Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phân tích những biện pháp cơ bản để phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.25 KB, 13 trang )

Bài tập học kỳ môn Luật Chứng khoán – Nguyễn Đức Hải
Đề bài số 4: Phân tích những biện pháp cơ bản để phòng ngừa rủi ro trong
hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Lời mở đầu
Sự phát triển của thị trường chứng khoán là đặc trưng và thước đo sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, đồng thời cũng là công cụ đắc lực để
huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của một nước,
một khu vực, thậm chí toàn cầu. Như tất cả các hoạt động kinh doanh khác,
kinh doanh chứng khoán cũng nhằm mục đích cuối cùng và cao nhất là đem
lại lợi nhuận hoặc nhằm thỏa mãn những lợi ích riêng nào đó của các nhà
đầu tư. Kinh doanh chứng khoán có thể nói là một ngành kinh doanh có lợi
nhuận lớn và độ rủi ro cao. Bởi vậy, việc nghiên cứu những biện pháp nhằm
phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán là việc vô cùng
cần thiết và quan trọng góp phần lành mạnh hóa thị trường và đưa nền kinh
tế đất nước đi lên.
Nội dung
I.Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh chứng khoán.
1.Khái niệm
Trong pháp luật thực định ở các nước, tùy thuộc vào quan điểm tiếp
cận của nhà làm luật mà khái niệm kinh doanh chứng khoán được định nghĩa
không hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn, theo quy định của Luật chứng
khoán Hàn Quốc, thuật ngữ “kinh doanh chứng khoán” được hiểu là bất kỳ
nghiệp vụ kinh doanh nào nằm trong các trường hợp sau:
1.Mua và bán chứng khoán;
2. Mua và bán chứng khoán theo ủy thác;
3. Hoạt động như một trung gian hoặc đại lý liên quan đến việc mua hoặc
bán chứng khoán;
4. Hoạt động như một trung gian hoặc đại lý liên quan đến tín thác các giao
dịch được thực hiện trên thị trường chứng khoán;
5. Bảo lãnh phát hành chứng khoán;
6. Thực hiện việc chào bán ra công chúng các chứng khoán tồn đọng;


1
Bài tập học kỳ môn Luật Chứng khoán – Nguyễn Đức Hải
7. Thu xếp chào bán ra công chung các chứng khoán phát hành mới hoặc các
chứng khoán tồn đọng.
Tương tự như cách tiếp cận của Luật chứng khoán Hàn Quốc, pháp
luạt về chứng khoán ở một số nước Đông Nam Á như Thái Lan, Indonesia
cũng đều quy định hoạt động kinh doanh chứng khoán bao gồm các hành vi
môi giới chứng khoán; bảo lãnh phát hành chứng khoán; quản lý quỹ đầu tư
và danh mục đầu tư; tư vấn đầu tư chứng khoán. Trong khi đó, Luật chứng
khoán Trung Quốc hoàn toàn không đưa ra định nghĩa chính thức nào về
kinh doanh chứng khoán mà chỉ có các quy định về giao dịch chứng khoán.
Ở Việt Nam, theo quy định tại khoản 19 Điều 6 Luật chứng khoán
năm 2006 thì “kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới
chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư
vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”. Với định nghĩa này, khái
niệm kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam được hiểu theo nghĩa khá rộng và
cơ bản tương đồng với khái niệm kinh doanh chứng khoán trong pháp luật
các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á và
châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… Nói một cách khái quát,
kinh doanh chứng khoán là loại hình hoạt động thương mại đặc biệt mà ở đó,
các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các chủ thể được phép kinh
doanh chứng khoán tiến hành các nghiệp vụ về chứng khoán cho chính mình
hoặc cho khách hàng vì mục tiêu lợi nhuận tối đa.
2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh chứng khoán:
Thứ nhất, kinh doanh chứng khoán là nghề thương mại đặc thù có liên
quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của các nhà đầu tư là công chúng và các
doanh nghiệp. Vì thế, những chủ thể muốn thực hiện nghề nghiệp này nhất
thiết phải thỏa mãn một số điều kiện rất khắt khe về mặt tài chính, thậm chí
kể cả những điều kiện về vật chất, kỹ thuật để thực hiện hoạt động kinh

doanh chứng khoán. Việc quy định các điều kiện thành lập và hoạt động kinh
doanh chứng khoán chính là nhằm đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt
động an toàn, hiệu quả và đặc biệt là bảo đảm cho quyền lợi chính đáng của
các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.
2
Bài tập học kỳ môn Luật Chứng khoán – Nguyễn Đức Hải
Thứ hai, đối tượng của hoạt động kinh doanh chứng khoán chính là
các chứng khoán – giá trị động sản và các dịch vụ về chứng khoán. Đây là
những hàng hóa và dịch vụ đặc biệt được giao dịch trên thị trường đặc biệt –
thị trường chứng khoán và các giao dịch đó phải tuân thủ quy chế pháp lý
đặc biệt do pháp luật về chứng khoán quy định.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh chứng khoán phải tuân thủ một số
nguyên tắc đặc thù của thị trường chứng khoán, chẳng hạn như nguyên tắc
công bằng, công khai, minh bạch và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà
đầu tư. Việc thể chế hóa bằng pháp luật những nguyên tắc này là những bảo
đảm pháp lý cho sự vận hành an toàn, hiệu quả của thị trường chứng khoán
đồng thời bảo vệ một cách hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp cho các nhà
đầu tư tham gia thị trường.
II. Một số rủi ro chủ yếu trong kinh doanh chứng khoán.
Trong nền kinh tế thị trường, không có hoạt động đầu tư kinh doanh
nào lại không có nguy cơ gặp rủi ro. Lợi nhuận càng cao, rủi ro càng lớn,
nhưng điều ngược lại thì chưa hẳn đã đúng. Đầu tư chứng khoán cũng không
nằm ngoài quy luật này, thậm chí ở mức độ sâu đậm và đa diện hơn. Theo
Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong, Trưởng phòng nghiên cứu kinh tế, Viện nghiên
cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội, thì thị trường chứng khoán Việt Nam
có một số rủi ro chủ yếu sau:
1.Rủi ro từ tính thanh khoản thấp của chứng khoán đầu tư.
Tính thành khoản thấp của chứng khoán mà nhà đầu tư đang sở hữu có
thể do chứng khoán đó khó và thậm chí không thể bán được, hoặc không
được phép bán hay chuyển nhượng nhằm thu hồi vốn đầu tư. Thật không

may cho nhà đầu tư chứng khoán, khi vì một lý do nào đó, chứng khoán đã
mua là của một công ty có tình trạng tài chính thiếu lành mạnh và triển vọng
cung cấp các yếu tố đầu vào, cũng như khả năng tiêu thu sản phẩm thiếu hiệu
quả vững chắc. Thậm chí, chỉ cần một sự thay đổi nhân sự cấp cao trong
công ty cũng có thể khiến giá chứng khoán đó sụt giảm. Và rủi ro đối với
nhà đầu tư sẽ là tối đa khi công ty phát hành chứng khoán bị phá sản và biến
mất trên thương trường.
Nhà đầu tư chứng khoán cũng có thể chịu rủi ro do “bỏ hết trứng vào
một giỏ”. Thậm chí, việc sở hữu thuần túy các cổ phiếu ưu đãi mà không
3
Bài tập học kỳ môn Luật Chứng khoán – Nguyễn Đức Hải
được chuyển nhượng trong thời hạn nhất định cũng có thể khiến nhà đầu tư
gặp rủi ro, nhất là khi cần tiến hành để trả lãi vay ngân hàng hoặc muốn rút
vốn về để đầu tư vào chỗ khác. Ngay cả những chứng khoán tốt nhất cũng có
thể không giữ vững được vị thế lâu dài trước sự biến động của thị trường.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư chứng khoán này có thể
phải hứng chịu cả hai thiệt hại dạng “khấu hao hữu hình” và “khấu hao vô
hình” giá trị và tính thanh khoản của các chứng khoán đang nắm giữ.
2.Rủi ro từ các quy định và chất lượng dịch vụ của sàn giao dịch.
Vì yêu cầu đặc thù đòi hỏi bắt buộc kinh doanh chứng khoán phải
thông qua các tổ chức trung gian, môi giới nên các nhà đầu tư có thể phải
chịu nhiều rủi ro liên quan đến các quy định, quy trình nghiệp vụ và chất
lượng dịch vụ của các tổ chức trung gian. Điển hình là các rủi ro liên quan
đến việc tổ chức khớp lệnh và phân lô giao dịch cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán có tổ chức.
Việc khớp lệnh định kỳ gây rủi ro cho nhà đầu tư vì họ không thể hủy
ngang lệnh đã đặt trước khi kết thúc phiên khớp lệnh, bất chấp những biến
động mới bất lợi trên thị trường, nếu họ không muốn chịu phạt về sự thay đổi
quyết định này. Khớp lệnh định kỳ có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư vì dễ gây
tình trạng cung – cầu ảo trên thị trường và cả tình trạng nghẽn mạch, quá tải

hoặc phân biệt đối xử theo kiểu bỏ rơi nhà đầu tư nhỏ ở các sàn giao dịch.
Tuy vậy, việc khớp lệnh định kỳ này cũng có thể tạo cơ hội để nhà đầu tư
giảm bớt thiệt hại khi hủy lệnh đã đặt sau khi khớp lệnh đối với các chứng
khoán còn dư chưa xử lý hết trong phiên giao dịch gần nhất mà họ tham dự.
Trong khi đó, việc khớp lệnh liên tục, mặc dù cho phép các nhà đầu tư đặt
lệnh thận trọng, chính xác hơn, được giải quyết nhu cầu mua, bán nhiều hơn,
nhanh chóng, bình đẳng hơn và giảm thiểu tình trạng cung cầu áo trên thị
trường chứng khoán, song có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư ở chỗ: khớp lệnh
liên tục là giao dịch trên cơ sở khớp liên tục các lệnh mua, bán chứng khoán
ngay khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch, không phải chờ đến thời
điểm định kỳ như kiểu khớp lệnh định kỳ.
3.Rủi ro từ các chấn động thị trường
4
Bài tập học kỳ môn Luật Chứng khoán – Nguyễn Đức Hải
Các nhà đầu tư chứng khoán có thể phải gánh chịu nhiều rủi ro liên
quan đến các chấn động thị trường trong nước hoặc nước ngoài gây ra, bởi:
- Các trào lưu mua, bán chứng khoán theo tâm lý đám động làm phá
vỡ các quy luật vận động bình thường của thị trường.
- Các hoạt động đầu cơ, tung tin đồn thất thiệt, gây nhiễu thông tin và
tự đánh bóng, thổi giá hoặc thậm chí lừa đảo và thông đồng có tổ chức của
các nhà đầu tư chuyên nghiệp đủ sức gây biến động thị trường hòng trục lợi.
- Các chấn động thị trường khác từ nước ngoài.
Ngoài ra, các nhà đầu tư còn phải chịu rủi ro liên quan đến các chính
sách của Chính phủ, những thay đổi trong chính sách tỷ giá, lạm phát, tỷ lệ
nắm giữ cổ phần trong công ty cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược, các
nhà đầu tư nước ngoài; chính sách xuất nhập khẩu, độc quyền hoặc các quan
hệ quốc tế song phương, đa phương…
4. Rủi ro thông tin trong đầu tư chứng khoán.
Có thể nói, trong các loại rủi ro mà nhà đầu tư gặp phải thì rủi ro
thông tin là nguy hiểm nhất và là cội nguồn của tất cả các loại rủi ro khác.

Hiếm có hoạt động kinh doanh nào mà sự thành bại của nhà đầu tư lại gắn bó
mật thiết, thậm chí phụ thuộc vào sự đa dạng, hệ thống, toàn diện và chính
xác các thông tin có liên quan trực tiếp và gián tiếp như đầu tư chứng khoán.
Các nhà đầu tư chứng khoán thì luôn háo hức trước mọi tin đồn và hăng hái
góp phần vào tin đồn, luôn cảnh giác đề phòng nhưng cũng nhẹ dạ cả tin.
Trong số họ, ai là người nắm được nhiều, nhanh, chính xác thông tin, người
đó sẽ dễ dàng chiến thắng và chiếm thế thượng phong, giảm thiểu những rủi
ro chết người do mù mờ thông tin.
Một báo cáo tài chính hoặc cáo bạch chưa được kiểm toán, thẩm định
bởi các tổ chức độc lập, chuyên nghiệp, có uy tín và trình độ chuyên môn
cao; một thông tin đến chậm hoặc bị cắt xén không đầy đủ, không chính xác
về hoạt động kinh doanh của công ty phát hành cổ phiếu, về môi trường pháp
lý và về các nhà đầu tư khác trên cùng sân chơi, hoặc đơn giản là về tình
hình thời tiết hay dịch bệnh nào đó…đều có thể trở thành đầu mối trực tiếp
gây ra các thiệt hại khôn lường cho nhà đầu tư chứng khoán.
5. Rủi ro lớn từ hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán.
5

×