Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận triết học MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.14 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
PHÒNG ĐT SĐH-KHCN&QHĐN
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ
NHIÊN
Giảng viên phụ trách: TS. BÙI VĂN MƯA
Học viên thực hiện: ĐẶNG BẢO ÂN
Mã số học viên: CH1301077
TP. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2014
LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử quá trình hình thành và phát triển hơn hai nghìn năm của triết học và
khoa học tự nhiên đã cho thấy triết học là cơ sở để giải thích và định hướng nhận
thức, hoạt động của khoa học tự nhiên, còn khoa học tự nhiên lại tìm thấy trong triết
học duy vật biện chứng thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn, sắc bén để đi sâu
nghiên cứu giới tự nhiên. Một nhà khoa học không thể thiếu phương pháp luận triết
học sáng suốt dẫn đường. Thiếu tư duy triết học sáng suốt dẫn đường, nhà khoa học
khó có thể xác định tốt những định hướng nghiên cứu đúng đắn, tối ưu để đi tới
những phát minh, sáng chế.
Với định hướng là một nhà khoa học tương lai, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa
học tự nhiên, em nhận thấy sự cần thiết của việc nắm bắt được mối quan hệ giữa triết
học và khoa học tự nhiên. Từ đó, giúp bản thân hiểu rõ những quy luật, phương pháp
tư duy, suy luận, để có thể tạo ra những phát minh, sáng chế tốt hơn trong tương
lai.Bài tiểu luận được trình bày gồm bốn phần chính:
- Quan hệ qua lại giữa triết học và khoa học tự nhiên trong quá trình phát triển lịch sử.
- Vai trò của khoa học tự nhiên đối với sự phát triển của triết học.
- Vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên.
- Sự cần thiết của mối liên minh giữa triết học và khoa học tự nhiên.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn Thầy Bùi Văn Mưa đã tận tình giảng
dạy và hướng dẫn hoàn tất bài thu hoạch này. Chúc Thầy được nhiều sức khỏe.
Học viên thực hiện


Đặng Bảo Ân
2
I. QUANHỆQUA LẠI GIỮA TRIẾT HỌCVÀ KHOA HỌC TỰ
NHIÊNTRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỊCH SỬ
Khi chúng ta suy nghĩ để xem xét về giới tự nhiên, về lịch sử loài người hay
về sự hoạt động tinh thần của bản thân, chúng ta thường chú ý đến sự vận động, đến
sự quá độ từ cái này sang cái khác, đến những mối liên hệ nhiều hơn là chú ý cái
đang vận động, đang quá độ và đang liên hệ với nhau. Cách nhận xét thế giới một
cách nguyên thủy, ngây thơ nhưng căn bản là đúng ấy là cách nhận xét của các nhà
triết học Hy Lạp thời cổ và người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng cách nhận xét ấy là
Hêraclit: “Mọi vật điều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại vì mọi vật điều trôi
đi, mọi vật điều đang không ngừng biến hóa, sinh thành và tiêu vong”.
Vì trong bước đầu nhận thức về toàn bộ giới tự nhiên ta chỉ mới thấy được
bức tranh tổng quát nên trong thời cổ đại, các nhà triết học đồng thời cũng là các nhà
khoa học tự nhiên.Chẳng hạn: Talet là một nhà hình học, Pitago là một nhà toán học,
… họ đều là những nhà triết học.
Nhưng dù đã nắm đúng tính chất chung của toàn bộ bức tranh các hiện tượng
đến thế nào đi nữa, cách nhìn ấy vẫn không đủ để giải thích những chi tiết kết thành
toàn bộ bức tranh ấy.Việc nghiên cứu về chi tiết bức tranh chung về thế giới là nhiệm
vụ của khoa học tự nhiên.
Việc phân thế giới tự nhiên ra thành những bộ phận cá biệt và nghiên cứu
chúng về chi tiết là điều kiện cơ bản cho những tiến bộ khổng lồ mà bốn thế kỷ vừa
qua đã đạt được trong việc nhận thức giới tự nhiên.Trong hình học, giải tích thì có
Đêcáctơ, Lôgarit, vi phân và tích phân thì có Lépnit. Thiên văn học thì có Kêple phát
hiện ra những quy luật vận động của các hành tinh.
Nhưng đặc điểm của thời đại ấy là sự hình thành một thế giới quan chung độc
đáo mà điểm trung tâm là quan niệm về tính chất bất di bất dịch tuyệt đối của thiên
3
nhiên. Thế giới quan đó mâu thuẫn gay gắt với tính chất triệt để cách mạng lúc đầu
của khoa học tự nhiên.

Phát súng đầu tiên chọc thủng cái quan niệm cứng nhắc về tự nhiên ấy là phát
minh của Cantơ. Phát minh ấy cùng với những phát minh dồn dập kế tiếp sau đó đã
đưa chúng ta trở lại với quan điểm biện chứng của các nhà triết học cổ Hy Lạp,đó là
sự tồn tại của toàn bộ tự nhiên từ cái nhỏ đến cái lớn, từ hạt cát đến mặt trời, từ
nguyên sinh vật đến con người là một quá trình vĩnh viễn sinh và diệt, một sự biến
động không ngừng, một sự vận động và biến hóa bất tuyệt. Tuy nhiên, ở người Hy
Lạp cổ đó chỉ là một trực kiến thiên tài, trong khi đối với chúng ta đó là kết quả của
những nghiên cứu khoa học và thực nghiệm nghiêm chỉnh. Những kết quả rực rỡ của
khoa học tự nhiên kinh nghiệm đã biến khoa học kinh nghiệm thành khoa học lý
luận.
Nhờ những phát hiện vĩ đại và thành tựu lớn lao đó của khoa học tự nhiên mà
ngày nay đã có thể trình bày một bức tranh tổng quát về toàn bộ tự nhiên xem như
một chỉnh thể kết bằng các tài liệu do chính các khoa học tự nhiên thực nghiệm cung
cấp.
Trước kia, việc trình bày một bức tranh tổng quát như thế là nhiệm vụ của cái
gọi là triết học tự nhiên. Triết học đó chỉ có thể làm nhiệm vụ ấy bằng cách thay thế
những mối liên hệ thực mà nó chưa biết bởi những mối liên hệ tưởng tượng, không
tưởng, bằng cách dùng những hư cấu bổ sung vào những sự kiện còn thiếu sót và
bằng cách bổ khuyết những lỗ hổng hiện thực chỉ trong sự tưởng tượng đơn thuần.
Làm như thế, triết học tự nhiên đã đưa ra được nhiều tư tưởng thiên tài, đã dự đoán
được nhiều sự phát hiện về sau, nhưng đồng thời nó cũng đẻ ra nhiều cái nhảm nhí.
Vào thời kỳ ấy không thể nào làm khác thế được. Chính quan niệm biện chứng về tự
nhiên đã làm cho triết học tự nhiên trở nên vô dụng.
4
II. VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC TỰ NHIÊNĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
TRIẾT HỌC
1. Khoa học tự nhiên và sự phát triển của triết học trước Mác
Khoa học tự nhiên thúc đẩy triết học tiến lên và triết học duy vật đã thay đổi
hình thức theo mỗi phát minh mang tính thời đại trong khoa học tự nhiên.Trong suốt
thời kỳ lâu dài từ Đêcáctơ đến Hêgen và từ Hốpxơ đến Phơbách, cái thúc đẩy các nhà

triết học tiến lên hoàn toàn không phải chỉ là sức mạnh tư duy thuần túy như họ
tưởng tượng, trái lại cái thật ra đã thúc đẩy họ tiến lên chủ yếu là sự phát triển mạnh
mẽ, ngày càng nhanh chóng và mãnh liệt của khoa học tự nhiên và nền công nghiệp.
Chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII chủ yếu là có tính chất máy móc vì
lúcđó trong tất cả các khoa học tự nhiên chỉ có cơ học là đạt tới mức hoàn chỉnh nào
đó.Các khoa học tự nhiên khác còn trong thời kỳ ấu trĩ. Chẳng hạn, hóa học còn theo
thuyết phlôgixtôn, sinh học còn ở vào trình độ phôi thai, cơ thể của thực vật và độc
vật chỉ mới được nghiên cứu một cách rất thô sơ. Do đó, tuyệt đối không thể làm cơ
sở cho một quan niệm chung về tự nhiên được. Ba giới hạn cơ bản đã hạn chế tư
tưởng của các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII. Giới hạn thứ nhất: quan điểm của các
nhà duy vật cũ có tính chất máy móc theo cái nghĩa là họ đã áp dụng cái xích độ cơ
học vào quá trình của giới tự nhiên hóa học và hữu cơ. Giới hạn thứ hai: quan điểm
của các nhà duy vật cũ là siêu hình vì triết học của họ có tính chất không biện chứng.
Giới hạn thứ ba: duy trì chủ nghĩa duy tâm ở nữa trên tức là trong lĩnh vực khoa học
xã hội, không hiểu gì về chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2. Khoa học tự nhiên với sự ra đời và phát triển của triết học Mác-Lênin
Ba phát minh lớn trong khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XIX là tiền đề khoa học
tự nhiên cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng.Phát minh thứ nhất là chứng
5
minh được sự chuyển hóa năng lượng bắt nguồn tự sự khám phá ra đương lượng cơ
học của nhiệt (do Rôbe Mâye, Giun và Cônđinh). Phát minh thứ hai là phát minh của
Sơoan và Sơlâyđen ra tế bào hữu cơ, coi đó như một đơn vị, từ đó mọi cơ thể từ
những thể thấp nhất sinh ra và lớn lên bằng cách sinh sôi ra và phân hóa. Điểm thiếu
xót chính của phát minh thứ hai là nếu tất cả mọi cơ thể đa bào (thực vật cũng như
động vật) mỗi cái đều lớn lên từ một tế bào duy nhất theo quy luật của sự phân chia
tế bào thì do đâu mà xuất hiện tính muôn vẻ vô tận của những cơ thể ấy? Phát minh
thứ ba đã trả lời câu hỏi này. Đó là thuyết tiến hóa của Đácuyn. Nhờ ba phát minh vĩ
đại ấy, người ta đã giải thích được những quá trình chủ yếu của giới tự nhiên, tìm ra
được những nguyên nhân tự nhiên của quá trình ấy.
Triết học Mác-Lênin ra đời và phát triển trên cơ sở của sự khái quát hóa

những thành tựu của triết học, của khoa học tự nhiên và của thực tiễn xã hội suốt hai
nghìn năm lịch sử. Những thành tựu mới của khoa học tự nhiên không ngừng xác
nhận và thúc đẩy triết học Mác-Lênin tiến lên.
III. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC ĐỐI VỚISỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC
TỰ NHIÊN
1. Triết học duy vật và biện chứng vốn là cơ sở phương pháp luận của khoa
học tự nhiên
Trên cơ sở những tư tưởng duy vật và biện chứng, triết học đã có những dự
kiến thiên tài đi trước khoa học tự nhiên trên nhiều lĩnh vực và dành cho khoa học tự
nhiên nhiệm vụ chứng minh về chi tiết.Chẳng hạn việc đưa ra nhiều bằng chứng để
xác minh nguyên lý bảo tồn năng lượng và đưa nguyên lý này lên hàng đầu là một
thành tích lớn của lý thuyết cơ học về nhiệt. Tuy nhiên, nếu các nhà vật lý học nhớ lại
thì nguyên lý này đã được Đêcáctơ đưa ra nhận định từ trước đó. Hay học thuyết của
6
Đácuyn là sự chứng minh thực tiễn khái niệm của Hêgen về sự liên hệ nội tại giữa
tính tất yếu và tính ngẫu nhiên.
Về chủ nghĩa duy vật tự phát của khoa học tự nhiên: các nhà khoa học tự
nhiên ngay từ đầu đã xây dựng được trên cơ sở nhận thức luận duy vật, nhưng đó
mới là chủ nghĩa duy vật tự phát, tức là một lòng tin tự phát, không có ý thức về mặt
triết học của tuyệt đại đa số các nhà khoa học tự nhiên đối với thực tại khách quan
của thế giới bên ngoài do ý thức ta phản ánh. Vì vậy, nhiều nhà bác học trong lĩnh
vực khoa học của mình đều là những nhà duy vật vững vàng nhưng bên ngoài lĩnh
vực ấy thì họ có thể là những người duy tâm, bất khả tri và thậm chí có thể là những
tín đồ chính thống và ngoan đạo. Ví dụ như Hemhôndơ là một người rất vĩ đại về mặt
khoa học tự nhiên, nhưng về mặt triết học ông cũng không triệt để như tuyệt đại đa số
các nhà khoa học tự nhiên. Ông thiên về chủ nghĩa Cantơ.
2. Chủ nghĩa duy tâm và phương pháp siêu hình cản trở sự phát triển của
khoa học tự nhiên.
Chủ nghĩa duy tâm là kẻ thù của khoa học. Nó luôn luôn lợi dụng những thành
tựu và khó khăn của khoa học tự nhiên vào mục đích phản động. H.Côhen từng cố

gắng tranh thủ nhà vật lý học nổi tiếng Henrích Héctơđơ làm đồng minh. Côhen nói:
“Héctơđơ là người của chúng ta, ông thuộc phái Cantơ, ông thừa nhận những điều
tiên thiên đấy!”. Cơlinpete, đồ đệ MaKhơ thì cãi lại: “Héctơđơ là người của chúng ta,
ông theo MaKhơ đấy! Vì ta thấy Héctơđơ cũng có một quan niệm chủ quan chủ
nghĩa về bản chất những khái niệm của ta, giống như quan niệm của MaKhơ”. Cuộc
tranh cãi lý thú về việc Héctơđơ đứng về phía ai, là một ví dụ rất hay và rõ ràng rằng
các nhà triết học duy tâm đã nắm lấy như thế nào sự sai lầm nhỏ nhất và cái chỗ diễn
đạt không đúng nhỏ nhất của các nhà khoa học tự nhiên trứ danh để chứng minh sự
bênh vực có sửa lại đôi chút của họ đối với chủ nghĩa tín ngưỡng.
7
Phương pháp tư duy siêu hình và chủ nghĩa kinh nghiệm cản trở sự phát triển
của khoa học tự nhiên. F. Engen đã từng nói trong cuốn Phép biện chứng của sự
nhiên: “Chủ nghĩa siêu hình chiết trung thông thường đã làm cho khoa học tự nhiên
bị chặng đứng lại một cách tuyệt vọng trong những yêu cầu về lý luận của nó”.
Chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa kinh nghiệm và phương pháp tư duy siêu hình
không tránh khỏi đẩy khoa học tự nhiên vào khủng hoảng. Số đông những nhà khoa
học tự nhiên vẫn còn bị sa lầy trong những phạm trù siêu hình cũ.Cuộc khủng hoảng
của vật lý học ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là cuộc khủng hoảng điển hình của
khoa học tự nhiên cận đại. Thực chất, nguyên nhân và con đường thoát khỏi cuộc
khủng hoảng ấy cũng như thoát khỏi các cuộc khủng hoảng của khoa học tự nhiên
nói chung.
3. Phép biện chứng duy vật là phương pháp luận duy nhất đúng đắn của
khoa học tự nhiên hiện đại
Phép biện chứng là lý luận về sự tiến hóa hoàn toàn nhất, sâu sắc nhất, ít phiến
diện nhất. Đó là khoa học về những mối liên hệ trong sự đối lập với phép siêu hình,
là khoa học về những quy luật phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng duy vật đòi hỏi phải xuất phát từ sự vật khách quan, phải có quan
điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm thực tiễn và quan điểm lịch sử cụ
thể. Những quy luật của phép biện chứng được rút ra từ trong lịch sử của giới tự
nhiên và lịch sử của xã hội loài người. Gồm các quy luật:

- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hạt nhân của phép biện
chứng. Nó vạch rõ nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động và phát triển. Trong
toán học là + và -, vi phân và tích phân. Trong cơ học là tác dụng và phản tác dụng.
Trong vật lý học là điện dương và điện âm. Trong xã hội là đấu tranh giai cấp.
8
- Quy luật lượng đổi chất đổi: sự biến đổi về lượng nhất định dẫn đến sự biến đổi về
chất. Đó là quy luật vạch ra con đường của mọi sự vận động và phát triển trải qua quá
trình từ tiệm tiến đến nhảy vọt. Ví dụ trong hóa học, chỉ sự thay đổi đơn giản về
lượng các nguyên tố mà hình thành những vật thể khác nhau về chất, chẳng hạn axit
phômich CH
2
O
2
sôi ở 100
o
C và axit axêtich C
2
H
4
O
2
sôi ở 118
o
C.
- Quy luật phủ định của phủ định là quy luật phát triển vô cùng phổ biến của tự nhiên,
lịch sử và tư duy. Đó là quy luật vạch ra xu hướng tất yếu đi lên của mọi sự vận động
và phát triển, của sự thay cũ đổi mới, của sự phát triển theo hình xoáy ốc. Lấy ví dụ
về hạt thóc, sẽ có hàng triệu hạt thóc giống nhau được xay ra, nấu chín và đem làm
rượu, rồi tiêu dùng đi. Nhưng nếu một hạt thóc như thế gặp điều kiện bình thường rơi
vào một miếng đất thích hợp với ảnh hưởng của sức nóng và độ ẩm, trong bản thân

nó sẽ xảy ra sự biến hóa riêng, nó nảy mầm, hạt thóc không còn là hạt thóc nữa, nó bị
phủ định, bị thay thế bởi cây lúa do nó sinh ra…
Thoát khỏi hình thức thần bí, học thuyết Mác-Lênin (mà linh hồn của nó là
phép biện chứng) đã cung cấp cho loài người công cụ nhận thức vĩ đại.Phép biện
chứng là hình thức tư duy thích hợp nhất của khoa học tự nhiên hiện đại.Vai trò
phương pháp luận của triết học Mác-Lênin đối với nghiên cứu khoa học tự nhiên: nó
là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác, cân đối và hoàn chỉnh.
Đứng vững trên lập trường biện chứng duy vật, các nhà sáng lập triết học
Mác-Lênin đã có những tiên đoán thiên tài trong lĩnh vực khoa học tự nhiên. Những
tiên đoán trực tiếp đã được sự phát triển của khoa học tự nhiên hiện đại xác nhận:
- Sự phát triển của khoa học sẽ tiếp tục đi theo con đường phá vỡ những khái niệm
khoa học cũ.
- Cuộc khủng hoảng của vật lý học cận đại chỉ là một thời kỳ ốm đau ngắn ngủi trong
lịch sử khoa học, một chứng bệnh của trưởng thành và chủ nghĩa duy tâm vật lý cũng
chỉ làm người ta nhất thời mê say mà thôi.
9
- Các cuộc khủng hoảng trong khoa học tự nhiên chỉ có thể được khắc phục hoàn toàn
khi thế giới quan duy vật biện chứng thống trị.
- Vật lý học hiện đại đang đi từ chủ nghĩa duy vật siêu hình tới chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Nhưng nó không phải đi tới đó theo đường thẳng mà theo đường rất quanh
co…
Những tiên đoán gián tiếp cũng đã được sự phát triển của khoa học tự nhiên
hiện đại hoàn toàn xác nhận:
- Sự thống nhất của các mặt đối lập trong quan điểm phát triển biện chứng.
- Sự chuyển hóa cái này sang cái khác theo quan điểm phát triển biện chứng.
- Về các đại biểu vật chất mang các thuộc tính sinh vật …
Bên cạnh đó là các tiên đoán đang chờ được xác như :thuộc tính phản ánh tồn
tại ở nền móng của vật chất, việc quy toàn bộ thế giới và vận động của điện tử hay
tính chất “kỳ quái” của các phát minh khoa học tương lai.
IV. SỰ CẦN THIẾT CỦA MỐI LIÊN MINH GIỮATRIẾT HỌC VÀ KHOA

HỌC TỰ NHIÊN
Những thành tựu mà khoa học tự nhiên hiện đại đạt được đã buộc nó phải
chuyển sang lĩnh vực lý luận - lĩnh vực triết học, buộc nó phải vận dụng tư duy lý
luận và các nhà khoa học tự nhiên dù muốn hay không cũng phải tiến tới các kết luận
chung về lý luận.Các nhà khoa học tự nhiên dù có thái độ thế nào đi nữa thì họ cũng
vẫn bị triết học chi phối. Khinh miệt phép biện chứng không thể không bị trừng phạt.
Một quan niệm vừa biện chứng, vừa duy vật về tự nhiên đòi hỏi người ta phải
thông thạo triết học và khoa học tự nhiên. Triết học không hề có quyền được tồn tại
đơn độc. Nó thu thập các tài liệu của mình từ trong các ngành khác nhau của khoa
10
học thực chứng.Sự liên minh giữa các nhà khoa học tự nhiên và các nhà triết học duy
vật biện chứng là một yêu cầu cấp bách, đồng thời là một tất yếu lịch sử của thời đại.
11
LỜI KẾT LUẬN
Từ những nội dung vừa được xem xét, chúng ta có thể rút ra một số kết luận:
Một là,giữa triết học và khoa học tự nhiên có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó
mật thiết, bổ sung lẫn nhau.Thực tiễn phát triển của khoa học và triết học trong quá
trình lịch sử thời gian qua đã chứng minh được mối quan hệ mật thiết giữa triết học
và khoa học tự nhiên: khoa học tự nhiên là cơ sở của sự phát triển triết học, khoa học
tự nhiên càng phát triển thì trình độ nhận thức thế giới càng cao. Ngược lại, triết học
trang bị thế giới quan và phương pháp luận để định hướng khoa học tự nhiên trong
việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Hai là,vai trò của triết học đối với khoa học tự nhiên.Triết học trang bị thế
giới quan và phương pháp luận dẫn đường chỉ lối cho sự phát triển của khoa học tự
nhiên,đưa ra những dự báo thúc đẩy khoa học tự nhiên phát triển. Bên cạnh đó, triết
học còn là cơ sở khoa học để đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm và hệ tư tưởng tư
sản, xuyên tạc những phát minh khoa học.
Ba là,ý nghĩa của việc nắm vững mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự
nhiên.Giúp nắm vững bản chất tiến bộ, cách mạng và khoa học của các nguyên lý
triết học, từ đó xây dựng cho mình thế giới quan duy vật và phương pháp luận duy

vật biện chứng trong nhận thức và hành động.Nhận rõ vai trò của triết học đối với
mọi giai đoạn của quá trình nghiên cứu khoa học (xuất phát từ việc chọn đề tài, chọn
phương pháp nghiên cứu, đánh giá kết quả,…).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Văn Nghĩa, Về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên,
Nxb khoa học xã hội, 1973.
12
[2] Bùi Văn Mưa, Triết học & bức tranh vật lý học về thế giới, Nxb đại học
quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2007.
MỤC LỤC
13

×