng. Khi đó, Viện Cơ học
có 9 phòng chuyên môn, 1 Phân viện Cơ học Biển, phòng Quản lí Tổng hợp và 3 đơn
vị tự hạch toán (thành lập và tổ chức theo Nghị định 35/CP của Chính phủ). Ngoài
Phân viện Cơ học Biển, các đơn vị chuyên môn khác cũng được tổ chức theo các đối
tượng nghiên cứu như Phòng Cơ học Công trình, Phòng Chẩn đoán Kĩ thuật v.v
Trong nhiệm kì 1997-2002, Giáo sư Nguyễn Cao Mệnh được cử làm Viện trưởng,
với lực lượng cán bộ là 126 người, trong đó có 38 cán bộ có trình độ trên đại học (7
giáo sư, 9 phó giáo sư, 22 tiến sĩ), tập trung theo 4 hướng nghiên cứu chính:
− Cơ học Thủy khí Công nghiệp, Môi trường và Phòng chống Thiên tai.
− Cơ học và Môi trường Biển.
− Cơ học Vật rắn Biến dạng, Cơ học Công trình và Nền móng.
− Cơ học Máy, Cơ điện tử và Tự động hóa.
Bên cạnh đó, theo sự thỏa thuận giữa Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ Quốc gia (nay là Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) và Đại học Quốc gia
Hà Nội đã thành lập Trung tâm Hợp tác Đào tạo và Bồi dưỡng Cơ học, đặt tại Viện Cơ
học và đảm nhận cả chức năng đào tạo của Viện Cơ học được giao từ trước đến nay.
Giáo sư Nguyễn Văn Điệp được cử làm Giám đốc. Đây là hình thức mới kết hợp giữa
Viện nghiên cứu và các Trường đại học trong giảng dạy và đào tạo sau đại học. Năm
2004, trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) được thành lập trên cơ sở
của Trung tâm Hợp tác Đào tạo và Bồi dưỡng Cơ học và Khoa Công nghệ (quyết định
số 92/2004/QĐ-TTg, ngày 25/5/2004 của Thủ tướng Chính phủ). Năm 2005, Khoa Cơ
học Kĩ thuật và Tự động hóa thuộc trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà
Nội) được thành lập (Quyết định số 1279/QĐ-TCCB ngày 04/7/2005).
Từ 11/2002 đến 7/2008, Viện trưởng Viện Cơ học là GS.TSKH. Nguyễn Tiến
Khiêm, từ tháng 7/2008 đến nay là GS.TSKH. Dương Ngọc Hải. Viện Cơ học đã tiếp
tục phát triển các hướng nghiên cứu trên và đẩy mạnh hơn nữa kết hợp nghiên cứu,
ứng dụng và đào tạo.

Viện Cơ học 30 năm xây dựng và phát triển
18
Năm 2004, Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia được đổi tên
thành Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Trong 30 năm xây dựng và phát triển đã có 11 cán bộ của Viện được phong học
hàm Giáo sư và 14 cán bộ được phong học hàm Phó giáo sư. Có 32 cán bộ nghỉ hưu từ
Viện và hơn 80 cán bộ chuyển công tác đến các đơn vị thuộc Viện Khoa học và Công
nghệ Việt Nam và các cơ quan khác.
3. Tóm tắt một số thành tựu về hoạt động khoa học và công nghệ của Viện
Cơ học trong 30 năm qua
3.1. Nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ
Trong 30 năm qua, Viện Cơ học đã chủ trì thực hiện gần 40 đề tài khoa học và
công nghệ trong các Chương trình Khoa học Công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước, hơn
50 đề tài khoa học công nghệ trong 9 hướng nghiên cứu tập trung của Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam, kí kết thực hiện hơn 90 hợp đồng lớn phát triển và ứng dụng
công nghệ theo các hướng sau:
3.1.1. Cơ học và Môi trường Biển
− Đã tiến hành nghiên cứu toàn diện và khoa học về hiện tượng nước dâng do bão
ở Việt Nam (trong quá trình thực hiện 3 đề tài cấp Nhà nước và 2 đề tài cấp Bộ
về nước dâng bão) và kết quả là đã đưa ra được các đặc trưng chế độ nước dâng
bão, xây dựng quy trình và phần mềm dự báo nước dâng do bão ven biển Việt
Nam. Các kết quả nghiên cứu này đã được kiểm nghiệm qua số liệu đo đạc thực
tế của hơn 100 cơn bão mạnh hoạt động trong vùng biển nước ta từ năm 1960
đến nay. Kết quả nghiên cứu này đã được chuyển giao cho các cơ quan có trách
nhiệm để sử dụng cho việc quy hoạch, xây dựng công trình ven biển, hải đảo và
phòng chống thiên tai. Đặc biệt gần đây đã tính toán và xây dựng đặc trưng nước
dâng bão chi tiết cho từng đoạn bờ để phục vụ cho công tác thiết kế, nâng cấp đê
biển theo yêu cầu của Chương trình Nhà nước về nâng cấp đê biển do Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn chủ trì. Phần mềm dự báo nước dâng bão cho
phép nhanh chóng dự báo mực nước dâng vùng ven biển khi biết các thông số về

cơn bão như sức gió, tốc độ di chuyển, hướng đổ bộ, Phần mềm này hiện đang
được sử dụng trong dự báo nghiệp vụ.
− Đã khảo sát, đo đạc và nghiên cứu tính toán các đặc trưng, chế độ thủy triều
trong Biển Đông cũng như chi tiết cho nhiều khu vực biển ven bờ, từ Quảng
Ninh đến Kiên Giang (qua việc thực hiện một đề tài cấp Nhà nước, nhiều đề tài
cấp Bộ và các hợp đồng nghiên cứu khoa học với các cơ quan, địa phương), phục
vụ cho công tác dự báo thủy triều, mô phỏng chế độ thủy động lực cho các khu
Những giai đoạn xây dựng và phát triển
19
vực, làm cơ sở cho các nghiên cứu khác về xói lở bờ biển, luồng lạch, môi
trường biển, lan truyền ô nhiễm, tràn dầu…
− Đã tính toán và xây dựng cơ sở khoa học các đặc trưng kĩ thuật đới bờ phục vụ
cho yêu cầu xây dựng công trình biển ven bờ (kết quả thực hiện đề tài cấp Nhà
nước KHCN.06.10). Kết quả đã xây dựng được hệ thống tương đối hoàn chỉnh
bộ tư liệu về điều kiện khí tượng, thủy văn, thủy thạch động lực trong vùng biển
ven bờ nước ta từ Bắc đến Nam theo yêu cầu xây dựng công trình biển. Đây là
sản phẩm rất có ích cho công tác nghiên cứu và ứng dụng. Các kết quả đã chuyển
giao, được nhiều cơ quan tiếp thu và sử dụng trong thực tế, phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng.
− Đã tiến hành nghiên cứu, khảo sát hiện trạng môi trường, đánh giá tác động môi
trường, chất lượng nước cho nhiều khu vực biển ven bờ, cửa sông theo yêu cầu
của các dự án cụ thể như Hạ Long, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Nghi Sơn, bờ biển Nghệ
An, Vũng Áng, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế, Dung Quất, Vũng Tàu, Côn
Đảo (qua việc thực hiện 2 đề tài cấp Nhà nước và các dự án với các tổ chức
quốc tế như UNEP, ADB RETTA, JICA và các cơ quan, bộ, ngành trong cả
nước). Đã nghiên cứu và xây dựng các phần mềm tính toán chất lượng nước, lan
truyền chất ô nhiễm, lan loang vệt dầu tràn khi có sự cố cho các vùng biển cụ thể
theo yêu cầu thực tế. Đã hoàn thành và chuyển giao các phần mềm dự báo quĩ
đạo vệt dầu tràn do sự cố cho Liên doanh Dầu khí Việt-Xô và Công ty Dầu khí
Việt-Nhật ứng dụng cho các vùng khai thác dầu khí vùng biển phía Nam theo các

hợp đồng đã kí kết.
− Tiến hành nhiệm vụ Nhà nước về quan trắc môi trường biển thường xuyên, định
kì theo các quí trong năm trên vùng biển ven bờ Miền Trung, từ Hà Tĩnh đến
Quy Nhơn. Tham gia xây dựng các báo cáo hiện trạng môi trường hàng năm để
Tổng Cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) trình Quốc hội.
− Đã tiến hành nghiên cứu các vấn đề về bồi xói, luồng lạch, tác động của sóng, gió,
dòng chảy lên công trình ven biển cho nhiều vùng cửa sông, vũng, vịnh, biển ven
bờ trên cơ sở các kết quả quan trắc, khảo sát thực địa và sử dụng các mô hình số
trị thủy động tự xây dựng cũng như ứng dụng và phát triển các mô hình của các
trung tâm nghiên cứu nổi tiếng trên thế giới thông qua nhiều đề tài cấp bộ, nhiều
dự án do các tổ chức quốc tế tài trợ như UNDP, Sida/SAREC, EU, UNIDO,
JICA, DANIDA… Các vùng được tập trung nghiên cứu là Hải Hậu (Nam Định),
Lí Hòa (Quảng Bình), Hòa Duân, Chân Mây (Thừa Thiên – Huế), cửa Định An
và vùng ven bờ Đông Nam Bộ. Các kết quả đạt được đã được chuyển giao và
ứng dụng trong thực tế.
Viện Cơ học 30 năm xây dựng và phát triển
20
− Đã xây dựng, phát triển và hoàn thiện nhiều phần mềm tính toán và dự báo các
yếu tố động lực học biển như thủy triều, nước dâng bão, sóng, lan truyền và
khuếch tán ô nhiễm, biến đổi đường bờ và vận chuyển bùn cát, lan loang vệt dầu,
phân tích số liệu đo đạc. Các phần mềm này đã và đang được sử dụng có hiệu
quả trong việc thực hiện các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cũng như các
hợp đồng ứng dụng triển khai. Một số phần mềm đã được chuyển giao cho các
đơn vị trong nước để sử dụng trong công tác nghiên cứu và nghiệp vụ.
− Đã tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu biển và cửa sông gồm điều kiện tự nhiên,
địa hình, địa mạo, các tư liệu về khí tượng, thủy văn, thủy triều, thủy thạch động
lực (sóng, dòng chảy, vận chuyển bùn cát, biến đổi đáy biển và đường bờ), chất
lượng nước và trầm tích, các hệ sinh thái, tình hình kinh tế - xã hội các huyện ven
biển trên phạm vi cả nước. Ngoài các số liệu đã xây dựng được nhiều tập bản đồ
như bản đồ xói lở bờ biển cả nước tỉ lệ 1/250.000, bản đồ biến động rừng ngập

mặn cả nước thời kì 1990-1996 tỉ lệ 1/50.000, bản đồ nhạy cảm tràn dầu tỉnh
Quảng Ninh và cho đoạn bờ từ Đà Nẵng đến Cà Mau, atlas môi trường các tỉnh
ven biển, atlas biến động bờ biển tỉnh Nam Định, Thừa Thiên - Huế. Công việc
này đang được tiếp tục hoàn thiện và cập nhật. Đây là kết quả tổng hợp rất quan
trọng, làm cơ sở cho tất cả các nghiên cứu khoa học và ứng dụng tiếp theo.
− Đang chủ trì thực hiện 2 đề tài cấp Nhà nước: “Nghiên cứu các điều kiện tự
nhiên và môi trường vùng biển Tây Nam, phục vụ phát triển kinh tế và bảo vệ an
ninh chủ quyền quốc gia” KC.09.02/06-10 và “Nghiên cứu đánh giá tiềm năng
các nguồn năng lượng biển chủ yếu và đề xuất các giải pháp khai thác”
KC.09.19/06-10 thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ trọng điểm cấp Nhà
nước giai đoạn 2006-2010.
3.1.2. Cơ học Thủy khí Công nghiệp, Môi trường và Phòng chống Thiên tai
* Thủy khí công nghiệp:
− Để có cơ sở tính toán xây dựng sơ đồ công nghệ khai thác tối ưu mỏ dầu, đề xuất
công nghệ vận chuyển dầu thô nhiều parafin có độ nhớt cao, từ nhiều năm nay đã
tiến hành các nghiên cứu lí thuyết cũng như thực nghiệm chuyển động của dầu-
khí-nước trong các hệ thống ống và trong vỉa. Nghiên cứu các mô hình, phương
pháp và phần mềm mô phỏng quá trình thấm 3 pha, 3 chiều trong môi trường đá
phong hóa chứa dầu ở các mỏ ngoài khơi Việt Nam. Đã xây dựng phần mềm mô
phỏng 3 chiều tính toán dòng chảy 3 pha dầu-khí-nước trong vỉa sản phẩm (môi
trường rỗng chứa dầu), làm cơ sở cho việc đề xuất sơ đồ công nghệ khai thác,
đánh giá, phát triển các biện pháp khai thác tăng cường để nâng cao hiệu suất cho
dầu của vỉa (đề tài KHCN.01.09.03, 1996-2000 và KC.01.07.08, 2001-2005
Những giai đoạn xây dựng và phát triển
21
trong các Chương trình Khoa học và Công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước). Đã
nghiên cứu ảnh hưởng của nhịp độ bơm áp nước tầng móng mỏ Bạch Hổ lên hệ
số khai thác dầu trên cơ sở các mô hình thấm. Áp dụng lí thuyết tối ưu trong
nghiên cứu, xác định chế độ hoạt động của các giếng bơm ép và giếng khai thác
dầu mỏ Bạch Hổ và xây dụng phần mềm tự động tái lập lịch sử khai thác thân

dầu bằng cách mô hình hoá quá trình thủy động lực học trên cơ sở hiệu chỉnh giá
trị độ rỗng và độ thấm.
− Tiến hành nghiên cứu lí thuyết và thực nghiệm dòng chảy nhiều pha trong các hệ
đường ống. Đã xây dựng được các mô hình vật lí dòng chảy hỗn hợp lỏng-khí,
lỏng-lỏng trong các hệ thống ống ngang, nghiêng và đứng với các đầu đo áp suất,
lưu lượng và nhiệt độ. Các số liệu đo đạc được tự động lưu trữ và xử lí trên máy
tính. Đã xây dựng được một số biểu đồ chế độ dòng chảy điển hình của hỗn hợp
lỏng-khí. Tiến hành nghiên cứu xác định tiêu chuẩn và chuyển đổi cấu trúc dòng
chảy hỗn hợp lỏng-khí trong ống thẳng đứng và ống nằm ngang. Phát triển công
nghệ đẩy dầu từ đáy giếng khai thác dùng khí (gaslift) liên tục và chu kì - một
công nghệ áp dụng nhiều trong khai thác dầu thô. Triển khai nghiên cứu dòng
chảy 3 pha dầu-khí-nước trong các hệ đường ống. Nhiều kết quả đã được áp dụng
thực tế và chuyển giao thông qua nhiều hợp đồng với Xí nghiệp Liên doanh Dầu-
Khí Việt Xô như: Hợp đồng No.22/1986-VSP5; No.32/96-VSP5; No.38/97-
VSP5; No.52/97-VSP5; No. 31/1998-VP5; No.39/2000-VSP5; No.31/2001-
VSP5; No.0203/06/T-N6/VSP5-IMECH; No.0751/05/T-N5/VSP5-IMECH;
No.0129/07/T-N5/VSP05-IMECH.
− An toàn thủy nhiệt lò phản ứng hạt nhân và nhà máy điện nguyên tử: Đây là
hướng nghiên cứu đã bắt đầu từ những năm 1987-1988. Đã nghiên cứu thủy
nhiệt dòng chảy hai pha lỏng-hơi và xây dựng bộ chương trình tính toán chế độ
trao đổi nhiệt giữa thanh nhiên liệu và chất làm mát trong vùng hoạt của lò phản
ứng nguyên tử Đà Lạt theo mô hình thủy lực qua hợp đồng với Cơ quan Năng
lượng Nguyên tử năng quốc tế IAEA. Những nghiên cứu hiện nay tập trung vào
bước đầu mô phỏng, tính toán trạng thái thủy nhiệt của các lò phản ứng hạt nhân
dùng trong nghiên cứu và lò năng lượng khi vận hành, trong các tình huống
không dừng, có sự cố, phân tích đánh giá khả năng an toàn sử dụng công cụ phần
mềm mô phỏng.
− Trao đổi nhiệt chất: Đã kết hợp với Viện Trao đổi Nhiệt Chất, Viện Hàn lâm
Khoa học Bạch Nga, nghiên cứu quá trình trao đổi nhiệt chất trong việc sấy và
bảo quản các nông sản nhiệt đới. Đã nghiên cứu thí nghiệm và đưa vào thực tiễn

một số công nghệ và thiết bị sấy như: sấy thuốc lá, sấy ngô hạt, thoát ẩm cho mật
ong, thí nghiệm sấy cơm dừa, chuối quả, bột dứa,… Thực hiện đề tài cấp Nhà
nước: “Tự động hóa quá trình sản xuất bột quả nhiệt đới” mã số KC.02.10.

×