Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Nghiên cứu về giá trị nội dung truyện cổ Campuchia.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.6 KB, 44 trang )

1
A. MỞ ĐẦU
1. Mục đích, lý do chọn đề tài
Ở bất kì một dân tộc nào, kiểu truyện cổ tích cũng chiếm một số
lượng đông đảo trong các nền văn học. Từ những lời kể của bà, lời ru của
mẹ, đã đưa tôi đến với những câu truyện cổ ngày xửa ngày xưa, sự hình
thành và nguồn gốc của thế giới ra sao. Con người của chúng ta khởi
nguyên như thế nào.
Với sự phát triển chóng mặt của xã hội công nghiệp hóa ngày nay,
mọi thứ đều biến đổi theo guồng quay của xã hội. Tôi lại muốn trở về với
những câu chuyện cổ, nó như ru tôi vào giấc ngủ thần tiên của ngày thơ ấu,
tôi càng không muốn mình bị cuốn vào dòng đời ngược xuôi hối hả của
cuộc sống hôm nay. Tôi muốn tìm về nơi trầm lắng hay sự nhập mình vào
những câu truyện cổ, cùng phiêu lưu đấu tranh cho sự tồn tại của loài
người. Nhưng tôi càng không muốn mình bị khuôn vào không gian chật
hẹp. Tôi yêu cổ tích nước tôi và những gì thuộc về nó. Thế nhưng trong tôi
luôn muốn phóng tầm mắt của mình ra với văn học thế giới. Khi đó tôi sẽ
được tiếp nhận và hiểu rõ hơn nữa những câu truyện cổ của nước bạn. Và
cũng rất ngẫu nhiên tôi đã đến với nền văn học Campuchia nói chung và
truyện cổ tích nói riêng.
Từ đó, tôi có thể tìm hiểu được sự khác nhau và những nét tương
đồng giữa truyện cổ Campuchia với truyện cổ nước tôi như thế nào. Bên
cạnh những nét tương đồng về chủ đề, ở từng truyện cụ thể, còn chứa đựng
những sắc thái, tư tưởng riêng. Mỗi một nền văn học ở những nước khác
nhau lại chứa đựng những tư tưởng và quan niệm sống khác.
Mặc dù tôi vẫn chưa có nhiều điều kiện để có thể đến với truyện cổ
Campuchia một cách sâu sắc nhưng đọc những câu truyện như: truyện Mục
Đồng Vương, Chàng Cơm Cháy, Nàng Ca Cây, Hạnh Phúc và Bất Hạnh,
chàng trai mặc áo bẹ chuối, Thỏ trắng thông minh, thằng nói dối, Tum
Tiêu...,tôi càng bị thu hút bởi sức hấp dẫn, bởi nội dung của tác phẩm luôn
khiến tôi phải suy nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc sống thời hồng hoang.


Điều tôi mong ước là có thể bằng sự hiểu biết của mình đem đến cho
truyện cổ có được một góc nhìn mới mẻ hơn bằng sự tìm tòi khám phá. Mỗi
2
câu truyện đều đọng lại trong tôi những dư vị rất khác nhau. Đó là những
nét độc đáo, mới lạ và đầy tính bất ngờ.
Để khám phá chiều sâu của truyện cổ Campuchia tôi đã chọn cho
mình một nét khám phá mới. Đó là giá trị nội dung truyện cổ Campuchia.
Dù cho truyện cổ đã khác xa với những gì chúng ta chứng kiến hôm nay.
Do đó chúng tôi chọn đề tài này với mong muốn đóng góp thêm một ý
kiến về vấn đề này.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Có thể nói rằng sự tiếp cận nền văn học Campuchia mà đặc biệt là
truyện cổ đã khiến tôi gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu về lịch sử
nghiên cứu đề tài này. Văn học Campuchia là một nền văn học không hề
lớn. Do đó các nhà nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở một số nét khái quát về
nền văn học nói chung như:
-Lưu Đức Trung (1998), văn học Đông Nam Á, NXB Giáo dục, Hà
Nội. Đã nghiên cứu về tình hình văn học Campuchia theo từng giai đoạn
phát triển lịch sử như: Văn học dân gian, văn học viết, văn bia, rồi văn học
hiện đại. Để từ đó chúng ta có thể hiểu được đôi nét về nền văn học
Campuchia.
-Vũ Tuyết Loan (1986), tuyển tập văn học Campuchia, NXB Văn học
Hà Nội. Giới thiệu sơ lược về văn học Campuchia và những câu truyện cổ
như: Tình mẫu tử, Nêang Cantoc và Nêang SongAnCat.
Hầu hết quốc gia nào cũng có nền văn học dân gian với những câu
truyện cổ hấp dẫn lôi cuốn người đọc vào một thế giới kỳ ảo,hoang đường,
thể hiện ước mơ cần được gửi gắm. Truyện cổ tích lôi cuốn chúng ta vào
những nỗi niềm vui khổ, vào không khí đấu tranh chống cường quyền của
những con người bị áp bức.
Cho đến nay, chúng ta chưa thể hiểu biết được một cách đầy đủ và

toàn diện về diện mạo truyện cổ Campuchia, bởi lẽ tư liệu còn quá ít ỏi. Cổ
tích kể về nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc loài người, nguồn gốc dân tộc, sự
tích các tên núi, tên sông, lại là một minh chứng nữa về trí tưởng tượng
phong phú về thế giới tinh thần đa dạng của dân tộc Campuchia.
3
Càng đi sâu vào khám phá đề tài này, càng làm tôi có cái nhìn toàn
diện hơn về trí tưởng tượng, về thế giới kỳ ảo mà nhân dân Campuchia
sáng tạo ra.
Với lòng yêu thích và ham mê cổ tích, chúng tôi sẽ cố gắng nghiên
cứu một cách cụ thể, đánh giá một cách sâu sắc hơn về giá trị nội dung
truyện cổ Campuchia. Để góp tiếng nói chung cùng với những nhà nghiên
cứu trước đó. Bên cạnh nữa là những tiểu luận, khóa luận, luận văn của
sinh viên mọi miền đất nước khi tìm hiểu nghiên cứu đề tài này. Người đọc
bị lôi cuốn vào những câu chuyện hoang đường nhưng đầy giá trị nhân bản
và những bài học kinh nghiệm về cuộc sống của một thời xa xăm. Mỗi nhà
nghiên cứu có cách đánh giá, nhìn nhận khác nhau nhưng tựu chung lại họ
đều hướng người đọc cùng phiêu lưu, thả hồn vào một thế giới kỳ ảo, nhập
thân vào nhân vật có thể là thần linh, những con người nhỏ bé, bất hạnh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Truyện cổ Campuchia
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về giá trị nội dung truyện cổ
Campuchia.
Để có một cái nhìn và đánh giá một cách đầy đủ về giá trị nội dung
truyện cổ Campuchia thì phải có những công trình lớn có quy mô.
Chúng tôi trong khuôn khổ một niên luận chỉ khám phá một phần
nhỏ về nội dung của truyện cổ Campuchia thông qua một số tác phẩm mà
chúng tôi xem là nổi trội nhất, để có thể mang lại cho người đọc một số
hiểu biết về văn học Campuchia nói chung và truyện cổ nói riêng. Tôi
mong rằng sẽ đóng góp một phần nghiên cứu nhỏ bé của mình vào lĩnh vực
này, cống hiến tới độc giả khi nhìn nhận về một mảng văn học dân gian của

đất nước Campuchia.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để tìm hiểu và giải quyết vấn đề giá trị nội dung truyện cổ
Campuchia, chúng tôi sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích- tổng hợp,
phương pháp thống kê, phương pháp so sánh - đối chiếu, các phương pháp
liên ngành...
5. Bố cục đề tài
4
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài của chúng
tôi được kết cấu trong ba chương:
Chương 1. Khái quát chung
Chương 2. Gía trị nội dung truyện cổ Campuchia
Chương 3. Vài nét về nghệ thuật
5
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG
1.1. Tình hình văn học Campuchia
Trong quá trình tồn tại lâu dài của mình, nhân dân Campuchia đã
sáng tạo nên một nền văn học phong phú và đa dạng. Trong gần hai mươi
thế kỷ, văn học Campuchia thay đổi cùng với lịch sử xã hội và văn hóa của
dân tộc.
Vào thời kì lịch sử xa xưa, trên đất nước Campuchia ngày nay còn có
người Chàm, người Môn và một số tộc người khác sinh sống. Nhưng chủ
nhân chính của đất nước Campuchia là người Khơme. Văn học Campuchia
trước tiên là sự kế thừa và phát triển truyền thống Khơme này. Ngoài tiếng
Khơme là chủ yếu, văn học Campuchia còn sử dụng các thứ tiếng Sanskrit,
Pali, Pháp. Tiếng Khơme là tiếng nói văn học thống nhất của các dân tộc ở
Campuchia. Chữ viết Khơme bắt nguồn từ một hệ thống văn tự cổ ở miền
Nam Ấn Độ.
Văn học thời kì này thường là những lời hát trao tình trai gái, những

bài ca lao động, những lời cầu nguyện thần linh, những huyền tích, huyền
thoại. Trong văn học, thế giới thực tại của con người hãy còn rất bản năng
chân chất, mà thế giới tưởng tượng của thần linh cũng còn rất cụ thể hồn
nhiên. Những lời hát trao tình chưa mang cái vẻ ý nhị, ví von, kín đáo của
tình yêu ở những thời kì văn hóa về sau, mà thường bộc lộ táo bạo, tự
nhiên. Những lo âu về cuộc sống con người và những ước mơ về xã hội lại
thường biểu hiện gián tiếp qua những lời cầu nguyện thần linh, qua thần
tích, huyền thoại.
Văn học Campuchia tiếp nhận ít nhiều ảnh hưởng của các nền văn
học trong vùng như Thái Lan, Lào, Giava, Việt Nam qua quá trình giao lưu
văn hóa. Đặc biệt nền văn học Ấn Độ đã có ảnh hưởng sâu sắc và lâu bền
nhất đối với văn học Campuchia.
Những văn bia còn lại cho đến nay sớm nhất chỉ từ cuối thế kỷ XVII.
Còn từ thế kỷ XVI trở về trước, các loại sách đều đã bị thời gian hủy hoại
6
tất cả, chỉ còn lại những trang sách trên đá, trên các văn bia mà thôi. Mặc
dù trong lĩnh vực văn học, nhân dân Campuchia trước đây cũng đạt được
những thành tựu to lớn. Nhưng ngay cả văn bản còn tìm thấy được phần lớn
lại là những tác phẩm khuyết danh, thời điểm sáng tác và tên người sáng tác
cũng khó được xác định, điều này gây không ít khó khăn cho người nghiên
cứu.
Văn học truyền thống Campuchia chia làm hai bộ phận: Văn học dân
gian và văn học thành văn. Ở Campuchia, ranh giới giữa văn học dân gian
và văn học thành văn nhiều khi không rõ rệt lắm. Đó là sự phân định không
rạch ròi mà là sự đan xen lẫn nhau để tạo nên hiệu quả bất ngờ cho người
tiếp nhận.
Văn học Campuchia chỉ là một bộ phận trong nền văn hóa dân gian
còn đang bao trùm gần như toàn bộ đời sống tinh thần của nhân dân. Văn
học dân gian Campuchia còn có mối quan hệ hữu cơ với những bộ phận
khác của nền văn hóa dân tộc. Nó gắn với những hình thái văn hóa khác

như múa, hát, nghi lễ, nên ít khi tồn tại dưới dạng văn học thuần túy.
Ở Campuchia, văn học dân gian là một trong những cội nguồn của
văn học dân tộc và là bộ phận quan trọng nhất của văn học dân tộc, nó tồn
tại và phát triển theo quy luật riêng.
Trong tín ngưỡng dân gian, người Khơme tôn thờ các vị thần linh.
Họ tin thần Đất, thần Nước, thần Lửa, thần Gió. Họ tin Mêba-tổ tiên của họ
dù đã chết nhưng vẫn giữ gìn hạnh phúc cho con cháu.
Huyền thoại, truyền thuyết Campuchia giải thích sự hình thành vũ
trụ, dân tộc, nguồn gốc sản sinh ra những giá trị văn hóa và những kỳ quan
nổi tiếng của đất nước. Huyền thoại, truyền thuyết Campuchia không chỉ
giải thích việc tạo lập đất nước, mà còn kể về những vị vua đầu tiên, gắn
chặt với địa vực cư trú và ghi nhớ thời kì bắt đầu hình thành nhà nước dân
tộc sơ khai, về những trang sử hào hùng chống ngoại xâm, giữ gìn toàn vẹn
lãnh thổ của tổ quốc.
Truyền thuyết Prak Thon là câu chuyện về sự kết hôn giữa hoàng tử
và công chúa Neak tên là Sôma. Prakthon trở thành vị vua đầu tiên của
quốc gia Campuchia, tự xưng là Cambusvayam Buva. Con cháu nối nghiệp
7
mới gọi quốc vương này là Campu Jadesa nghĩa là “ những người con của
Campuja”, ngày nay gọi là Campuchia.
Huyền thoại Kaundinya-soma ghi nhớ việc những lượt người Ấn Độ
đến Campuchia làm ăn sinh sống, được xem là triều vua lập nước của Phù
Nam về sau các vua Campuchia cùng tiếp nhận như triều đại đầu tiên của
mình.
Trong truyện kể Campuchia có cả một loạt sự tích đáng chú ý là sự
tích về các đền chùa thời Ăngco, như sự tích ngôi đền Bantaychman, sự
tích Ăngco Vát và Vát noko, sự tích tượng Prôma trong chùa NaKor
Batay, sự tích đền Ăngco, sự tích chùa Ottharot.
Trong kho tàng truyện cổ dân gian Campuchia thấy nổi lên những
loại truyện đáng chú ý như truyện về những đứa con bị ruồng bỏ, về những

người mồ côi và những đứa con riêng. Đó là những truyện Nêang Cantóc
và Nêang Song Ancát, Mười hai cô gái vùng Đế Thiên Đế Thích, Chàng
Cơm Cháy, Sóc lành và Sóc ác, hai anh em mồ côi, tình mẫu tử, thằng ăn
trộm lương thiện.
Truyện dân gian Campuchia vừa mang yếu tố dân tộc vừa bản địa, lại
vừa mang những yếu tố Ấn Độ, điều đó chứng tỏ mối quan hệ văn hóa giữa
Campuchia và Ấn Độ là lâu đời và sâu sắc.
Những yếu tố trong truyện Khơme thường hòa chung vào nền bản
địa Đông Nam Á. Vì thế có nhiều nét tương đồng với truyện cổ dân gian
Đông Nam Á.
Hệ thống truyện cười diễn đạt tài trí thông minh và lối ứng phó đối
đáp của dân gian. Những chùm truyện về Thmênh Chây, Về thằng Lêu, về
con Thỏ, rất được nhân dân Campuchia yêu thích. Rõ ràng là truyện cười
của nhân dân Campuchia là tiếng cười lạc quan, chiến thắng. Tiếng cười
long trời lở đất của quần chúng đã làm cho lực lượng thống trị tức giận điên
người, chúng cố bóp chết tài hài hước của nhân dân, nhưng “ nghìn năm bia
miệng hãy còn trơ trơ ”.
Ca dao, dân ca là bộ phận chứa đựng thế giới tình cảm phong phú và
đa dạng của người dân Campuchia. Những bài ru con tha thiết ngọt ngào,
những bài hò chèo thuyền tình tứ, những bài đối đáp duyên dáng, đã làm
8
cho đời sống đôn hậu, chất phác của người dân Campuchia càng thêm bội
phần tươi mát và ấm cúng.
Tục ngữ Campuchia diễn đạt một cách rất hoàn hảo những kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm xã hội, lịch sử của nhân dân lao động, lời lẽ
thường hàm xúc cô đọng, giàu tính triết lí, bóng bẩy và tế nhị.
Vì văn học dân gian còn gán với những hình thái văn hóa khác như
múa, hát , lao động, nghi lễ nên nó ít khi tồn tại dưới dạng văn học thuần
túy. Văn học dân gian Campuchia là một trong những cội nguồn của văn
học dân tộc và là bộ phận quan trọng nhất của văn học dân tộc.

Văn học viết Campuchia vào thế kỷ VII - thế kỷ VIII đã xuất hiện và kế
thừa các nền văn học trước đó, buổi đầu thì hầu hết được ghi lại trên đá, bia
đá, da súc vật, sau cùng trên giấy. Văn học Campuchia phát triển sớm thì
chữ viết phát triến sớm vào thế kỷ VII và tiếp nhận được văn học Ấn Độ.
Nền văn học viết Campuchia ra đời vào loại sớm nhất Đông Nam Á
và đã tạo ra những tác phẩm nổi tiếng như Riêmkê, một anh hùng ca về
cuộc đấu tranh anh hùng để dựng nước và giữ nước của dân tộc
Campuchia. Riêmkê không chỉ là tác phẩm tiêu biểu và nổi bật thuộc dòng
văn học tán tụng vua chúa, dòng văn học Bàlamôn ở thời kì Ăngco, mà nó
còn có những điều kiện để có thể tiếp tục tồn tại và hấp dẫn ở thời kì sau,
tất nhiên với những thay đổi cần thiết cho phù hợp với tinh thần của thời kì
đó.
Văn học Ăngco tạo ra một bộ mặt riêng trong lịch sử Campuchia.
Văn học thành văn của thời kì này hoàn toàn là sản phẩm của tầng lớp trên,
của hoàng gia và giới tu sĩ Bàlamôn.
Văn bia thời kì này phát triển nở rộ với khối lượng đồ sộ, có giá trị
đặc biệt giữ lại được 1052 văn bia. Văn bia là hình thức văn học độc đáo
sinh động của nền văn học Campuchia cổ đại, là nguồn tư liệu phong phú
cho phép minh định một cách chính xác niên đại của nước Campuchia cổ
đại, phả hệ của các nhà vua, mục đích của những di tích chủ yếu. Văn bia
cho chúng ta thấy một Campuchia cổ dưới ba dạng: Lịch sử, tôn giáo, và
anh hùng ca. Có hai loại văn bia: Văn bia bằng chữ Phạn và văn bia bằng
chữ Khơme. Về mặt hình thức thì văn bia có bốn phần cụ thể:
9
Phần thứ nhất: Khổ thơ cầu nguyện thần Phật
Phần thứ hai: Nội dung chính của tấm bia
Phần thứ ba: Những của cải mà nhân dân đóng góp
Phần thứ tư: Kết thúc là một lời nguyền
Văn bia viết bằng chữ Phạn thường chỉ những gì liên quan đến Phật
giáo được viết theo hình thức thơ ca, thường là một bài thơ ngắn bắt nguồn

từ một cảm hứng mang nhiều tính chất văn học và sử dụng một ngôn ngữ
giàu hình ảnh, giàu âm điệu và uyển chuyển. Ngoài ra các văn bia còn liên
quan đến ân đức của các vị vua hay liên quan đến đạo Phật.
Văn bia bằng chữ Khơme cũng có nhiều, phần lớn viết bằng văn
xuôi, giản dị. Đó là những tác phẩm văn học đầu tiên của Campuchia,
những văn bản này ít mang tính chất văn học, chủ yếu là những bản liệt kê,
những nô bộc và đồ thờ dâng cúng, ghi nhận những tặng vật và kiến trúc
tôn giáo, chỉ rõ những đặc quyền của nhà vua, ghi lại những bản án xét xử
trên cơ sở những vụ tranh chấp về quyền sở hữu đất đai. Văn bia Khơme
còn cho biết cả một hệ thống quan chức đông đảo, bao hàm một tổ chức cai
trị phát triển. Tám văn bia khắc trên cột ngọn tháp dẫn vào sâu trong hoàng
cung Ăngco Thom đều biên soạn theo một nội dung giống nhau và sao lại
một công thức tuyên thệ vào năm 1011 sau công nguyên của một triều thần
dưới triều vua Saryavarman I.
Văn bia Khơme, những “ biểu hiện văn học ” ghi trên đá ấy là tài sản
đặc biệt của quý tộc Ăngco. Nhìn lại văn bia giai đoạn này, có lẽ không có
lời nhận xét nào thỏa đáng bằng lời của R.C.Majumdar: “ Đã tìm thấy hơn
100 bi kí Sankrit ở Champa. Những bi kí tìm thấy ở Campuchia không chỉ
nhiều hơn về số lượng mà còn cao hơn về giá trị văn học. Các văn bia đó
viết bằng thể Kavya đẹp đẽ đến độ gần như hoàn mĩ, có thể mang lại vinh
quang cho bất kì học giả Ấn Độ nào...”
Như vậy ta thấy rằng, so với văn bia giai đoạn tiền Ăngco hay
Chenla, văn bia giai đoạn này đạt đến mức hoàn hảo cả về nội dung và hình
thức. Sau văn bia là hàng loạt các tác phẩm được chú ý đến như Riêmkê,
TumTiêu và nàng Cacây. Truyện thơ Campuchia ngay từ đầu đã xuất hiện
với tư cách là một thể loại trung tâm của nền văn học viết dân tộc, nguồn đề
10
tài chủ yếu của nó lấy từ văn học nước ngoài, văn học dân gian và đời sống
dân tộc.
Có thể thấy quá trình phát triển truyện thơ Campuchia là quá trình

phát triển có tính quy luật. Đó là quy luật phát triển từ lúc ban đầu gần như
hoàn toàn vay mượn đề tài, chủ đề của Ấn Độ đế chỗ tìm đến nguồn đề tài
của đời sống hiện thực của chính đất nước mình. Thường tập trung vào hai
chủ đề chính là tôn giáo và tình yêu.
Tuy chịu ảnh hưởng Phật giáo, nhiều truyện thơ vẫn không hoàn toàn
dứt bỏ ảnh hưởng đạo Bàlamôn. Sự dung hòa ấy là một sáng tạo của nhà
văn, nhà thơ Khơme. Cho nên pháp luật cũng thường được sử dụng, chiến
thắng bằng mọi cách là yêu cầu định sẵn cho các nhân vật chính.
Chủ đề tình yêu chiếm một vị trí khá quan trọng trong truyện thơ
Campuchia. Các truyện thơ viết về tình yêu thường lấy đề tài trong văn học
dân gian. Lúc đầu, đôi trai gái gặp nhiều trắc trở, nhưng cuối cùng họ đã đạt
được hạnh phúc viên mãn.
Các truyện thơ về tình yêu này thường xoay quanh những mô típ
quen thuộc của văn học dân gian như là thiện thắng ác, chính nghĩa thắng
gian tà. Tình yêu chân chính trải qua khó khăn nhưng cuối cùng đạt được ý
nguyện.
Có thể nói, từ một số truyện kể dân gian, cuộc sống tâm hồn và tình
cảm của người lao động Khơme đã đi vào văn học viết nhờ nhịp cầu của
truyện thơ. Nhịp cầu này đã đem lại cho văn học viết khí sắc xanh tươi,
lành mạnh của cuộc sống.
Sau những câu truyện tình yêu có nguồn gốc từ văn học dân gian,
truyện thơ Campuchia cuối cùng đã tìm đến những câu chuyện tình sinh
động trong đời sống hiện thực của chính đất nước mình. Đó cũng là một
biểu hiện của văn học Campuchia trên con đường trở về với dân tộc.
Văn học hiện đại Campuchia có thể được tính từ năm 1938 khi tiểu
thuyết Sôphát của Rinkin ra đời. Từ đó, văn học hiện đại gắn liền với
những thăng trầm của lịch sử dân tộc Campuchia trong suốt sáu mươi năm
qua. Với một cái nhìn lịch sử, có thể chia văn học hiện đại Campuchia
thành nhiều giai đoạn nhỏ:
11

Từ 1938-1954: Giai đoạn hình thành
Từ 1954-1969: Giai đoạn phát triển rực rỡ
Từ 1970-1975: Giai đoạn chững lại
Từ 1975-1979: Giai đoạn “chết”
Từ 1979 trở đi: Giai đoạn hồi sinh
Mỗi một giai đoạn mang đặc điểm riêng về đội ngũ tác giả, độc giả,
về nội dung và xu hướng sáng tác. Nhưng nhìn một cách khái quát , văn
học hiện đại vẫn luôn gắn với những đặc điểm văn học truyền thống của
dân tộc Campuchia.
Năm 1938 thì bộ tiểu thuyết Sôphat của Rinkin xuất hiện và người ta
cho rằng Rinkin là người đặt nền móng.
Năm 1939: “ nước hồ Tônlêsáp ” của Kim Hắc đã được in sang
Tiếng Việt. Ở giai đoạn văn học hiện đại có hai chủ đề chính là tình yêu đôi
lứa và vấn đề xã hội. Các tác giả đã chú ý đến miêu tả khá chi tiết đời sống
tình cảm và những đòi hỏi mới của tầng lớp thanh niên trong tình yêu. Họ
không yêu theo công thức mà họ đòi hỏi yêu như thế nào. Yêu cầu khám
phá muôn mặt của tình yêu cả những ngọt ngào và đắng cay, những đối
tượng chính trong tình yêu đã biêt đánh giá mình có xứng đáng với người
mình yêu hay không? Họ giải quyết những mâu thuẫn tư tưởng mới tiến bộ
với quan niệm cũ.
Bên cạnh đó cùng với những sự thay đổi và phát triển đất nước thì
văn học Campuchia qua các giai đoạn đã xuất hiện nhiều thể loại văn học
khác nhau như: Thơ, truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết. Tuy chưa nhiều nhưng
đã có một số tác giả, tác phẩm được người đọc mến mộ. Cũng như thơ ca,
các tác phẩm văn xuôi chủ yếu đi sâu miêu tả hiện thực đau khổ của quá
khứ còn đang bốc khói của dân tộc, khẳng định, biểu dương tinh thần lao
động anh dũng của những con người được giải phóng.
Mặc dù trải qua nhiều sự thay đổi cùng với thăng trầm của lịch sử thì
văn học Campuchia hôm nay vẫn không ngừng hoàn thiện và nâng cao hơn
nữa nền văn học của dân tộc mình. Có sự mở rộng, giao lưu và hội nhập với

các nên văn học trên thế giới mà đặc biệt là văn học các nước Đông Nam
Á.
12
1.2. Vài nét về truyện cổ tích
Một trong những thể loại văn học dân gian quan trọng và phổ biến
rộng rãi là truyện cổ tích. Khái niệm truyện cổ tích có một nội dung khá
rộng, thường dùng để chỉ nhiều loại truyện khác nhau về đề tài và phương
pháp sáng tác.
Có nhiều định nghĩa về truyện cổ tích: “ Truyện cổ tích là một loại
truyện kể dân gian ra đời từ thời kì cổ đại gắn liền với việc hình thành gia
đình phụ quyền và phân hóa giai cấp trong xã hội, nó hướng vào những vấn
đề cơ bản phổ biến trong đời sống nhân dân, đặc biệt là những xung đột
giữa người với người trong gia đình và xã hội. Nó dùng một thứ hư cấu
riêng kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù khác để phản ánh ước mơ
và nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng nhu cầu nhận thức, thẩm mỹ, giáo
dục và giải trí của nhân dân trong xã hội có giai cấp”
Từ xưa đến nay nhân loại trên bước đường tiến lên bao giờ cũng ước
mong một thế giới tốt đẹp, ở đó con người được sống hạnh phúc và đạt
được những gì mà họ khát khao có được. Thế giới mà con người mơ ước là
một thế giới hoàn mỹ, không có đau khổ, bất hạnh, con người được hòa
mình vào cùng với thiên nhiên, vũ trụ. Do đó truyện cổ tích xuất hiện phần
lớn khi công xã thị tộc tan rã và được thay thế bằng gia đình riêng lẻ.
Truyện cổ tích có thể đặt ra những vấn đề liên quan đến cuộc đấu tranh của
người với thiên nhiên, nhưng trước hết và chủ yếu nó phản ánh những vấn
đề giai cấp.
Sự khu biệt giữa thần thoại và truyện cổ tích có thể thấy rõ ở tính
chất thẩm mỹ của thể loại. Thần thoại không tránh khỏi những phần gắn với
tôn giáo nguyên thủy, nhưng trước hết thần thoại biểu hiện khí thế tự do, ý
thức dân chủ của loài người khi chưa bị đè nén dưới ách thống trị giai cấp,
biểu hiện khí phách hào hùng của những con người thấy được tầm vóc của

mình là tầm vóc của toàn thể bộ lạc.
Trái lại, truyện cổ tích một mặt phản ánh sự đấu tranh của nhân dân
chống giai cấp thống trị nhưng một mặt vẫn chịu ảnh hưởng ý thức hệ
thống trị của thời đại, tức là ý thức hệ của giai cấp thống trị. Vì thế, tuy
truyện cổ tích quan tâm đến số phận của những người bị đè nén áp bức,
13
nhưng truyện cổ tích cũng chỉ dám ước mơ cải thiện vận mệnh con người
trong khuôn khổ của xã hội có giai cấp. Do đó truyện cổ tích không thể có
tính chất hào hùng của thần thoại.
Truyện cổ tích lại rung cảm chúng ta bằng những nét hiện thực sinh
động. Truyện cổ tích lôi cuốn chúng ta vào những nỗi niềm vui khổ vào
không khí đấu tranh chống cường quyền của những con người bị áp bức.
Truyện cổ tích có thể đóng góp vào việc xây dựng lý tưởng thẩm mỹ của
thời đại chúng ta. Lý tưởn ấy bao hàm niềm căm phẫn chống lại mọi áp bức
xấu xa và niềm tin tưởng ở phẩm chất tốt đẹp, ở khả năng vô tận của loài
người đang trên con đường bay lên các vì sao.
Truyện cổ tích biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân dân đối với
thực tại, đồng thời nói lên những quan điểm đạo đức, những quan niệm về
công lý xã hội và ước mơ về cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại.
Truyện cổ tích là trí tưởng tượng phong phú của nhân dân và ở một bộ phận
chủ yếu, yếu tố tưởng tượng thần kỳ tạo nên một đặc trưng nổi bật trong
phương thức phản ánh hiện thực và ước mơ. Nhiều truyện cổ tích được
sáng tác ra để giải thích các sự vật trong thiên nhiên, nhất là những sự việc
quen thuộc đối với nhân dân trong đời sống hằng ngày. Trong truyện cổ
tích, những vấn đề xã hội thường chiếm ưu thế đối với những vấn đề thiên
nhiên, điều đó cũng dễ hiểu. Xét cho kĩ đại đa số truyện cổ tích đã hình
thành trên cơ sở những vấn đề xã hội, trước hết là những vấn đề giai cấp.
Những mâu thuẫn đó thực muôn hình vạn trạng.
Tác phẩm văn học dân gian không phải hễ xuất hiện lúc đầu như thế
nào, thì về sau vẫn giữ nguyên nội dung ấy mãi. Vì truyền miệng, nó biến

hóa dần dần và cũng trong quá trình lưu truyền mà nó được hoàn chỉnh dần.
Tính chất không ổn định là tính chất chung của các tác phẩm văn học dân
gian, nhưng tính chất ấy thể hiện rõ hơn trong truyện cổ tích. Truyện cổ tích
là loại văn xuôi truyền miệng mà lại dài, lại có lắm tình tiết cho nên dễ biến
đổi về nội dung và về hình thức. Trong quá trình lưu truyền, truyện thu hút
lấy một số tình tiết mới , bỏ rơi một số tình tiết cũ và cứ thế mà dần dần
thay đổi để thích ứng với yêu cầu của nhân dân từng địa phương, từng thời
14
đại. Sự thay đổi không chỉ dừng lại ở phạm vi xây dựng tình tiết mà có khi
còn làm thay đổi tính chất của truyện.
Xét đến cùng truyện cổ tích chỉ nên dừng lại ở hai loại chính: truyện
cổ tich lịch sử và truyện cổ tích thế sự. Dù cho nội dung cuộc sống trong
truyện cổ tích phức tạp đến thế nào đi nữa thì cũng có hai loại sự kiện. Một
loại sự kiện liên quan đến vận mệnh toàn dân tộc, có ảnh hưởng đến toàn
thể xã hội hoặc ít ra có ảnh hưởng đến một vùng rộng lớn của đất nước: đó
là những sự kiện có tính chất lịch sử. Một loại sự kiện khác tuy không có
tác dụng to lớn như loại trên, nhưng phổ biến hơn: đó là những sự kiện xảy
ra trong đời sống bình thường của nhân dân. Truyện về những sự kiện đó
là truyện cổ tích thế sự.
Kho tàng truyện cổ tích chứa đựng vô vàn việc có giá trị đối với sử
học, dân tộc học mà nhân dân nói lên một cách tự giác hoặc không tự giác
nhưng với tất cả sự chất phác và thành khẩn của mình. Tuy nhiên sử học và
dân tộc học không hoàn toàn tin vào truyện cổ tích. Nội dung mà các khoa
học ấy muốn tìm là sự thực ẩn náu dưới những hình tượng của truyện cổ
tích, sau khi đã tước bỏ cái màn hư cấu được thêu dệt bằng những điều gọi
là “ bịa đặt ” .
Truyện cổ tích là tấm gương phản chiếu một cách phong phú và chân
thật đời sống dân tộc, rất phong phú mặc dù những hạn chế trong quan
điểm của nhân dân ngày trước, rất chân thật ngay cả trong những sự tưởng
tượng đầy tính chất lãng mạn.

Truyện cổ tích lại phản ánh khả năng của nhân dân. Truyện cổ tích
nêu rõ quan điểm của nhân dân về công lý xã hội. Trong hầu hết các truyện,
kẻ có tội ác nhất định không tránh khỏi hình phạt thích đáng. Bất kể y thuộc
vào tầng lớp nào thì trong xã hội cũ, đa số những kẻ gian ác thường thuộc
các tầng lớp bóc lột cho nên văn học dân gian thường giải quyết vấn đề
công lý trong vấn đề đấu tranh giai cấp.
Trong truyện cổ tích, tư tưởng của nhân dân dù cho đôi khi bị lừa dối
mà lầm lạc nhưng vì gắn với những quyền lợi chính đáng của tuyệt đại đa
số người trong xã hội, gắn với sức mạnh của đông đảo quần chúng lao động
15
cho nên nói chung vẫn tìm được hướng đúng, mở được đường ngay. Nhằm
mục đích giải phóng nhân dân, tư tưởng ấy luôn luôn vươn về chân lý.
Dù trong truyện cổ tích, yếu tố tưởng tượng về một thế giới rất xa vời
với hiện thực cuộc sống nhưng do truyện cổ tích ra đời trong xã hội có phân
chia giai cấp, con người luôn bị đày đọa, đau khổ với những bất hạnh và
mâu thuẫn gay gắt cho nên họ muốn đấu tranh để giành hạnh phúc bằng
tưởng tượng về một thế giới mới tốt đẹp hơn. Do đó truyện cổ Campuchia
cũng không khác là bao so với những nét của truyện cổ tích nói chung.
16
CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG TRUYỆN CỔ
CAMPUCHIA
2.1. Giá trị nhân đạo
Trong truyện cổ dân gian Campuchia, ta thường vẫn hiểu, Bụt, Thần,
Phật tượng trưng cho lẽ phải và tình thương, cho “sức vạn năng của cái
thiện ” và luôn luôn can thiệp vào những việc cụ thể. Triết lý “thiện thắng
ác”, “ác giả ác báo” là một triết lý xuyên thấm truyện cổ tích. Chẳng hạn,
mục đích của đạo Phật là làm cho chúng sinh thoát khỏi vòng luân hồi,
thoát khỏi bể khổ. Sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, phát sinh giữa gì
ghẻ và con chồng. Trong truyện Tình mẫu tử đã bao lần nàng muốn cứu mẹ,
dù mẹ nàng chỉ tồn tại dưới hình thức của những vật vô tri vô giác thôi

nhưng điều đó cũng đủ để làm nàng cảm thấy hạnh phúc khi biết mẹ vẫn
hiện hữu bên mình. Ở hiền gặp lành đó là điều mà tác giả dân gian muốn
răn dạy con người. Do đó tựu chung lại cái thiện vẫn thắng, với sự can
thiệp của Bụt, tiêu biểu cho sức vạn năng của cái thiện, cái khung cảnh của
câu chuyện còn chật hẹp, chưa ra khỏi quyền lợi gia đình. Và rồi, cô gái trở
thành hoàng hậu sống sung sướng bên vua và cây lạ - Mẹ yêu của mình.
Còn bọn người độc ác, anh lính, mẹ con mụ vợ lẽ thì sống trong cảnh túng
quẫn, cô độc cho đến chết.
Trong truyện Nêang Cantóc và Nêang SongAncát thì cái ác thắng
cũng chỉ tạm thời, cái thiện vẫn ra sức chiến thắng cuối cùng, nhưng thắng
hay bại là một việc nhãn tiền, trong lúc Nêang cantóc còn sống dù có một
lực lượng siêu nhiên cứu thì sức cứu của lực lượng đó cũng giúp người
thắng được trong những việc rất cụ thể. Bênh vực cho những thành viên lép
vế ấy đồng thời lên án những thành viên có đặc quyền, đặc lợi trong gia
đình phụ quyền, truyện cổ Campuchia bảo vệ và lí tưởng hóa những truyền
thống dân chủ thị tộc. Số phận của Nêang Cantóc, sức sống không thể dập
vùi nổi ở nàng có ý nghĩa khái quát cao, đó không chỉ là số phận của những
người có nghịch cảnh tương tự, tất cả những người mà lao động nô dịch của
họ bị bọn bóc lột tước hết ý nghĩa, còn đời sống riêng của họ thì không có
chút pháp quyền gì và không biết nương tựa vào đâu, đều có thể tìm thấy ở
17
số phận ấy “lời chung”, cả “lời bạc mệnh”, lẫn “ý thức về tính bất diệt của
mình”.
Trong truyện cổ Campuchia sự xuất hiện của Vua, Bụt, Thần Phật là
đại diện cho công lý, cho lẽ phải giúp con người thực hiện được ước mơ và
họ tin vào cuộc sống công bằng, cuộc sống đó còn có phép vua, có đạo lý.
Tuy nhiên, có một số trường hợp trong truyện cổ của Campuchia vua lại là
lực lượng đại diện cho sự độc ác, muốn lợi dụng quyền của mình để đày
đọa con người như trong Thmênh Chây.
Truyện cổ Campuchia ca gợi sức kiên cường của con người, mỗi lần

bị quật ngã là một lần Nêang Cantóc đứng phắt dậy, cô không chịu khuất
phục trước điều ác, trước thủ đoạn của mụ dì ghẻ, mỗi lần chết đi cô lại
biến vào cây chuối, cây tre, và sống lại, không phải để chịu khổ như thuyết
luân hồi quan niệm mà là để đấu tranh. Rút cuộc thì việc luân hồi của
Nêang cantóc chỉ là hình thức và cuộc đấu tranh không khoan nhượng của
cô mới là nội dung, cái đẹp nổi bật nhất của cô là ở tinh thần đấu tranh kiên
cường. Phê phán thế lực cùng cực nếu cần không trừ một hành động nào,
kể cả sự hủy diệt, để chống lại những người lương thiện. Ý nghĩa phản ánh
hiện thực của truyện dường như bị che lấp bởi ý nghĩa giáo dục đạo đức,
phê phán lòng tham của con người nói chung.
Các nhân vật mà tác giả dân gian Campuchia gửi gắm hầu hết là vượt
qua được mọi khó khăn, thử thách. Kết thúc truyện có hậu, vợ chồng đoàn
tụ hạnh phúc, có khi được làm quan, làm vua và giàu có: Bốn anh em tài
giỏi, Ông Vua Cơm Cháy, Chàng trai ba mươi xu, ngoại lệ cũng có trường
hợp tình yêu tan vỡ trong Tum Tiêu, Riêmkê. Các nhân vật bằng sức lao
động bằng tài năng của mình trong các câu truyện đã khẳng định được địa
vị, đạt được ước mơ với một kết quả tốt đẹp nhất.
Chắc hẳn tác giả dân gian Campuchia xưa muốn đưa đến cho chúng
ta thấy số phận của một loại người vốn bị xã hội xưa hắt hủi, sống cô đơn.
Song, với cách nhìn nhân đạo, nhân dân đã cho họ đổi đời đã bộc lộ ở họ
đức tính quý báu cũng như những tài năng vô hạn. Rồi, cũng bằng tấm lòng
nhân đạo, nhân dân đã đưa đến một kết thúc tốt đẹp cho cuộc đời nhân vật,
vĩnh viễn sống sung sướng, hạnh phúc, vợ chồng sum họp chất lạc quan

×