Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LUẬT NGÂN HÀNG TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.5 KB, 73 trang )

CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LUẬT NGÂN HÀNG
TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG, NGÂN HÀNG VÀ CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG
1 Sự hình thành của hoạt động ngân hàng và các ngân hàng:
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của
tiền tệ. Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, để đáp ứng nhu cầu lưu thông, trao đổi hàng hóa, người ta đã
“sáng tạo” ra tiền tệ với vai trò là vật ngang gia chung. Trước đây, đối với nền kinh tế hàng hóa giản đơn,
phương thức trao đổi sơ khai “hàng đổi hàng” được các bên áp dụng. Tuy nhiên, phương thức này chỉ
khả thi khi cả hai bên cùng lúc có nhu cầu về hàng hóa của nhau một cách tương thích. Do vậy, nhiều
trường hợp phương thức “hàng đổi hàng” trở nên không hữu hiệu trong khi nhu cầu trao đổi giữa các bên
vẫn có. Theo thời gian, hoạt động lưu thông, trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển, một phương thức
trao đổi tiến bộ hơn đã được áp dụng, đó là “hàng-vật ngang giá chung-hàng”. Thực chất, các vật ngang
giá chung đó mang bản chất của tiền và được xem như hình thức sơ khai đầu tiên của tiền tệ. Ở giai đoạn
đầu, vật ngang giá chung-tiền được các bên ấn định là vật có giá trị thực chẳng hạn như da thú, kim loại,
vỏ sò….Về sau, để giản tiện và ít tốn công bảo quản, người ta đã biết đến hình thức của tiền tiến bộ hơn.
Theo đó, các bên có thể quy ước với nhau về vật ngang giá chung mang tính chất ước lệ, không nhất thiết
phải là vật có giá trị thực chẳng hạn như tiền kim loại, tiền giấy…
Sự xuất hiện của tiền tệ càng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lưu thông mua bán hàng hóa.
Hoạt động trao đổi ngày càng phát triển, vượt ra khỏi phạm vi giữa một vùng, khu vực, quốc gia nhất
định. Các thương nhân có thể mang hàng hóa tiến hành trao đổi giữa các vùng lãnh thổ, khu vực khác
nhau. Tuy nhiên, theo đặc trưng vùng miền, tập quán, xã hội tồn tại nhiều hình thức tiền tệ đóng vai trò là
vật ngang giá chung khác nhau. Do đó, nhu cầu chuyển đổi tiền tệ phù hợp với từng vùng, nơi mà các
thương nhân đến trao đổi hàng hóa đã nảy sinh. Nhằm thỏa mãn nhu cầu lưu thông, trao đổi hàng hóa
phát triển liên tục xã hội xuất hiện những thương nhân đầu tiên chuyên thực hiện dịch vụ trao đổi chính
vật ngang giá chung-tiền tệ. Để xác nhận dịch vụ trao đổi tiền đã được thực hiện, các thương nhận nhận
chuyển đổi tiền sẽ phát hành chứng thư mang bản chất của biên nhận về gửi, giữ tiền tệ. Về sau, chế độ
tư hữu hóa làm xuất hiện giai cấp và phân biệt giữa những người nắm giữ nhiều tài sản với những người
sỡ hữu ít ỏi số tài sản xã hội dưới hình thức giá trị là tiền. Điều này đã làm nảy sinh những mâu thuẫn về
cung, cầu liên quan đến việc sử dụng tiền tệ. Những thương nhân nhận cất giữ trong kho loại tài sản


được đưa ra làm vật ngang chung vô hình chung trở thành những chủ thể trung gian có thể tạm thời giải
quyết được mâu thuẫn giữa những người đang có nhu cầu về tiền với những thành viên còn lại đang tạm
thời nhàn rỗi tiền tệ kiếm được trong quá trình sản xuất, lưu thông, trao đổi hàng hóa. Những thương
nhân này không chỉ thuần túy làm dịch vụ kho quỹ mà còn làm trung gian thanh toán, thực hiện dịch vụ
nhận, sử dụng cho vay những đồng tiền đang tạm thời nhàn rỗi. Các thương nhân này trở thành những
người đầu tiên kinh doanh tiền tệ. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, nghề ngân hàng xuất hiện đầu
tiên ở miền Bắc Italia vào thời kỳ trung cổ. Người Italia gọi nghề kinh doanh này là “Banco”.
1
Có thể thấy rằng, bắt đầu từ việc vật ngang giá chung xuất hiện trong mua bán, trao đổi hàng hóa,
các quan hệ và hoạt động kinh doanh dịch vụ trao đổi liên quan trực tiếp đến vật ngang giá chung đã
được hình thành. Khi vật ngang giá chung được cố định bằng những vật liệu có giá trị nội tại cao và có
nhiều thuộc tính tự nhiên thuận tiện cho việc bảo quản, chia nhỏ cũng như lưu hành, khi đó vật ngang giá
chung chính thức được xem là tiền tệ. Cùng với nó là sự xuất hiện của những thương gia chuyên kinh
doanh những dịch vụ này mang tính chất của hoạt động ngân hàng và những ngân hàng ở giai đoạn sơ
khai. Chính sự ra đời của ngân hàng và hoạt động kinh doanh tiền tệ là kết quả phân công lao động xã
hội trong lưu thông tiền tệ và thực hiện chức năng của tiền tệ.
2
1
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân hàng, NXB Công an nhân dân, 2006, tr 8.
2
Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, Giáo trình Luật Ngân hàng, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, tr 10.
1
Trong lịch sử, quá trình phát triển của các mô hình ngân hàng và các loại hình tín dụng có mối quan
hệ mật thiết với quá trình phát triển của sản xuất, lưu thông hàng hóa, tiền tệ. Cho đến thế kỷ 15, những
tổ chức chuyên kinh doanh các dịch vụ liên quan đến tiền tệ phục vụ cho quá trình trao đổi mua bán
chính thức được thành lập và được gọi tên là ngân hàng. Ở giai đoạn này, hoạt động của các ngân hàng
vẫn mang tính riêng lẽ, biệt lập, chưa hình thành nên một hệ thống, chưa có sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn
nhau. Mỗi ngân hàng đều có những hoạt động nghiệp vụ như phát hành tiền, nhận tiền gửi, cho vay, làm
dịch vụ thanh toán, chuyển đổi tiền. Mô hình ngân hàng được thực hiện tất cả các dịch vụ từ phát hành
tiền cho đến các hình thức dịch vụ khác một cách song song được gọi là mô hình ngân hàng một cấp.

Đến cuối thế kỷ 19, sản xuất lưu thông hàng hóa phát triển cao hơn đòi hỏi phạm vi và không gian
trao đổi phải được mở rộng hơn nữa. Với mô hình ngân hàng một cấp, trong cùng một quốc gia có thể
tồn tại cùng lúc nhiều loại tiền tệ khác nhau, tương ứng với những ngân hành phát hành khác nhau. Sự
tồn tại cùng lúc các loại tiền tệ dưới hình thức kỳ phiếu ngân hàng ở phạm vi một quốc gia đã gây trở
ngại cho sản xuất, lưu thông hàng hóa, dẫn đến tình trạng thừa tiền, lạm phát. Do vậy, ở một số quốc gia,
nhà nước đã can thiệp để tháo gỡ trở ngại này bằng cách chỉ cho phép một số ngân hàng thỏa mãn một số
điều kiện nhất định mới được phép phát hành tiền đưa vào lưu thông. Các ngân hàng không đủ điều kiện
để phát hành tiền dưới dạng kỳ phiếu ngân hàng thì chỉ được tiến hành các nghiệp vụ kinh doanh ngân
hàng như nhận tiền gửi, cho vay, chuyển, đổi tiền… Như vậy, hoạt động ngân hàng đã hình thành hai hệ
thống ngân hàng: ngân hàng phát hành và ngân hàng trung gian. Điều này đã dẫn đến quá trình chuyển
đổi mô hình ngân hàng một cấp sang mô hình ngân hàng hai cấp. Theo đó mô hình ngân hàng hai cấp sẽ
có sự phân biệt giữa ngân hàng thực hiện hoạt động phát hành tiền với những ngân hàng còn lại chỉ được
phép tiến hành các hoạt động ngân hàng thuần túy mà không được phép phát hành tiền.
Đến cuối thế kỷ 19, hệ quả của việc phát triển mạnh mẽ của lưu thông hàng hóa và tiền tệ và yêu
cầu ngăn chặn hiện tượng lạm phát có thể gia tăng đã đòi hỏi thống nhất thị trường tiền tệ sao cho mỗi
quốc gia chỉ lưu hành một đồng tiền duy nhất và nhà nước phải kiểm soát được lượng tiền tệ lưu thông.
Do vậy, nhiều nước đã ban hành pháp luật quy định chỉ cho phép một ngân hàng duy nhất được phép tiến
hành hoạt động phát hành tiền. Ngân hàng này được gọi là ngân hàng phát hành tiền và phân biệt với các
ngân hàng trung gian còn lại không được phép phát hành tiền. Từ đặc quyền do nhà nước quy định, ngân
hàng phát hành tiền ngay càng có vị trí quan trọng trong nền sản xuất, lưu thông hàng hóa cũng như tác
động chi phối đến hệ thống các ngân hàng trung gian. Chính vì lẽ đó, để định hướng hoạt động sản xuất,
thương mại và kiểm soát được lượng tiền tệ phát hành, lưu thông nhằm kiểm soát được hiện tượng lạm
phát, nhà nước đã sử dụng quyền lực chính trị để có thể chi phối được ngân hàng phát hành tiền. Hiện
tượng này bắt đầu cho quá trình quốc hữu hóa ngân hàng phát hành tiền. Từ đầu thế kỷ XX và phổ biến
là từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai (1945), hầu hết các quốc gia đã thực hiện việc quốc hữu hóa
ngân hàng phát hành tiền. Theo đó, ngân hàng này trở thành ngân hàng trung ương, ngân hàng nhà nước,
có vị trí đặc biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất lưu thông và mang bản chất là “ngân hàng của
các ngân hàng”. Ngân hàng trung ương ngoài đặc quyền phát hành tiền còn là trung tâm tiền tệ, trung tâm
thanh toán tổng mà các ngân hàng khác phải mở tài khoản thanh toán, làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
Ngày nay, hầu hết các nước đang áp dụng mô hình ngân hàng hai cấp. Trong đó, ngân hàng được

phân biệt thành khái niệm ngân hàng trung ương và ngân hàng trung gian.
2. Khái niệm ngân hàng, hoạt động ngân hàng:
Khái niệm ngân hàng và hoạt động ngân hàng xuất hiện trong một giai đoạn lịch sử nhất định, khi
tiền tệ đã ra đời và nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ. Khái niệm ngân hàng và hoạt động ngân
hàng chịu sự tác động bởi những biến đổi về kinh tế xã hội, tập quán và pháp luật của quốc gia trong
từng giai đoạn nhất định. Cho nên, quan niệm về ngân hàng, hoạt động ngân hàng cũng rất đa dạng.
Trong tài liệu nghiên cứu và văn bản pháp luật của nhiều nước, khái niệm ngân hàng thường được
dùng để chỉ hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do vậy, các đạo luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh
ngân hàng của nhiều quốc gia hầu như đều có điều luật ghi nhận những hoạt động được xem là hoạt động
2
kinh doanh ngân hàng. Ở một số nước, pháp luật không đưa ra định nghĩa tổng quát về hoạt động ngân
hàng mà liệt kê các hoạt động được pháp luật thừa nhận là hoạt động ngân hàng.
3

Ở Việt Nam, khái niệm hoạt động ngân hàng được dùng để chỉ các hoạt động kinh doanh thông
qua việc cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng
dịch vụ thanh toán qua tài khoản của tổ chức tín dụng. Trong đó, nhận tiền gửi là việc một tổ chức tín
dụng nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo
nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận. Cấp tín dụng được biểu
hiện dưới hình thức tổ chức tín dụng thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam
kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu,
cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Cung ứng
dịch vụ thanh toán qua tài khoản được ghi nhận là họat động của tổ chức tín dụng trong việc cung ứng
phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu,
thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của
khách hàng.
4
Theo đó, ngân hàng được ghi nhận ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực
hiện tất cả các hoạt động ngân hàng.

5
Như vậy, các nhà làm luật xác định rằng ngân hàng là một định chế
tài chính, một tổ chức trung gian tài chính gắn liền với hoạt động ngân hàng với phạm vi họat động được
mở rộng hơn cả. Thực chất, khái niệm ngân hàng chỉ là một bộ phận của khái niệm về tổ chức tín dụng.
Nội hàm của thuật ngữ này bao gồm cả khái niệm ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng. (Ở
những chương sau sẽ trình bày rõ hơn).
II. SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VÀ
PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển của từng thời
kỳ cách mạng và công cuộc xây dựng Đất nước.
1.Giai đoạn 1945-1951:
Trong suốt thời kỳ phong kiến cho đến nửa đầu thế kỷ 19, Việt Nam hầu như không tồn tại định
chế ngân hàng. Tuy nhiên những hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng như in đúc, cho vay đã xuất hiện
trong đời sống kinh tế xã hội.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, bắt đầu cho giai đoạn thực dân nửa phong kiến ở Việt
Nam. Với mục đích đô hộ lâu dài và nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động giao thương phục vụ cho chính
quyền thuộc địa, tổng thống Pháp giai lúc bấy giờ đã ban hành Sắc lệnh ngày 21/01/1857 thành lập ngân
hàng Đông Dương. Ngân hàng này có chức năng chủ yếu là phát hành tiền, tiến hành cho vay, chiết
khấu. Về bản chất, ngân hàng Đông Dương là ngân hàng thương mại cổ phần với chức năng đổi tiền, cho
vay tín dụng. Tuy nhiên, đây cũng là ngân hàng được phép phát hành tiền trên toàn cõi Đông Dương.
Giai đoạn này, nó được xem như một công cụ cung cấp phương tiện để thực dân Pháp có thể tiến hành
đầu tư, kinh doanh, cũng như cung cấp các dịch vụ tiền tiền tệ cho chính quyền đô hộ.
Sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công, ngày 23/11/1946 tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá I đã
quyết định giao cho Bộ Tài chính phát hành giấy bạc Việt Nam trong phạm vi cả nước. Bộ Tài chính là
cơ quan phát hành và quản lý tiền tệ. Ngày 3/2/1947, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 14/SL về việc
thành lập Nha Tín dụng trực thuộc Bộ Tài chính.
2.Giai đoạn từ 1951 đến 1986:
2.1. Giai đoạn từ 1951-1975:
3
Đạo luật về ngành luật tín dụng của Cộng hoà Liên bang Đức 1992; Luật Ngân hàng Ba Lan 1989; Luật các tổ chức tài

chính và ngân hàng của Malaysia 1989; Giáo trình Luật Ngân hàng, Đại học Luật Hà Nội, 2006, tr8
4
Điều 4 Luật Ngân hàng nhà nước Vịêt Nam 1997 (sửa đổi, bổ sung 2003)
5
Khỏan 2 điều 4 Luật Các Tổ chức tín dụng 2010 (16.06.2010)
3
Ngày 6/5/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt
Nam là một bộ trực thuộc Chính phủ, tham gia vào việc lập kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia, thực
hiện những hoạt động liên quan đến ngân hàng, tiền tệ theo quy định; Sắc lệnh 17/SL bãi bỏ Nha Ngân
khố quốc gia và Nha tín dụng sản xuất thuộc Bộ Tài chính. Ngày 21/5/1951, Chính phủ ra Sắc lệnh
19/SL cho phép Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam được phát hành giấy bạc 20 và 50 đồng; Sắc lệnh 20/SL
ấn định tỷ lệ giá trị đồng bạc do Ngân hàng phát hành so với giá trị đồng bạc do Bộ Tài chính phát hành.
Ngày 27/5/1951 Thủ tướng CP ra nghị định 94/Ttg quy định về tổ chức Ngân hàng quốc gia. Theo đó, tổ
chức của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam bao gồm: ở trung ương, chi nhánh liên khu, chi nhánh ở tỉnh và
chi nhánh ở nước ngoài. Các chi nhánh không có tư cách pháp nhân, hoạt động với tư cách là cơ quan
cấp dưới đại diện của Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Chức năng của ngân hàng bao gồm: phát hành giấy
bạc, điều hoà sự lưu hành tiền tệ, quản lý ngân sách quốc gia; huy động vốn trong nhân dân, điều hòa,
mở rộng tín dụng; quản lý ngoại tệ và thanh toán các khoản giao dịch với nước ngoài…Như vậy, ở giai
đoạn này, Việt Nam xây dựng ngân hàng quốc gia theo mô hình một cấp đựoc thiết lập từ trung ương
đến địa phương. Hệ thống ngân hàng một cấp tồn tại cho đến những năm 80.
Đến những năm 60, hệ thống ngân hàng Việt Nam ghi nhận thêm hình thức hợp tác xã tín dụng
và Quỹ tiết kiệm. Hệ thống hợp tác xã tín dụng cho nhiệm vụ làm đại lý cho ngân hàng quốc gia Việt
nam, thực hiện việc huy động vốn nhàn rỗi trong xã viên hợp tác xã và cho vay.
Ngày 26/10/1961 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định 171/CP quy định nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức của Ngân hàng nhà nước Việt Nam (tên mới của Ngân hàng Quốc gia). Trong hệ thống
ngân hàng cũng đã xuất hiện nhu cầu tách bạch giữa chức năng quản lý tiền tệ với các hoạt động kinh
doanh nghiệp vụ ngân hàng. Do vậy, trên cơ sở của Nghị định này, ngân hàng nhà nước Việt đã phân biệt
thành hệ thống Chi nhánh ngân hàng nhà nước trung tâm tại các đơn vị tỉnh thành và hệ thống chi nhánh
ngân hàng nghiệp vụ tại các thị xã và Chi điếm ngân hàng nghiệp vụ tại các huyện làm nhiệm vụ kinh
doanh, giao dịch trực tiếp với khách hàng.

Ngày 30/10/1962 Hội đồng Chính phủ ra Nghị định 115/CP thành lập ngân hàng ngoại thương
Việt Nam làm nhiệm vụ tín dụng, thanh toán đối ngoại trong hệ thống ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam chỉ thực hiện chức năng quản lý ngoại hối mà không còn trực tiếp thực
hiện hoạt động giao dịch ngoại tệ, chuyển giao hoạt động này cho ngân hàng ngoại thương.
2.2. Giai đoạn từ 1975 đến 1987:
Miền Nam Việt Nam từng tồn tại các hệ thống ngân hàng của chế độ ngụy quyền Việt Nam Cộng
hòa. Sau 1975, hệ thống các ngân hàng này được tiếp quản và đặt dưới quyền quản lý của chính phủ cách
mạng lâm thời. Ngày 6/6/1975 chính phủ cách mạng lâm thời ban hành nghị định 04/PCT-75 thành lập
ngân hàng quốc gia Việt Nam. Trong thời gian này, Việt Nam vẫn tồn tại hai hệ thống ngân hàng và hai
loại tiền tệ trên lãnh thổ Việt Nam.
Ngày 16/6/1977, nghị định 163-CP của Chính phủ ban hành quy định lại cơ cấu bộ máy nhà nước.
Trong đó, các ngân hàng như ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng công nghiệp, ngân hàng thương nghiệp,
ngoại thương, quỹ tiết kiệm XHCN đều nằm trong một hệ thống của ngân hàng nhà nước Việt Nam. Các
ngân hàng này không có tư cách pháp nhân, chỉ đóng vai trò như cục, vụ cơ quan chức năng của ngân
hàng nhà nước.
Ngày 24/6/1981 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định 259/CP chuyển ngân hàng kiến thiết Việt Nam
trực thuộc Bộ Tài chính sang trực thuộc ngân hàng nhà nước Việt Nam và thành lập ngân hàng đầu tư và
xây dựng Việt Nam. Giai đoạn này đã đánh dấu bước hoàn thiện tiếp tục của hệ thống ngân Việt Nam, cụ
thể bao gồm: Ngân hàng nhà nước và 3 ngân hàng chuyên nghiệp là Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng
đầu tư và quỹ tiết kiệm XHCN.
1981-1985, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định 65/HĐBT về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của
ngân hàng nhà nước. Trên cơ sở đó, hệ thống ngân hàng bao gồm: Ngân hàng nhà nước và các ngân
hàng chuyên nghiệp trực thuộc Ngân hàng nhà nước. Những ngân hàng chuyên nghiệp này có tư cách
pháp nhân hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế. Đây được xem như tiền đề để tiến tới chuyển đổi mô
hình ngân hàng một cấp ở Việt Nam sang mô hình ngân hàng hai cấp hiện đại.
4
2.3 Giai đoạn từ 1987-2004:
Năm 1986 bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc cải cách
kinh tế. Một trong những nội dung quan trọng cần phải đổi mới chính là hệ thống ngân hàng-yếu tố giữ
vai trò như huyết mạch của nền kinh tế.

Ngày 26/3/1988 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT về tổ chức bộ máy Ngân
hàng nhà nước. Theo đó, Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng, được tổ
chức thành hệ thống thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Mô hình Ngân hàng nhà nước Việt Nam bao
gồm 2 cấp: Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các ngân hàng chuyên doanh trực thuộc. Quy định này đã
bước đầu thiết lập nên căn cứ pháp lý cho hình thức hệ thống ngân hàng 2 cấp. Trong đó, Ngân hàng nhà
nước Việt Nam vẫn giữ vai trò là cơ quan chủ quản của các ngân hàng chuyên doanh quốc doanh. Chức
năng chủ yếu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã dần chủ yếu tập trung vào việc phát hành tiền, điều
hòa lưu thông tiền tệ và đảm bảo nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, thanh toán. Các chức
năng kinh doanh trực tiếp và thực hiện các dịch vụ ngân hàng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế chủ yếu
do các ngân hàng chuyên doanh nhà nước đảm nhận. Điều này đánh dấu bước chuyển biến quan trọng
trong hoạt động ngân hàng và hệ thống ngân hàng ở Việt Nam. Tuy nhiên, ở giai đoạn mới bắt đầu tiến
hành công cuộc cải cách, sự tách biệt giữa Ngân hàng nhà nước Việt Nam với hệ thống các ngân hàng
chuyên doanh vẫn còn chưa thật sự cụ thể. Các ngân hàng chuyên doanh vẫn được xem như các cục, vụ
trực thuộc Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Do đó, yếu tố chủ động, tự chịu trách nhiệm và sự độc lập
giữa hệ thống ngân hàng chuyên doanh với ngân hàng nhà nước Việt Nam cần được tiếp tục cải thiện.
Xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện mô hình ngân hàng 2 cấp, ngày 23/5/1990 Hội đồng nhà nước
ban hành “Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính” có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1990. Đây chính là căn cứ pháp lý để chính thức xác lập mô
hình ngân hàng ở Việt Nam trở thành mô hình 2 cấp, đánh dấu bước ngoặt trong quá trình đổi mới hệ
thống ngân hàng và hoạt động tiền tệ-tín dụng ngân hàng. Theo đó, ngân hàng nhà nước Việt Nam chỉ
đảm nhận vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Các nghiệp
vụ ngân hàng sẽ do hệ thống các tổ chức tín dụng trung gian tiến hành. Các ngân hàng thương mại và
những tổ chức tín dụng trung gian được pháp lệnh trao quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về
hoạt động kinh doanh của mình.
Trong quá trình thực thi hai pháp lệnh đã bộc lộ một số điểm hạn chế trước những yêu cầu mới
của quá trình phát triển kinh tế xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế chẳng hạn như hạn chế trong
quy định về nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế, chưa quy định bao quát các loại hình
tổ chức tín dụng, chưa xác định rõ các hình thức huy động vốn, cấp tín dụng… Do vậy, ngày 12/1997
Quốc hội ban hành Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật Các Tổ chức tín dụng. Đó là một bước
tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện pháp luật về ngân hàng. Hai đạo luật cũng đã có những tác động

tích cực trong đời sống kinh tế xã hội như tạo ra cơ sở pháp lý cao hơn cho hoạt động của ngân hàng nhà
nước và hệ thống các tổ chức tín dụng; đồng thời, điều chỉnh các hoạt động ngân hàng theo hướng phù
hợp với các quy luật của kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Tiếp tục xu hướng đổi mới toàn
diện hệ thống và hoạt động ngân hàng, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Ngân hàng nhà nước Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1/8/2003 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Các Tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 1/10/2004. Những nội dung sửa đổi chủ yếu tập trung vào
việc xác lập một số định nghĩa, các quy định về hình thức của các tổ chức tín dụng, hoạt động kiểm tra,
kiểm toán trong nội bộ các tổ chức tín dụng…
Tuy nhiên, trong xu thế phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính, của ngành Ngân hàng nói
chung và hệ thống Ngân hàng Nhà nước nói riêng cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện để tiếp cận với các
chuẩn mực quốc tế và phù hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội mới của đất nước. Một số quy định của
Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1997 (sửa đổi, bổ sung 2003), Luật Các Tổ chức tín dụng 1997 (sửa
đổi, bổ sung 2004) tỏ ra không phù hợp và dẫn đến những bất cập trong thực tiễn triển khai. Chẳng hạn
như, Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam chưa trao đầy đủ thẩm quyền cho Ngân hàng nhà nước với tư
5
cách là một Ngân hàng Trung ương. Điều này đã phần nào hạn chế khả năng chủ động và tính linh hoạt
của NHNN trong việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của một NHTƯ như các quy định liên quan đến
cơ chế tài chính, cơ cấu tổ chức của ngân hàng nhà nước. Mục tiêu hoạt động của ngân hàng nhà nước
được quy định trong Luật còn khái quát. Các quy định pháp lý về điều hành các công cụ chính sách tiền
tệ như chiết khấu, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất cơ bản còn chưa rõ rang. Ngòai ra,
pháp luật hiện hành còn thiếu các quy phạm điều chỉnh họat động cung cấp thông tin, số liệu thống kê
kinh tế vĩ mô liên quan đến lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Đối với pháp luật điều chỉnh các tổ chức tín dụng và họat động của nó, việc xây dựng đạo luật mới
về Luật Các tổ chức tín dụng trong giai đoạn hiện nay xuất phát từ những yêu cầu khách quan như: khắc
phục bất cập của Luật Các TCTD hiện hành; Đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính trong lĩnh vực ngân
hàng. Một số quy định của Luật Các TCTD hiện hành chưa theo kịp so với công cuộc cải cách hành
chính chung đang được thực hiện. Một số công việc chỉ cần giao cho NHNN nhưng Luật lại giao cho
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ, nên phát sinh nhiều đầu mối quản lý, làm chậm trễ quá trình
hướng dẫn thực hiện Luật và việc xử lý các vấn đề phát sinh trên thực tiễn. Ngoài ra, thủ tục xin chấp
thuận, chuẩn y các thay đổi của TCTD trong Luật Các TCTD hiện hành mang tính hành chính, không cần

thiết và làm tăng thêm chi phí cho các TCTD cũng cần được xem xét để thay đổi cho phù hợp;- Đáp ứng
nhu cầu đa dạng hoá, tính năng động, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng.
Luật Các TCTD hiện hành chưa tạo lập được cơ sở pháp lý để cụ thể hoá hoặc đa dạng hoá các dịch vụ
ngân hàng. Các quy định của Luật Các TCTD hiện hành chưa phân biệt phạm vi hoạt động của từng loại
hình TCTD, do vậy, ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển của các loại hình TCTD. Có thể nói,
những bất cập của Luật Các TCTD như đã nêu không chỉ làm hạn chế sự phát triển và hoạt động kinh
doanh của các tổ chức tín dụng, mà còn ảnh hưởng lớn đến hiệu quả quản lý, thanh tra, giám sát an toàn
của NHNN đối với hệ thống TCTD. Việc soạn thảo và ban hành Luật các TCTD mới gắn với việc khắc
phục bất cập của Luật hiện hành, đặc biệt là các quy định về tổ chức, quản trị, điều hành, kiểm soát, hoạt
động và bảo đảm an toàn, tạo lập khung pháp lý hoàn chỉnh, minh bạch cho tổ chức và hoạt động của các
TCTD là yêu cầu cấp thiết của thực tiễn.
Hơn nữa, vi c xây d ng m i Lu t NHNN Vi t Namệ ự ớ ậ ệ v Lu t Các T ch c tín d ngà ậ ổ ứ ụ sẽ
t o ra ạ khuôn kh pháp lý ổ trong l nh v c t i chính ngân h ng ĩ ự à à phù h p v i chu n m cợ ớ ẩ ự
v thông l qu c tà ệ ố ế và ho n c nh th c ti n c a Vi t Nam. ng th i, vi c hòan thi nà ả ự ễ ủ ệ Đồ ờ ệ ệ
pháp lu t v ngân h ng nh n c Vi t Nam v các t ch c tín d ng còn xu t phát tậ ề à à ướ ệ à ổ ứ ụ ấ ừ
yêu c u v s th ng nh t, ng b c a h th ng pháp lu t Vi t Namầ ề ự ố ấ đồ ộ ủ ệ ố ậ ệ , nh m t o ra sằ ạ ự
t ng thích gi a pháp lu t v ngân h ng nh n c Vi t Nam, T ch c tín d ng v iươ ữ ậ ề à à ướ ệ ổ ứ ụ ớ
nh ng v n b n lu t liên quan c ban h nh m i ho c c s a i, b sung nh :ữ ă ả ậ đượ à ớ ặ đượ ử đổ ổ ư
Lu t T ch c Qu c h i, Lu t s a i, b sung m t s i u c a Lu t T ch c Qu cậ ổ ứ ố ộ ậ ử đổ ổ ộ ố đ ề ủ ậ ổ ứ ố
h i, Lu t T ch c Chính ph , B lu t Dân s , Lu t Doanh nghi p, Lu t Th ngộ ậ ổ ứ ủ ộ ậ ự ậ ệ ậ ươ
m i, Lu t u t , Lu t Ch ng khoán.ạ ậ Đầ ư ậ ứ
Do vậy, ngày 16 tháng 6 năm 2010, Quốc Hội đã thông qua hai văn bản luật Ngân hàng nhà nước
Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng thay thế cho Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1997 (sửa đổi
bổ sung 2003), Luật Các Tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi bổ sung 2004). Hai văn bản này sẽ có hiệu lực
thi hành từ ngày 01.01.2011.
III. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT NGÂN HÀNG
1. Định nghĩa:
Để có thể hiểu rõ về luật ngân hàng, chúng ta cần phải xét đến vị trí của luật ngân hàng trong hệ
thống pháp luật Việt Nam. Xu hướng chung ở nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam) là tách bạch giữa
luật tài chính và luật ngân hàng. Tuy đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của luật ngân hàng

có thể được xác định cụ thể nhưng chưa hẳn luật ngân hàng được thừa nhận là một ngành luật độc lập
6
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, luật ngân hàng với các quy phạm pháp luật của nó có vai
trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
Xét theo phương diện là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, khái niệm luật ngân hàng phụ
thuộc vào tiêu chí phân định ngành luật, do vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về nội hàm của khái niệm
này. Từ những quan điểm phổ biến và chung nhất, luật ngân hàng có thể được hiểu như sau:
Luật ngân hàng là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh và quy định về địa vị pháp lý của
ngân hàng trung ương và của các tổ chức tín dụng; các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý
nhà nước và các quan hệ giao dịch có liên quan đến hoạt động lưu thông tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, các
hoạt động ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng của các tổ chức tín dụng và những chủ thể khác trong lĩnh
vực ngân hàng và thị trường tiền tệ.
6
2. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của luật ngân hàng:
Căn cứ vào khái niệm, đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng có thể được hình dung khái quát là
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước cũng như các quan hệ xã hội nảy sinh từ
hoạt động lưu thông tiền tệ, tín dụng, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và các chủ thể khác tham gia
vào lĩnh vực ngân hàng. Như vậy, đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng bao gồm hai nhóm:
-Các quan hệ quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng.
-Các quan hệ về tổ chức và hoạt động kinh doanh ngân hàng của các tổ chức tín dụng và những chủ
thể khác có tham gia vào lĩnh vực này.
Căn cứ vào nội dung điều chỉnh các quan hệ pháp luật ngân hàng, đối tượng điều chỉnh của luật
ngân hàng có thể được phân biệt thành những nhóm quan hệ xã hội như sau:
-Nhóm các quan hệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
-Nhóm các quan hệ tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng
-Nhóm các quan hệ kinh doanh ngân hàng của các tổ chức khác, tuy không phải là tổ chức tín dụng
nhưng được phép thực hiện một số hoạt động thuộc lĩnh vực ngân hàng.
Về phương pháp điều chỉnh, luật ngân hàng sử dụng hai phương thức chủ yếu để tác động vào các
quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của mình là: phương pháp mệnh lệnh phục tùng và phương
pháp bình đẳng thỏa thuận. Trong đó, phương pháp mệnh lệnh phục tùng chủ yếu được áp dụng trong

các quan hệ xã hội có sự tham gia của ngân hàng nhà nước Việt Nam với vai trò là cơ quan quản lý nhà
nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Lưu ý là, trong một số trường hợp, nếu ngân hàng
nhà nước Việt Nam tham gia vào những mối quan hệ mang tính chất nghiệp vụ, không thể hiện chức
năng quản lý nhà nước, phương pháp mệnh lệnh phục tùng sẽ không được áp dụng. Các quan hệ diễn ra
liên quan đến giao dịch tiền tệ tín dụng, ngân hàng được thiết lập trên cơ sở bình đẳng giữa các chủ thể là
ngân hàng, kể cả mối quan hệ giữa ngân hàng trung ương với vai trò là trung tâm thanh toán, luân chuyển
tiền tệ, làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Phương pháp điều chỉnh của pháp luật ngân hàng đối với
nhóm quan hệ này chủ yếu là phương pháp bình đẳng, thỏa thuận.
3. Nguồn của Luật Ngân hàng:
- Bao gồm:
+ Hiến pháp
+ Các đạo luật (Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các Tổ chức tín dụng)
+ Bộ luật Dân sự
+ Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật Đầu tư
+ Luật Tổ chức chính phủ
+ Các Nghị định, thông tư của các bộ, cơ quan ngang bộ liên quan đến lĩnh vực ngân hàng.
4. Quan hệ pháp luật ngân hàng:
Quan hệ pháp luật về ngân hàng là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà
nước về ngân hàng và những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng được các quy
phạm pháp luật ngân hàng điều chỉnh.
6
Đại học Quốc Gia Hà Nội, Khoa Luật, Giáo trình Luật Ngân hàng, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005, tr42
7
Chủ thể trong quan hệ pháp luật ngân hàng:
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các Tổ chức tín dụng
- Chủ thể là Pháp nhân
- Chủ thể là cá nhân
Khách thể trong quan hệ pháp luật ngân hàng
- Tiền, hàng, các giấy tờ có giá, vàng và những dịch vụ tiện ích của ngân hàng
Nội dung của quan hệ PL NH:

Bao gồm các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quan hệ PL NH cụ thể.
8
CHƯƠNG 2:
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM.
1. Khái niệm Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Ở mỗi quốc gia, ngân hàng nhà nước có thể có những tên gọi khác nhau xuất phát từ các yếu tố lịch
sử, sở hữu, thể chế chính trị. Chẳng hạn như, theo hình thức sở hữu, ngân hàng nhà nước có tên gọi là
ngân hàng nhà nước (Việt nam), Ngân hàng quốc gia (Mônđôva, Iran, Hunggari). Theo tính chất, chức
năng, ngân hàng có thể được gọi tên là ngân hàng trung ương (Liên bang Nga), ngân hàng dự trữ (Nam
phi), Hệ thống dự trữ liên bang (Mỹ) hoặc có thể chỉ là những tên gọi có tính chất lịch sử và kế thừa như
Ngân hàng Anh, Ngân hàng Pháp, Ngân hàng Nhật Bản
7

Một cách chung nhất, ngân hàng trung ương được hiểu là định chế tài chính công quyền, tiến hành
các họat động ngân hàng nhằm đảm bảo chính sách tiền tệ quốc gia. Khi nghiên cứu về vị trí pháp lý của
ngân hàng trung ương, chúng ta cần phải xem xét mối quan hệ giữa ngân hàng trung ương với bộ máy
nhà nước trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Hiện nay, trên thế giới phổ biến có hai kiểu tổ
chức mô hình ngân hàng trung ương bao gồm: ngân hàng trung ương độc lập với Chính phủ và trực
thuộc Chính phủ.
Đối với mô hình ngân hàng trung ương độc lập với Chính phủ, ngân hàng trung ương sẽ không
nằm trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ. Thông thường, nó sẽ chịu sự chi phối từ cơ quan quyền
lực mà không chịu sự lãnh đạo, điều hành từ Chính phủ. Theo định chế này, họat động của ngân hàng
trung ương hòan tòan độc lập với Chính phủ.
Đối với mô hình ngân hàng trung ương trực thuộc Chính phủ, ngân hàng là một bộ phận trong cơ
cấu tổ chức Chính phủ, chịu sự lãnh đạo, điều hành của Chính phủ. Theo định chế này, Chính phủ có thể
can thiệp vào việc tổ chức, điều hành, họat động, kể cả việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
8
Về định nghĩa cụ thể thế nào là ngân hàng trung ương (hay ngân hàng nhà nước), phần lớn pháp
luật về ngân hàng của các quốc gia đều đưa ra khái niệm về ngân hàng nhà nước hoặc thông qua những

quy phạm pháp luật xác định đặc điểm, chức năng để thể hiện khái niệm về ngân hàng nhà nước. Có thể
nói, vị trí pháp lý của ngân hàng trung ương ở một quốc gia sẽ được quyết định bởi mục đích, tính chất,
yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước đối với họat động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Tổng hợp các quy
phạm pháp luật ghi nhận đặc điểm, vị trí pháp lý của Ngân hàng nhà nước (hay ngân hàng trung ương),
thuật ngữ này thông thường được hình dung như sau:
-Ngân hàng nhà nước là một cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và
hoạt động ngân hàng.
-Ngân hàng nhà nước là một định chế tài chính thực hiện chức năng cung ứng các dịch vụ ngân
hàng cho chính phủ và cho hệ thống các tổ chức tín dụng.
-Ngân hàng trung ương không lấy mục đích lợi nhuận làm hàng đầu.
-Ngân hàng trung ương là cầu nối giữa chính phủ với nền kinh tế, giữa thị trường tài chính, tiền tệ
trong nước và ngoài nước, các tổ chức tài chính quốc tế.
Đối với Việt Nam, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 không đưa ra điều luật cụ thể về
khái niệm Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Điều 2 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 xác định vị
trí pháp lý và chức năng của ngân hàng nhà nước Việt Nam như sau:
-Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại
Thủ đô Hà Nội.
7
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân hàng, NXB Công an nhân dân, 2006, tr 27.
8
Giáo trình Luật Ngân hàng, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006, tr 55-56
9
-Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và
ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng trung ương về phát
hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
9

Từ quy định trên có thể nhận thấy:

-NHNNVN được tổ chức theo mô hình trực thuộc Chính Phủ. NHNNVN giữ vai trò là quan quản
lý nhà nước tương đương cấp bộ. Thống đốc NHNNVN mang hàm Bộ trưởng. Qui trình bổ nhiệm, miễn
nhiệm Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam theo các qui định pháp luật hiện hành trong Luật Tổ
chức Quốc Hội và Luật tổ chức Chính Phủ.
-NHNNVN đảm bảo chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng và
ngoại hối. Với các chức năng này, NHNNVN có thẩm quyền sử dụng các phương thức và công cụ quản
lý khi thực thi nhiệm vụ của mình.
-Ngân hàng nhà nước Việt Nam là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Đây là điểm khác biệt giữa NHNNVN với các Bộ khác trong Chính Phủ. Ngân hàng nhà nước Việt
Nam còn là một Ngân hàng. Ngân hàng này thực hiện một số hoạt động ngân hàng đặc biệt, bao gồm:
hoạt động độc quyền phát hành tiền; cung ứng các dịch vụ tài chính, tiền tệ cho Chính phủ và cho các tổ
chức tín dụng.
-Về mặt dân sự, NHNNVN là một pháp nhân. NHNNVN có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước.
Thủ tướng Chính phủ qui định mức vốn pháp định của NHNNVN phù hợp trong từng thời kỳ.
NHNNVN hoạt động theo nguyên tắc Chênh lệch thu, chi hàng năm của Ngân hàng Nhà nước được xác
định từ nguồn thu về hoạt động nghiệp vụ ngân hàng và các nguồn thu khác, sau khi trừ chi phí hoạt
động và khoản dự phòng rủi ro. Ngân hàng Nhà nước trích từ chênh lệch thu, chi để lập quỹ thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ; số còn lại phải nộp vào ngân sách nhà nước. Tư
cách pháp nhân của NHNNVN cho phép nó có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của một chủ thể pháp luật.
Do vậy, NHNNVN có quyền tham gia ký kết các giao dịch với các tổ chức tín dụng và những tổ chức
khác có họat động ngân hàng. Tuy nhiên, mục đích chính của những họat động này luôn gắn với việc
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, đảm bảo an tòan, hiệu quả của hệ thống ngân hàng.
2. Chức năng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam:
Khi xem xét chức năng của ngân hàng nhà nước, điều này có nghĩa là xem xét những hướng chủ
yếu trong họat động của nó. Nói chung, các chức năng chủ yếu của ngân hàng trung ương ở các nước
trên thế giới chủ yếu là : độc quyền phát hành tiền, ngân hàng của Chính phủ và các tổ chức tín dụng, chỉ
đạo, điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, giám sát, điều hòa họat động ngân hàng và thị trường tài
chính thông qua các chính sách và biện pháp đặc thù.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam có hai chức năng cơ bản
-Chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối.

-Chức năng là một Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và
cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
Các chức năng cơ bản của Ngân hàng nhà nước Việt Nam được cụ thể hóa thành những nhiệm vụ,
quyền hạn của ngân hàng nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, cụ thể như sau:
2.1. Các nhiệm vụ quyền hạn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện Chức năng
quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối
10
.
Một là, Ngân hàng Nhà nước tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của Nhà nước; Chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng chính sách, kế hoạch và tổ
chức thực hiện phòng, chống rửa tiền.
9
Điều 2 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
10
Nhiệm vụ, quyền hạn của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực
tiền tệ và hoạt động ngân hàng, ngoại hối được cụ thể hóa tại điều 4 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
10
Các chiến lược mang tính định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các kế hoạch dài
hạn cũng như ngắn hạn đều có sự tham gia soạn thảo, hoạch định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
đặc biệt là phần các chính sách liên quan đến chính sách tiền tệ quốc gia.
Hai là, Ngân hàng Nhà nước xây dựng chỉ tiêu lạm phát hằng năm để Chính phủ trình Quốc hội
quyết định và tổ chức thực hiện. Nhiệm vụ này của ngân hàng nhà nước Việt Nam xuất phát từ hoạt động
của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền đảm bảo chính sách tiền tệ quốc gia. Theo đó,
chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết
định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Theo quy định của pháp luật ngân
hàng, Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm. Căn cứ vào cơ sở này, Quốc hội
quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và
giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Sau khi Quốc hội đã quyết định chỉ tiêu lạm phát
hàng năm, Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ

và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ.
11
Như vậy, do mô hình trực thuộc Chính phủ, họat động thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của ngân
hàng nhà nước Việt Nam không hòan tòan độc lập. Họat động này sẽ được ngân hàng nhà nước Việt
Nam tiến hành thông qua việc xác lập chỉ tiêu lạm phát trình Chính phủ (để Chính phủ trình Quốc hội
quyết định). Mức độ lạm phát trong nền kinh tế luôn gắn liền với việc điều tiết lượng tiền tệ trong lưu
thông. Do đó, cùng với Thủ tướng Chính phủ, thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam sẽ có thẩm
quyền trong việc lựa chọn thực hiện các biện pháp và công cụ kiểm soát hoạt động cung cầu tiền tệ trong
nền kinh tế, đảm bảo giá trị đồng tiền. Có thể nói, sự ổn định tiền tệ là nhiệm vụ quan trọng thường trực
của Ngân hàng Nhà nước, là định hướng chỉ đạo toàn bộ hoạt động của Ngân hàng Nhà nước. Hiệu quả
của chính sách tiền tệ phụ thuộc rất lớn vào tính đúng đắn của khâu hoạch định và sự điều hành phù hợp,
kịp thời cũng như hiệu lực các biện pháp của khâu thực thi chính sách tiền tệ.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước còn tổ chức, điều hành và phát triển thị trường tiền tệ; xây
dựng chiến lược phát triển ngành ngân hàng trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức
thực hiện. Vấn đề xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia chủ yếu mang tính điều chỉnh vĩ mô,
hướng các tổ chức tín dụng vào thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, nhưng đồng thời vẫn phải đảm
bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức này nên người ta thường dùng khái niệm
"điều tiết" của Ngân hàng Trung ương đối với các hoạt động của tổ chức tín dụng. Điều này có nghĩa là
Ngân hàng Trung ương không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của các tổ chức tín dụng, mà chủ yếu
sử dụng biện pháp nghiệp vụ tác động gián tiếp để điều chỉnh môi trường và các điều kiện kinh doanh
của các tổ chức tín dụng như vấn đề lãi suất, khối lượng tiền cung ứng, dự trữ bắt buộc…
Ba là, Ngân hàng Nhà nước ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; tuyên truyền, phổ biến và kiểm tra theo thẩm quyền văn
bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng..
Ngân hàng Nhà nước tham gia xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và
hoạt động của Ngân hàng trình Chính phủ xem xét báo cáo Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc Hội
thông qua. Bên cạnh đó, với vai trò Ngân hàng trung ương, ngân hàng của các ngân hàng, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng
dưới các hình thức Thông tư, Quyết định, Chỉ thị thuộc lĩnh vực quản lý của Ngân hàng Nhà nước, đồng
thời theo dõi, kiểm tra quá trình thực hiện và hiệu quả áp dụng cũng như chiều hướng ảnh hưởng đối với

nền kinh tế và hoạt động của các tổ chức tín dụng. Ngòai ra, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không chỉ
tham gia hoặc chủ trì trong việc xây dựng, soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh mà còn phải có trách
nhiệm trong việc theo dõi, rà soát hiệu lực thực tế của các văn bản pháp luật và có thể trực tiếp hoặc gián
tiếp đề xuất hiệc tiến hành sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện, hệ thống hoá các quy định pháp luật về tiền
11
Điều 3 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010.
11
tệ, hoạt động Ngân hàng. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Việc rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản pháp
luật về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần ngăn
chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và đảm bảo an toàn hoạt động của hệ
thống Ngân hàng.
Bốn là, Ngân hàng Nhà nước có thẩm quyền cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập
và hoạt động của tổ chức tín dụng, giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giấy phép
thành lập văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động
ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho các tổ chức
không phải là ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các
tổ chức; chấp thuận việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và giải thể tổ chức tín dụng theo quy
định của pháp luật..
Dưới góc độ pháp luật, giấy phép là hình thức pháp lý thể hiện việc Nhà nước cho phép tổ chức
hoặc cá nhân hoạt động trong một số lĩnh vực khi thoả mãn những điều kiện nhất định. Giấy phép thể
hiện mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và tổ chức hoặc cá nhân xin phép kinh doanh. Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam là cơ quan quản lý Nhà nước chuyên về lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Do vậy đây là cơ
quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng. Đồng thời,
đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng muốn hoạt động Ngân hàng cũng phải được Ngân hàng
Nhà nước cấp giấy phép hoạt động Ngân hàng khi thoã mãn những điều kiện nhất định như: Hoạt động
ngân hàng là cần thiết và có liên quan chặt chẽ với hoạt động chính; có đủ vốn, điều kiện vật chất phù
hợp với yêu cầu của hoạt động Ngân hàng…Ngoài ra , trong quá trình hoạt động nếu muốn thay đổi về
tên tổ chức, mức vốn điều lệ, địa điểm đặt trụ sở chính, thành viên Hội đồng quản trị, tỷ lệ cổ phần của
các cổ đông...thì tổ chức tín dụng đó cần phải xin phép. Sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận

bằng văn bản, tổ chức tín dụng phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những thay đổi của
mình và phải đăng báo trung ương, địa phương theo quy định của pháp luật. Việc chia, tách, hợp nhất,
sáp nhập, mua lại, giải thể tổ chức tín dụng cũng phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn
bản.
Từ thẩm quyền này, pháp luật ngân hàng cũng trao cho ngân hàng nhà nước Việt Nam khả năng
được quyết định áp dụng biện pháp xử lý đặc biệt đối với tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy
định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, gặp khó khăn về tài chính, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ
thống ngân hàng, gồm mua cổ phần của tổ chức tín dụng; đình chỉ, tạm đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ
người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng; quyết định sáp nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tín
dụng; đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
theo quy định của pháp luật về phá sản đối với tổ chức tín dụng.
Năm là, Ngân hàng Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý vi
phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là cơ quan trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thực hiện chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân
hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; tham mưu, giúp
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mô
nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; thực hiện phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp
luật; Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có tư cách pháp nhân, con dấu, tài khoản riêng theo quy
định của pháp luật và trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội
12
.
12
Điều 01 Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 của Thủ t ướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ
quan thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
12
Mục đích của Thanh tra Ngân hàng là góp phần bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Theo quy định tại Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 của Chính phủ quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

có thẩm quyền kiểm tra tính phù hợp với quy định pháp luật của việc thành lập, hoạt động của tổ chức tín
dụng, hoạt động Ngân hàng của các tổ chức khác; có quyền xử lý các vi phạm pháp luật ngân hàng như
áp dụng biện pháp thu hồi giấy phép hoạt động Ngân hàng, xử phạt vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng được hiểu là những hành vi
của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong nước và nước ngoài cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp
luật về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng mà không phải là tội phạm. Vậy
các hành vi vi phạm hành chính ở đây được xác định bởi hai yếu tố đặc trưng đó là: vi phạm quy định
pháp luật về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng; hành vi đó chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự (không phải là tội phạm). Việc xử phạt hành chính chỉ được áp dụng đối
với những hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định 202/NĐ-CP như là: Hành vi tiếp tục hoạt
động Ngân hàng khi không có giấy phép; bị tước giấy phép hoặc giấy phép đã hết thời hạn; hành vi
chuyển ngoại hối hoặc vàng ra nước ngoài hoặc vào Việt Nam trái quy định pháp luật; hành vi che giấu
hoặc đồng loã với hành vi vi phạm pháp luật về hoạt động ngoại hối…
Song song đó, kiểm soát tín dụng cũng là biện pháp quản lý Nhà nước do Ngân hàng Nhà nước
áp dụng đối với các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động Ngân hàng nhằm ngăn ngừa rủi
ro, tiêu cực trong hoạt động tiền tệ và duy trì sự ổn định của hoạt động Ngân hàng trong nền kinh tế.
Sáu là, ngân hàng nhà nước Việt Nam chủ trì lập, theo dõi, dự báo và phân tích kết quả thực hiện
cán cân thanh toán quốc tế. Ở Việt Nam, cán cân thanh toán thanh tóan quốc tế do Ngân hàng Nhà nước
lập và công bố. Đây là nhiệm vụ quan trọng vì cán cân thanh toán thể hiện kết quả của hoạt động kinh tế
đối ngoại. Các số liệu phản ánh trên cán cân thanh toán là cơ sở quan trọng cho công tác xây dựng và
thực thi chính sách tài chính-tiền tệ. Gắn với thẩm quyền này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý
việc vay, trả nợ, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Bảy là, NHNNVN chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngoại hối, hoạt động ngoại hối và hoạt
động kinh doanh vàng.
Hoạt động ngoại hối là hoạt động của người cư trú, người không cư trú trong các giao dịch vãng
lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối và
các giao dịch khác liên quan đến ngoại hối.
13
Theo đó, ngoại hối được pháp luật ngân hàng ghi nhận bao
gồm:Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng

trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại tệ); Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm
séc, thẻ thanh toán, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác; Các loại
giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại
giấy tờ có giá khác; Vàng thuộc Dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư
trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam; Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển
ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách quản lý ngoại hối nhằm tạo điều kiện thuận
lợi và bảo đảm lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngoại hối, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế; thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng Nhà nước có trách
nhiệm: chủ trì xây dựng và soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật về ngoại hối thuộc thẩm quyền;
cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối; kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các hoạt động ngoại hối.
13
Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010
13
Ngân hàng Nhà nước có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối trong nước qua các nghiệp vụ mua bán,
kinh doanh ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam.
14
Tám là, NHNNVN chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan chuẩn bị nội dung, tiến hành đàm
phán, ký kết điều ước quốc tế với tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế mà Ngân hàng Nhà nước là đại diện
và là đại diện chính thức của người vay quy định tại điều ước quốc tế theo phân công, uỷ quyền của Chủ
tịch nước hoặc Chính phủ. NHNNVN còn chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về tiền tệ
và ngân hàng; đại diện cho Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ và
ngân hàng quốc tế.
Điều ước quốc tế là thoả thuận pháp lý giữa các quốc gia và một số chủ thể khác của Luật quốc
tế, trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm ấn định, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với
nhau trong bang giao quốc tế phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế hiện đại.
15
.
Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan liên quan chuẩn bị nội dung đàm

phán; theo sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, tiến hành đàm phán và ký các điều ước quốc tế cụ thể
về ODA với các tổ chức tài chính quốc tế: Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng Phát triển Châu Á (ADB); bàn giao vốn và toàn bộ các thông tin liên quan đến chương trình, dự án
cho Bộ Tài chính sau khi các điều ước quốc tế cụ thể về ODA có hiệu lực. Ngân hàng Nhà nước đã và
đang thực hiện tốt chức năng, vai trò đại diện tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế trong việc duy
trì, phát triển mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)…; đồng thời tăng cường quan hệ hợp tác
với các tổ chức đa phương, song phương nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế với Việt Nam
nói chung và ngành Ngân hàng Việt Nam nói riêng, góp phần tích cực thúc đẩy việc Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và hội nhập sâu rộng hơn nữa vào nền kinh tế thế giới. Tính đến
cuối tháng 6/2007, Ngân h ng Nh n cà à ướ ã thay m t Chính ph n c Cđ ặ ủ ướ ng Hòa Xã H iộ ộ
Ch Ngh aủ ĩ Vi t Nam m phán, ký k t v i Ngân h ng Th gi i (WB)ệ đà ế ớ à ế ớ , Ngân h ngà
Phát tri n Châu Áể (ADB)
16
.
Ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn nói trên, Ngân hàng Nhà nước còn thực hiện việc tổ chức đạo
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ngân hàng. Đây là
nhiệm vụ nhằm kiện toàn hoá đội ngũ cán bộ của ngành ngân hàng. Đó chính là nhân tố quan trọng trong
việc thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của NHNNVN với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong
lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
Có thể nói, NHNNVN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, ngân hàng và ngoại hối
không đơn thuần bằng việc sử dụng các biện pháp hành chính. NHNNVN chủ yếu sử dụng các chính
sách và công cụ kinh tế để tác động thị trường. Thông qua đó, NHNNVN hướng đến mục tiêu ổn định
giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an tòan cho họat động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng,
thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2. Các nhiệm vụ quyền hạn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện chức
năng là Ngân hàng trung ương.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng Ngân hàng Trung ương chủ yếu bằng các
nghiệp vụ ngân hàng. Do vậy, tính độc lập tương đối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thể hiện
rõ nét khi thực hiện chức năng Ngân hàng Trung ương. Những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam với vai trò là Ngân hàng Trung ương bao gồm:
14
Quy định cụ thể tại Pháp lệnh ngoại hối được Quốc hội thông qua ngày 13/12/2005 có hiệu lực thi hành ngày 01/6/2006 và Nghị định 160/2006/NĐ-CP
(2801202006) của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ngoại hối 2005.
15
Trang 31 Tập bài giảng Luật quốc tế của Trường Đại Cần Thơ- Kim Oanh Na.
16
Báo cáo số 50-BC/NHNN ngày 16/6/2009 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam v/v báo cáo tổng kết thực hiện Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giai
đọan 1998-2009-Trang 7
14
Một là, Ngân hàng Nhà nước tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền; thực hiện nghiệp vụ
phát hành, thu hồi, thay thế và tiêu huỷ tiền.
Đây là chức năng cơ bản và vốn có của Ngân hàng Nhà nước, tiền do Ngân hàng Nhà nước phát
hành là phương tiện thanh toán hợp pháp duy nhất. Ở hầu hết các nước đều giao thẩm quyền phát hành
tiền cho Ngân hàng Trung ương. Ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ phát hành tiền
và quản lý tiền dự trữ phát hành theo qui định của Chính phủ. Cụ thể, Chính phủ ban hành qui chế nghiệp
vụ phát hành tiền, bao gồm các qui định về việc in, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành, thu hồi, thay
thế, tiêu hủy tiền...
Có thể nói, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay thì toàn bộ việc phát hành
tiền được tập trung vào Ngân hàng Nhà nước theo chế độ Nhà nước độc quyền phát hành tiền và Ngân
hàng Nhà nước bảo đảm cung ứng đủ số lượng và cơ cấu tiền giấy, tiền kim loại làm sao cho tổng cung
phù hợp với tổng cầu tiền tệ.
Hai là, Ngân hàng Nhà nước thực hiện tái cấp vốn nhằm cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương
tiện thanh toán cho nền kinh tế.
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn
ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng. Đây là một công cụ của Ngân hàng Nhà nước để
điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông và nhằm giúp các tổ chức tín dụng giải quyết khó khăn trong
trường hợp các ngân hàng thiếu vốn để hoạt động và không huy động được vốn từ các nguồn khác.
Công cụ tái cấp vốn được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam áp dụng chỉ đối với các tổ chức tín
dụng là ngân hàng và dưới các hình thức: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; Chiết khấu, tái chiết khấu

thương phiếu và các giấy tờ có giá khác; cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ
có giá khác.
Ba là, Ngân hàng Nhà nước điều hành thị trường tiền tệ, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở.
Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá, bao gồm
tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác. Ngân
hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua, bán ngắn hạn (kỳ hạn dưới một
năm) các giấy tờ có giá nêu trên, trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
Ở thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện việc kiểm soát, xây dựng quy chế,
điều hành hoạt động nhằm đảm bảo hoạt động của thị trường diễn ra đúng luật định và đạt hiệu quả cao.
Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn can thiệp vào hoạt động của thị trường tiền tệ bằng cách
tác động vào quá trình “tạo tiền” của các tổ chức tín dụng qua việc tác động đến cung cầu tiền tệ dưới
hình thức tái cấp vốn, tái chiết khấu hoặc tài trợ vốn; làm thay đổi lãi suất thị trường, trên cơ sở đó điều
tiết lượng cung ứng tiền trong nền kinh tế thông qua thẩm quyền quy định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp
vốn...
Bốn là, Ngân hàng Nhà nước kiểm soát Dự trữ quốc tế; quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước
17
Như đã trình bày ở phần trên, ngoại hối là tiền nước ngoài, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ
có giá và các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài; Dự trữ quốc tế là Dự trữ ngoại hối nhà nước do
Ngân hàng Nhà nước quản lý và Dự trữ ngoại hối của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại
hối.
Dự trữ ngoại hối nhà nước là tài sản bằng ngoại hối thể hiện trong bảng cân đối tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam
18
17
Điều 4 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 và Chương VI Pháp lệnh nghoại hối 2005
18
Khoản 17 điều 4 Pháp lệnh ngoại hối 2005
15
Đối với việc quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu sự kiểm tra
của Bộ Tài Chính và phải báo cáo Chính phủ về tình hình biến động của Dự trữ ngoại hối để Chính phủ

báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Dự trữ ngoại hối là các tài sản chiến lược dùng để chi phí cho các
việc ngoài dự kiến, khẩn cấp như: thảm họa chiến tranh, thiên tai, khủng hoảng tài chính, kinh tế...Tài
sản dự trữ là vàng, ngoại tệ, quyền rút tiền tại qũy tiền tệ quốc tế, kim cương, kim loại quí. Ngân hàng
Nhà nước quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm khả
năng thanh toán quốc tế, bảo toàn Dự trữ ngoại hối nhà nước.
Năm là, Ngân hàng Nhà nước tổ chức, quản lý, giám sát hệ thống thanh toán quốc gia, cung ứng
dịch vụ thanh toán cho các ngân hàng; tham gia tổ chức và giám sát sự vận hành của các hệ thống thanh
toán trong nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể tham gia vào hoạt động thanh toán với hai
tư cách: Cơ quan quản lý tài khoản và chủ tài khoản.
-Với tư cách là cơ quan quản lý tài khoản, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được mở tài khoản
thanh toán, được thực hiện toàn bộ các dịch vụ thanh toán cho các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước,
các tổ chức khác được làm dịch vụ thanh toán và các Ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ, Ngân hàng
quốc tế. Các dịch vụ thanh toán đó là: Cung ứng các phương tiện thanh toán, dịch vụ thanh toán trong
nước; dịch vụ thanh toán quốc tế; dịch vụ thu hộ và các dịch vụ thanh toán khác do Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam quy định trong từng thời kỳ nhất định.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý việc cung ứng các phương tiện thanh toán của
các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán như: Tiền mặt, séc, lệnh chi hoặc uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu,
thẻ Ngân hàng. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước tổ chức hệ thống thanh toán liên ngân hàng để thực
hiện dịch vụ thanh toán giữa các thành viên là Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng và các tổ chức
khác được làm dịch vụ thanh toán.
-Với tư cách là chủ tài khoản, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được mở tài khoản ở Ngân hàng
nước ngoài, tổ chức tiền tệ, ngân hàng quốc tế
19
Sáu là, Ngân hàng Nhà nước, NHNNVN chịu trách nhiệm làm đại lý và thực hiện các dịch vụ
ngân hàng cho Kho bạc Nhà nước, tham gia với Bộ Tài chính về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu do Chính phủ bảo lãnh.
Bảy là, Ngân hàng Nhà nước tổ chức hệ thống thông tin tín dụng và cung ứng dịch vụ thông tin
tín dụng; thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hoạt động thông tin tín dụng cũng
sẽ do NHNNVN tiến hành.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện hoạt động thông tin tín dụng nhằm phục vụ việc xây

dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, hỗ trợ các tổ chức cấp tín dụng ngăn ngừa và hạn chế rủi
ro trong hoạt động kinh doanh, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động Ngân hàng.
Ngoài những nhiệm vụ và quyền hạn nêu trên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn có thẩm
quyền:
Ngòai ra, NHNNVN thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng có vốn nhà nước theo quy định của
pháp luật; được sử dụng vốn pháp định để góp vốn thành lập doanh nghiệp đặc thù nhằm thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Theo Luật Ngân
hàng nhà nước Việt Nam 2010, việc thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi theo quy định của
pháp luật về bảo hiểm tiền gửi cũng thuộc thẩm quyền của NHNNVN
Tóm lại, thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã thực hiện được các chức năng cơ bản và vai trò của mình trong quản lý Nhà nước về tiền tệ,
19
Điều 34 khoản 1 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1997
16
ngân hàng, ngọai hối cũng như là một ngân hàng trung ương. Có thể nói, nhiệm vụ, quyền hạn của
NHNNVN luôn gắn liền với những điều điều kiện bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
II. CƠ CẤU TỔ CHỨC, LÃNH ĐẠO ĐIỀU HÀNH NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1



cấu

tổ

chức

của


Ngân

hàng

Nhà

nước

Việt Nam
Ngân

hàng

trung

ương

của

Việt

Nam

được

tổ

chức

theo




hình

ngân

hàng trung

ương
trực

thuộc

Chính

phủ.



hình

này

được

xác

định


ngay

khi

ngân

hàng trung

ương

được

thành

lập
vào

năm

1951

thông

qua

Sắc

lệnh

15


của

Chủ

tịch

nước Việt

Nam

Dân

chủ

cộng

hòa.

Tuy

sắc
lệnh

không

trực

tiếp


quy

định



hình

tổ chức,

vị

trí

pháp



cho

Ngân

hàng

trung

ương

nhưng
Sắc


lệnh

đã

xác

định

một

cách gián

tiếp

về



hình

của

ngân

hàng.

Theo

đó,


người

lãnh

đạo

điều
hành

Ngân

hàng là

Tổng

giám

đốc,



danh

vị

như

một


Bộ

trưởng.

Qua

cách

xác

định

gián

tiếp

này
Sắc

lệnh

15

đã

bước

đầu

xác


lập



hình

ngân

hàng

trực

thuộc

Chính

phủ

cho

ngân hàng

trung

ương
Việt

Nam.
Trong


quá

trình

xây

dựng



hoàn

thiện

pháp

luật,

vị

trí

pháp



của

Ngân


hàng
trung

ương

ngày

càng

được

xác

định

cụ

thể

hơn.

Theo

quy

định

tại


khoản

1,

điều

2 Luật

Ngân

hàng
nhà

nước

Việt

Nam

2010:

“Ngân

hàng

nhà nước

Việt

Nam






quan ngang bộ

của

Chính

phủ; là
ngân

hàng

Trung

ương

của

nước

Cộng

hòa




hội

chủ

nghĩa

Việt

Nam”.

Như vậy,

cho

đến

thời

điểm
hiện

nay,

pháp

luật

Việt

Nam


luôn

khẳng

định

Ngân

hàng Nhà

nước

Việt

Nam

hoạt

động

theo


hình

ngân

hàng


trung

ương

trực

thuộc Chính

phủ.
Với

vai

trò

đặc

biệt

trong

lĩnh

vực

tiền

tệ




hoạt

động

ngân

hàng,

Ngân

hàng Nhà

nước

Việt
Nam

được

tổ

chức

khác

biệt

so


với

các



quan

quản



nhà

nước chuyên

ngành



các

lĩnh

vực
khác.

Theo

quy


định

tại

điều

7

Luật

Ngân

hàng

Nhà nước

Việt

Nam
2010 , Ngân hàng Nhà nước được
tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất, gồm bộ máy điều hành và các đơn vị hoạt động nghiệp vụ
tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị trực thuộc khác.
Hiện tại, cơ

cấu

tổ

chức


của

ngân

hàng

Nhà

nước

Việt

Nam

bao

gồm

các

đơn

vị
sau
20
:




Vụ,



quan

ngang

vụ.
1.

Vụ

Chính

sách

tiền

tệ;
2.

Vụ

Thanh

toán;
3.

Vụ


Hợp

tác

quốc

tế;
4.

Vụ

Quản



ngoại

hối;
5.

Vụ

Dự

báo



thống




tiền

tệ;
6.

Vụ

Kiểm

toán

nội

bộ;
7.

Vụ

Thi

đua

khen

thưởng;
8.


Vụ

Tín

dụng;
9.

Vụ

Tài

chính-

kế

toán;
10.

Vụ

Tổ

chức

cán

bộ;
11.

Vụ


Pháp

chế;
12.Cơ

quan

Thanh

tra,

giám

sát

ngân

hàng;
20

Điều

3

nghị

định

96/2008/NĐ-CP


ngày

26.8.2008

quy

định

chức

năng,

nhiệm

vụ,



cấu

tổ

chức
của

ngân

hàng


nhà

nước

Việt

Nam.
17
13.

Văn

phòng;
14.

Sở

Giao

dịch;
15.

Cục

Phát

hành




kho

quỹ;
16.

Cục

Công

nghệ

tin

học

ngân

hàng;
17.

Cục

Quản

trị.


Các

Chi


nhánh



các

tỉnh,

thành

phố

trực

thuộc

Trung

ương.
Chi

nhánh

Ngân

hàng

Nhà


nước

Việt

Nam



đơn

vị

phụ

thuộc

của

Ngân

hàng
Nhà

nước,

chịu

sự

lãnh


đạo



điều

hành

tập

trung

thống

nhất

của

Thống

đốc.
Ngân

hàng

Nhà

nước


Việt

Nam



tổng

cộng

64

chi

nhánh,

được

đặt

tại

các tỉnh,
thành

phố

trực

thuộc


trung

ương

trên

phạm

vi

cả

nước.

Các

chi

nhánh

này

thực hiện

chức

năng
quản




nhà

nước

trên

địa

bàn

tỉnh,

thành

phố.


cấu

tổ

chức

của

các

chi


nhánh

bao

gồm:

Giám

đốc,

các

phó

giám

đốc, trưởng
phòng,

phó

phòng



ban

giúp


việc

cho

lãnh

đạo

chi

nhánh.


Văn

phòng

đại

diện

của

Ngân

hàng

Nhà

nước


Việt

Nam.
Văn

phòng

đại

diện



đơn

vị

phụ

thuộc

của

Ngân

hàng

Nhà


nước

Việt

Nam,


nhiệm

vụ

đại

diện

theo

ủy

quyền

của

Thống

đốc

Ngân

hàng.


Văn

phòng

chỉ

có chức
năng

đại

diện



không

được

trực

tiếp

tiến

hành

các


hoạt

động

nghiệp

vụ ngân

hàng
khác.
Ngân

hàng

Nhà

nước

Việt

Nam

chỉ



một

Văn


phòng

đại

diện



trong

nước


Văn

phòng

đại

diện

tại

Thành

phố

Hồ

Chí


Minh



nhiều

văn

phòng

đại

diện

khác

ở nước

ngoài.


Các

tổ

chức

sự


nghiệp:
Ngân

hàng

Nhà

nước

Việt

Nam

còn



các

đơn

vị

sự

nghiệp

giúp

việc


để

thực hiện

các
nhiệm

vụ

như:

đào

tạo,

nghiên

cứu,

thông

tin,

báo

chí,…

Các


đơn

vị

sự nghiệp

của

Ngân
hàng

Nhà

nước

bao

gồm:
1.

Thời

báo

Ngân

hàng;
2.

Tạp


chí

Ngân

hàng;
3.

Viện

chiến

lược

ngân

hàng;
4.

Trường

bồi

dưỡng

cán

bộ

ngân


hàng;
5.

Trung

tâm

Thông

tin

tín

dụng.


đồ



cấu

tổ

chức

Ngân

hàng


Nhà

nước

Việt

Nam
21
:
21
Tham

khảo

từ

trang

web:

http//www.s b v. g ov. v n

giới

thiệu

Ngân

hàng


Nhà

nước

Việt

Nam/


hình

tổ

chức.
18
2.

Bộ

máy

lãnh

đạo,

điều

hành


Ngân

hàng

Nhà nước

Việt

Nam.
2.1Thống

đốc.


chế

lãnh

đạo

điều

hành

các

ngân

hàng


trung

ương

trên

thế

giới

hiện

nay thường

được

thể
hiện

dưới

hai

dạng

chính

sau

đây:

Dạng

thứ

nhất:

Lãnh

đạo

điều

hành

Ngân

hàng

trung

ương



một

tập

thể.


Theo mô

hình

này,
ngoài

Thống

đốc

hoặc

chủ

tịch



người

đại

diện

cho

Ngân

hàng


trung ương.

Bên

cạnh,

Ngân

hàng
19
còn



Hội

đồng

quản

trị,

Hội

đồng

Chính

sách


tiền

tệ hay

Hội

đồng

ngân

hàng

trung

ương,

những
Hội

đồng

này

mới






quan

lãnh

đạo cao

nhất

của

Ngân

hàng

trung

ương.
Các

nước

áp

dụng



hình

lãnh


đạo,

điều

hành

này

bao

gồm:

Hệ

thống

dự

trữ liên

bang

Hoa
Kỳ,

Ngân

hàng


quốc

gia

Hugary,

Ngân

hàng

trung

ương

Pháp,

Ngân hàng

trung

ương

Hàn

Quốc….
Dạng

thứ

hai:


Lãnh

đạo,

điều

hành

Ngân

hàng

trung

ương



một



nhân,

theo chế

độ

thủ

trưởng.

Với



hình

lãnh

đạo,

điều

hành

này

Thống

đốc

hoặc

Chủ

tịch

là người


lãnh

đạo

cao

nhất
tại

Ngân

hàng

trung

ương.

Đồng

thời

cũng



người

duy nhất

chịu


trách

nhiệm

trước

Nhà

nước

về
toàn

bộ

hoạt

động

của

Ngân

hàng

trung ương.

Điển


hình

áp

dụng



hình

này



Trung

Quốc,….
Đối

với

Việt

Nam,

trước

khi

luật


Ngân

hàng

Nhà

nước

Việt

Nam

được

ban hành,

lãnh
đạo,

điều

hành

ngân

hàng

trung


ương



một

tập

thể.

Việc

quản

trị

Ngân hàng

trung

ương

do

Hội
đồng

quản

trị


đảm

nhận,

còn

việc

điều

hành

hoạt

động

của Ngân

hàng

lại

đặt

dưới

quyền

của


Giám
đốc

Ngân

hàng
22
.

Sau

khi

Luật

Ngân

hàng Nhà

nước

Việt

Nam
1997
được

ban


hành,



chế

lãnh
đạo

tập

thể

không

còn

được

áp dụng

nữa,



thay

vào

đó






chế

lãnh

đạo

một



nhân-cơ

chế

thủ
trưởng. Về

nguyên

tắc,

Thống

đốc


ngân

hàng



người

lãnh

đạo



điều

hành mọi

hoạt

động

của
ngân

hàng

Nhà

nước


Việt

Nam.

Thống

đốc

chỉ

đạo,

điều

hành công

việc

của

Ngân

hàng

theo
nguyên

tắc


tập

trung

dân

chủ.

Thống

đốc



quyền bổ

nhiệm,

miễn

nhiệm

thủ

trưởng

các

đơn


vị
thuộc



cấu

tổ

chức

của

Ngân

hàng Nhà

nước

Việt

Nam.

Đồng

thời

Thống

đốc


cũng



người

chịu
trách

nhiệm

trực

tiếp trước

Chính

phủ



Quốc

hội

về

các


lĩnh

vực

mình

phụ

trách.
Đến Luật
NHNNVN 2010, Thống đốc NHNNVN được trao thẩm quyền rộng hơn cho trong việc kiện tòan, cơ cấu
tổ chức bộ máy NHNNVN, cụ thể: “Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định thành lập, chấm dứt
hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện, các ban, hội đồng tư vấn về các vấn đề liên quan đến
chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước; quyết định thành lập, chấm dứt hoạt động theo thẩm
quyền các đơn vị trực thuộc Ngân hàng Nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ ngân hàng, nghiên cứu, thông tin, lý luận khoa học ngân hàng, cung cấp dịch vụ liên quan đến
hoạt động kho quỹ, dịch vụ công nghệ tin học ngân hàng và thanh toán, dịch vụ thông tin tín dụng”
23
2.2 Phó

Thống

đốc.
Để

Thống

đốc

thực


hiện

tốt

chức

năng



nhiệm

vụ

của

mình

dưới

quyền Thống

đốc
còn



các


phó

Thống

đốc

giúp

việc.

Mỗi

Phó

Thống

đốc

được

Thống đốc

phân

công

phụ

trách
một


số

lĩnh

vực

công

tác



phụ

trách

một

số

đơn

vị.

Phó Thống

đốc

được


sử

dụng

quyền

hạn

của
Thống

đốc,

nhân

danh

Thống

đốc

khi

giải quyết

các

công


việc

thuộc

lĩnh

vực

được

phân
công.

Phó

Thống

đốc

chịu

trách nhiệm

trước

Thống

đốc




trước

pháp

luật

về

những

quyết
định

của

mình.

Tuy nhiên

Thống

đốc



thể

trực


tiếp

giải

quyết

các

công

việc

tuy

đã

giao
cho

Phó Thống

đốc,

nhưng

thấy

cần

thiết




nội

dung

quan

trọng,

do

Phó

Thống

đốc

vắng mặt,
hoặc

những

việc

liên

quan


từ

hai

Phó

Thống

đốc

trở

lên

nhưng

các

Phó

Thống đốc



ý

kiến

khác
nhau.


Thống

đốc



quyền

phân

công

một

Phó

Thống

đốc

làm nhiệm

vụ

phó

Thống

đốc


thường
trực,

giúp

Thống

đốc

điều

hành

công

việc

chung của

Ngân

hàng

Nhà

nước

Việt


Nam.
2.3 Thủ

trưởng

các

đơn

vị

trực

thuộc

Ngân

hàng

Nhà

nước

Việt

Nam.
Thủ

trưởng


các

đơn

vị

trực

thuộc

Ngân

hàng

Nhà

nước

Việt

Nam



người đứng

đầu
các

đơn


vị

thuộc



cấu

tổ

chức

của

Ngân

hàng

Nhà

nước.

Chủ

thể

này gồm

các


Vụ

trưởng,
giám

đốc



quan

ngang

Vụ,

giám

đốc

các

Chi

nhánh,

trưởng Văn

phòng


đại

diện,

thủ

trưởng
các

tổ

đơn

vị

sự

nghiệp

thuộc



cấu

tổ

chức

của Ngân


hàng

Nhà

nước.
III. HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM.
1. Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
22
Điều 4 Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1990
23
Khoản 4 điều 7 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
20
* Khái niệm: Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu
lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Theo đó, Chính phủ
trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm. Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền
tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ.
24
* Vai trò của chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế
Sự chỉ đạo chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước tác động đến việc tăng, giảm lượng tiền
cung ứng cho nền kinh tế, và do đó ảnh hưởng đến đời sống của mọi người dân. Chính sách tiền tệ mở
rộng sẽ cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, điều này kích thích tiêu dùng cho cuộc sống, đầu tư được
khuyến khích, sản xuất mở rộng, từ đó giảm thất nghiệp và tăng thu nhập quốc dân. Ngược lại chính sách
tiền tệ thắt chặt sẽ giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế, dẫn đến sản xuất thiếu vốn, người mua thiếu tiền
buộc phải cắt giảm chi tiêu và đầu tư bị hạn chế, sản xuất bị thu hẹp, thu nhập quốc dân giảm, dẫn đến
kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
* Công cụ thực hiện : Để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
quyết định việc sử dụng công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ

giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của
Chính phủ
Về Công cụ tái cấp vốn: Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm
cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước quy định
và thực hiện việc tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng theo các hình thức sau đây:
-Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá;
-Chiết khấu giấy tờ có giá;
-Các hình thức tái cấp vốn khác.
Về Công cụ lãi suất
Thông thường, lãi suất là tỷ lệ % trên khoản tiền người vay phải trả cho người cho vay trên tiền
vốn, trong những khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, khi lãi suất được Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam sử dụng như công cụ để tác động lên lượng tiền tệ trong lưu thông, đó không phải là lãi suất kinh
doanh. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể ấn định mức lãi suất trần, lãi suất sàn hoặc lãi suất cơ bản
tương ứng với từng loại hình tổ chức tín dụng, từng loại tiền gửi. Căn cứ vào quy định của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam về lãi suất, các tổ chức tín dụng sẽ hoạch định lãi suất kinh doanh.
Một số hình thức lãi suất được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng làm công cụ thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia như:
-Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn
định lãi suất kinh doanh.
-Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước áp dụng khi tái cấp vốn.
-Các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi.
Ngòai ra, trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước có thể
quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với
khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.
25
24
Điều 3 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
25
Khác với Luật Ngân hàng Nhà nước 1997 (sửa đổi bổ sung 2003), Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 đã không
ghi nhận lãi tái chiết khấu-một hình thức lãi suất tái cấp vốn được áp dụng khi Ngân hàng Nhà nước tái chiết khấu thương

phiếu và các giấy tờ có giá khác cho các tổ chức tín dụng.
21
Công cụ tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ giá trị giữa đồng bản tệ (VND) với giá trị của đồng tiền nước ngoài
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến mức cung ứng tiền vào lưu thông, đến cán cân thanh toán ngoại
thương, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đầu tư trong đó có đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Tỷ giá
hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan có thẩm quyền công bố tỷ giá hối đoái, quyết định chế độ
tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá. Như vậy, cơ chế điều hành tỉ giá hiện nay của Việt Nam là cơ chế thả nổi
có điều tiết của nhà nước.
Công cụ công cụ dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước để thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia. Thông thường, dự trữ bắt buộc sẽ được xác định dựa trên tỉ lệ vốn huy động của
các tổ chức tín dụng dưới hình thức nhận tiền gửi và phát hành các loại giấy tờ có giá. Ngân hàng Nhà
nước quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi tại tổ
chức tín dụng nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Việc trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc,
tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của từng loại hình tổ chức tín dụng đối với từng loại tiền gửi sẽ do Ngân
hàng Nhà nước quy định. Tùy theo từng giai đoạn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam muốn tăng hay giảm
lượng tiền trong lưu thông, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể điều chỉnh tỷ lệ dữ trữ bắt buộc.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua, bán các giấy tờ có giá do Ngân hàng Nhà nước thực
hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng Nhà nước quy định
loại giấy tờ có giá được phép giao dịch thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Thông qua nghiệp vụ thị
trường mở, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ tham gia mua bán các loại giấy tờ có giá với tư cách là
chủ thể điều hành đồng thời là chủ thể tham gia hoạt động mua bán.
2. Hoạt động phát hành tiền
26
.
Từ khi Ngân hàng Nhà nước ra đời cho đến nay, toàn bộ hoạt động phát hành tiền được tập trung
vào Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đây là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền của nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm tiền giấy và tiền kim loại.
* Vai trò, mục đích của hoạt động phát hành tiền
Việc độc quyền phát hành tiền nhằm đảm bảo thống nhất và an toàn cho hệ thống lưu thông tiền
tệ quốc gia. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước là bảo đảm cung ứng đủ, không để thiếu phương tiện
thanh toán, làm sao cho tổng cung phù hợp với tổng cầu tiền tệ
Hành động phát hành tiền là hành động khởi đầu cho quá trình cung ứng tiền tệ của nền kinh tế,
lượng tiền phát hành làm thay đổi các điều kiện của thị trường tiền tệ như: cung cầu vốn, lãi suất, tỷ
giá…
Hoạt động phát hành tiền của Ngân hàng Nhà nước bị chi phối, kiểm tra giám sát bởi Chính phủ,
chẳng hạn như: việc thiết kế mệnh giá, kích thước, trọng lượng, hình vẽ, hoa văn và các đặc điểm khác
của tiền trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Chính phủ ban hành quy định về nghiệp vụ phát hành
tiền, bao gồm việc in, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành, thu hồi, thay thế, tiêu huỷ tiền, chi phí cho
các hoạt động nghiệp vụ phát hành tiền. Bộ Tài chính kiểm tra việc thực hiện nghiệp vụ in, đúc và tiêu
huỷ tiền của Ngân hàng Nhà nước. Trên cơ sở đó, Ngân hàng Nhà nước tổ chức thực hiện việc in, đúc,
bảo quản, vận chuyển, phát hành tiền vào lưu thông, tiêu huỷ tiền. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có
nhiệm vụ cung ứng đủ số lượng và cơ cấu tiền mặt (tiền giấy, tiền kim loại, mệnh giá) cho nền kinh tế.
Tiền giấy, tiền kim loại phát hành vào lưu thông là tài sản "Nợ" đối với nền kinh tế và được cân đối bằng
tài sản "Có" của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức việc in đúc, bảo quản,
vận chuyển, phát hành vào lưu thông, tiêu hủy tiền. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xử lý tiền rách nát,
26
Mục 2 từ điều 16 đến điều 23 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
22
hư hỏng, tiến hành thay thế, thu hồi tiền. Ngân hàng Nhà nước quy định tiêu chuẩn phân loại tiền rách
nát, hư hỏng; đổi, thu hồi các loại tiền rách nát, hư hỏng do quá trình lưu thông; không đổi những đồng
tiền rách nát, hư hỏng do hành vi huỷ hoại. Ngân hàng Nhà nước thu hồi và rút khỏi lưu thông các loại
tiền không còn thích hợp và phát hành các loại tiền khác thay thế. Các loại tiền thu hồi được đổi lấy các
loại tiền khác với giá trị tương đương trong thời hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định. Sau thời hạn thu
hồi, các loại tiền thuộc diện thu hồi không còn giá trị lưu hành.
Bên cạnh đó, Pháp luật cũng qui định các hành vi bị nghiêm cấm như: Làm tiền giả; vận chuyển,
tàng trữ, lưu hành tiền giả; Huỷ hoại đồng tiền; Từ chối nhận, lưu hành đồng tiền do Ngân hàng Nhà

nước phát hành.
3. Hoạt động tín dụng
27
Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước, song còn là một ngân hàng trung
ương, vì vậy Ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện các hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, Ngân hàng
Nhà nước không cho vay đối với cá nhân, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng. Với tính chất là một
ngân hàng trung ương, ngân hàng của các ngân hàng, Ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện hoạt động
cấp tín dụng dưới các hình thức:
3.1 Cho vay: Vay ngắn hạn dưới hình thức tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng hoạt động hợp
pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Họat động cho vay của Ngân hàng nhà nước Việt Nam cung ứng vốn cho
nền kinh tế, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng nhà nước Việt Nam có thể tái cấp vốn theo
hình thức:
-Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá;
-Chiết khấu giấy tờ có giá;
-Các hình thức tái cấp vốn khác.
+ Cho vay trong trường hợp đặc biệt: Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định cho vay đặc biệt
đối với tổ chức tín dụng trong các trường hợp sau đây:
-Tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, đe doạ sự ổn định của hệ thống các tổ
chức tín dụng;
-Tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng chi trả do sự cố nghiêm trọng khác.
Thông thường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ thực hiện cho vay khi các tổ chức tín dụng rơi
vào tình trạng kiểm sóat đặc biệt. Do vậy, thực chất, đây là hình thức cho vay “cứu cánh” nhằm phục hồi
khả năng thanh toán của các TCTD khi tổ chức tín dụng lâm và tình trạng mất khả năng thanh toán, tránh
trường hợp ảnh hưởng đến hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia. Hoạt động này không nhằm mục tiêu lợi
nhuận mà nhằm mục đích thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
3.2 Bảo lãnh
Bảo lãnh của Ngân hàng Nhà nước là việc Ngân hàng Nhà nước đứng ra cam kết với bên nhận
bảo lãnh về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được
bảo lãnh không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh

28
. Điều 25 Luật Ngân
hàng Nhà nước qui định: “Ngân hàng Nhà nước không bảo lãnh cho tổ chức, cá nhân vay vốn, trừ
trường hợp bảo lãnh cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính
phủ”. Như vậy, đối tượng bảo lãnh của Ngân hàng Nhà nước là các tổ chức tín dụng vay vốn nước
ngoài, được Thủ tướng Chính phủ chỉ định bảo lãnh.
27
Mục 3, từ điều 24 đến điều 26 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010.
28
Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương, Nguyễn Thị Mùi,NXB Học viện tài chính,Trang 108
23
3.3 Tạm ứng.
Ngân hàng Nhà nước với tư cách là cơ quan của Chính phủ, không những thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Trung ương, mà còn thực hiện chức năng nhiệm vụ như là Ngân hàng
của Chính phủ. Trong đó xác lập và thực hiện quan hệ tín dụng với ngân sách Nhà nước có ý nghĩa rất
quan trọng. Biểu hiện của mối quan hệ này là việc Ngân hàng Nhà nước tạm ứng cho ngân sách trung
ương để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Khoản tạm ứng này phải được hoàn trả trong năm ngân sách, trừ trường hợp đặc biệt do Uỷ ban thường
vụ Quốc hội quyết định. Như vậy, tạm ứng chính là hình thức Ngân hàng Nhà nước cho ngân sách Nhà
nước vay những khoản vay ngắn hạn để khắc phục tình trạng thiếu hụt ngân qũy.
Về nguyên tắc Ngân hàng Nhà nước không cho vay để bù đắp thiếu hụt của Ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước có thể tạm ứng cho Nhà nước trong trường hợp ngân sách Nhà nước bị
thiếu hụt tạm thời, do các khoản thu và chi của ngân sách không khớp nhau như: chưa đến kỳ thu nhưng
phải chi, các khoản chi phát sinh đột xuất… Khoản 2 điều 30 Luật Ngân sách nhà nước 2002 qui định
“Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ tạm ứng cho ngân sách Nhà nước để xử lý thiếu hụt tạm thời qũy
ngân sách Nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ”.
Với những phân tích trên, chúng ta thấy hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
khác với hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, không vì lợi nhuận mà nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia hoặc đảm bảo an
toàn cho hệ thống các tổ chức tín dụng; Thứ hai, bên đi vay không phải là các doanh nghiệp, cá nhân bất

kỳ mà chỉ là các Tổ chức tín dụng hoặc ngân sách nhà nước.
4. Hoạt động thanh toán và ngân quỹ
29
.
Hoạt động thanh toán là việc mở tài khoản, thực hiện dịch vụ thanh toán, tổ chức và tham gia các hệ
thống thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và việc mở tài khoản, sử dụng dịch vụ
thanh toán của chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán. Ngân hàng Nhà nước được mở tài khoản và thực hiện
giao dịch trên tài khoản ở ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ, ngân hàng quốc tế. Ngân hàng Nhà
nước mở tài khoản và thực hiện giao dịch cho tổ chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước. và thực hiện các giao
dịch cho Kho bạc Nhà nước; làm đại lý cho Kho bạc Nhà nước trong việc đấu thầu, phát hành và thanh
toán tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Ngòai ra, Ngân hàng Nhà nước cung ứng dịch vụ ngân quỹ thông qua
việc thu, chi tiền cho chủ tài khoản, vận chuyển, kiểm đếm, phân loại và xử lý tiền trong lưu thông. Như
vậy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không trực tiếp mở tài khoản, cung ứng các dịch vụ thanh toán cho
cá nhân và các tổ chức khác ngoài tổ chức tín dụng. Nói chung, hoạt động này của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam nhằm mục đích thực hiện chức năng là ngân hàng Trung ương.
Liên quan đến họat động này, NHNNVN còn thực hiện việc tổ chức, quản lý, vận hành, giám sát hệ
thống thanh tóan quốc, và tiến hành quản lý các phương tiện thanh tóan trong nền kinh tế.
5. Quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối
30
Hoạt động ngoại hối là các hoạt động đầu tư, vay, cho vay, bảo lãnh, mua, bán và các giao dịch khác về
ngoại hối. Hoạt động ngoại hối bao gồm những hình thức hoạt động: giao dịch vãng lai, giao dịch vốn,
sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối và các giao dịch khác
liên quan đến ngoại hối
Theo đó:
29
Mục 4 từ điều 27 đến 30 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
30
mục 5, từ điều 31 đến điều 34Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010
24
- Giao dịch vãng lai là giao dịch giữa người cư trú và người không cư trú không vì mục đích

chuyển vốn. Đó là ngoại tệ có được từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá; ngoại tệ được chuyển
đổi để mang ra nước ngoài với mục đích học tập, công tác, chữa bệnh, du lịch…
- Các giao dịch vốn bao gồm: đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; đầu tư của Việt Nam ra nước
ngoài; vay, trả nợ nước ngoài; cho vay, thu hồi nợ nước ngoài; phát hành chứng khoán trong và ngoài
nước.
- Sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam: Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán,
niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các
giao dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, uỷ thác, đại
lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép.
- Hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối gồm có cung ứng trên thị trường trong nước và thị
trường quốc tế. Đối tượng được hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối gồm các ngân hàng, các tổ chức
tín dụng phi ngân hàng và các tổ chức khác được phép hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách quản lý ngoại hối nhằm tạo
điều kiện thuận lợi và bảo đảm lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngoại hối, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế; thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển
đổi của đồng Việt Nam; thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam; thực
hiện các cam kết của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng
cường hiệu lực quản lý nhà nước về ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước về ngoại hối. Để thực hiện chức năng này, pháp
luật trao cho Ngân hàng Nhà nước những thẩm quyền nhất định như:
-Quản lý ngoại hối và sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định của pháp luật.
-Tổ chức và phát triển thị trường ngoại tệ.
-Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối cho tổ chức tín dụng, các tổ chức khác có hoạt động
ngoại hối.
-Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định biện pháp hạn chế giao dịch ngoại hối để bảo đảm an
ninh tài chính, tiền tệ quốc gia.
-Tổ chức, quản lý, tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối trong nước qua các
nghiệp vụ mua bán, kinh doanh ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam. Ngân hàng
Nhà nước thực hiện việc mua, bán ngoại hối trên thị trường trong nước vì mục tiêu chính sách tiền tệ

quốc gia; mua, bán ngoại hối trên thị trường quốc tế và thực hiện các giao dịch ngoại hối khác theo qui
định của Chính phủ
31
.
Ngòai ra, theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, Ngân hàng nhà nước Việt Nam còn
thực hiện chức năng quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo
đảm khả năng thanh toán quốc tế và bảo toàn Dự trữ ngoại hối nhà nước. Ngân hàng Nhà nước báo cáo
Thủ tướng Chính phủ theo định kỳ và đột xuất về quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước. Bộ Tài chính kiểm
tra việc quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước do Ngân hàng Nhà nước thực hiện theo quy định của Chính
phủ.
6. Thanh tra, giám sát ngân hàng
Thanh tra, giám sát ngân hàng nhằm góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ
thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và
31
Điều 33 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010
25

×