Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

luận văn quản trị kinh doanh Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty TNHH bao bì Nam Phong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.02 KB, 50 trang )

Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của thế giới và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đất
nước ta đang từng bước đổi mới và bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; vừa xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, vừa phát triển nền kinh tế đất nước.
Sự chuyển đổi của nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã
mang đến nhiều cơ hội cũng như những thách thức to lớn trên con đường hội
nhập của đất nước. Một trong những thách thức chính mà tất cả các doanh
nghiệp phải đối mặt trong nền kinh tế thị trường hiện nay đó là vấn đề cạnh
tranh. Một thách thức mang tính tất yếu khi mà sản xuất buôn bán hàng hoá được
tự do trong khuôn khổ pháp luật, thành phần kinh tế tư nhân ngày càng đông đảo
thì vấn đề cạnh tranh có ảnh hưởng mang tính quyết định tới kết quả kinh doanh
cũng như sự tồn tại của doanh nghiệp.
Được thành lập năm 2005, đúng vào giai đoạn đầu của quá trình đổi mới,
đến nay công ty TNHH Bao bì Nam Phong đã đạt được những thành tựu nhất
định khi bước đầu chiếm lĩnh được thị phần trong ngành in bao bì. Tuy nhiên
công ty vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ với các
khách hàng lớn, những doanh nghiệp có sản phẩm uy tín và quy mô lớn trên thị
trường.
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
Sau thời gian thực tập tại công ty, xuất phát từ thực tế khảo sát tình hình sản
xuất kinh doanh của công ty TNHH bao bì Nam Phong, với sự hướng dẫn của
thầy Lê Xuân Đại em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh cho công ty TNHH bao bì Nam Phong ” nhằm tìm ra một số giải pháp
giúp công ty nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường hiện nay
và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp kết hợp với thực tế phân tích các nhân tố ảnh hưởng, đánh giá


thực trạng khả năng cạnh tranh của công ty TNHH bao bì Nam Phong qua các
chỉ tiêu chủ yếu để thấy được năng lực cạnh tranh hiện nay của công ty so với
các đối thủ trên thị trường và tìm ra một số giải pháp giúp nâng cao năng lực
cạnh tranh cho công ty.
Đối tượng nghiên cứu của để tài là các nhân tố ảnh hưởng
Phạm vi nghiên cứu của đề tài l
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp phân tích:
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
Kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp
Chương 2: Thực tranh năng lực cạnh tranh của công ty TNHH bao bì
Nam Phong
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty
TNHH bao bì Nam Phong
Vì thời gian có hạn, trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn
chế nên bài luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được
ý kiến đóng góp của thầy cô giáo để bài khóa luận được hoàn thiện đầy đủ hơn.
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Cạnh tranh và các khái niệm liên quan
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh ngày nay xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống con người từ
tầm vi mô đến vĩ mô, từ cạnh tranh giữa các cá nhân đến cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp và cả cạnh tranh giữa các quốc gia với nhau về khách hàng, sản
phẩm, dịch vụ, thị trường, nhà cung cấp… Tuy nhiên xét trong phạm vi nghiên

cứu ta chỉ quan tâm đến khái niệm cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường hiện nay.
Cạnh tranh là yếu tố luôn gắn liền với nền kinh tế thị trường, tuỳ theo từng
cách hiểu và tiếp cận mà có nhiểu quan điểm về cạnh tranh:
- Cạnh tranh là sự phấn đấu về chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp
mình sao cho tốt hơn so với đối thủ cùng cung cấp loại sản phẩm, dịch vụ đó.
- Cạnh tranh là sự thôn tính lẫn nhau giữa các đối thủ với nhau nhằm giành lấy
khách hàng và thị trường về phía doanh nghiệp mình.
- Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường nhằm
giành được những ưu thế hơn về cùng một loại sản phẩm dịch vụ hoặc cùng một
loại khách hàng về phía mình so với các đối thủ cạnh tranh.
Qua một số quan điểm về cạnh tranh đã nêu, có thể thấy được bản chất của
cạnh tranh trong cơ chế thị trường hiện nay là: Cạnh tranh là sự đấu tranh gay
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
gắt, sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trên thị trường nhằm giành giật những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và kinh doanh để đạt được mục tiêu của doanh
nghiệp đó. Cạnh tranh xuất hiện khi có nhiều chủ thể hay doanh nghiệp cùng
cung ứng một loại sản phẩm dịch vụ ra thị trường hoặc cung ứng các sản phẩm
dịch vụ có chung một hay nhiều chức năng sử dụng và các doanh nghiệp phải
cạnh tranh khốc liệt với nhau để có thể bán được hàng hoá dịch vụ của mình.
Như vậy cạnh tranh là quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá vận động
theo cơ chế thị trường. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá bán ra càng
nhiều, số lượng người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt. Kết quả
cạnh tranh sẽ có một số doanh nghiệp bị thất thế, thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị
trường trong khi một số doanh nghiệp khác có ưu thế vượt trội hơn sẽ tồn tại và
phát triển hơn nữa. Cạnh tranh sẽ làm cho doanh nghiệp năng động, nhạy bén
trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, giảm thiểu chi phí sản xuất
kinh doanh nhằm tăng vị thế của mình trên thị trường, tạo uy tín với khách hàng
và mang lại nguồn lợi nhuận cho doanh nghiệp.

1.1.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Từ khái niệm và bản chất của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đã nêu ở mục
1.1.1, có thể hiểu khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng
của doanh nghiệp đó trong việc cạnh tranh với các đối thủ để giành giật những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và kinh doanh để đạt được mục tiêu của mình
như nhà cung cấp đầu vào, nhân lưc, công nghệ, giá cả, thị trường, kênh phân
phối, dịch vụ sau bán hàng,… Những chỉ tiêu phản ánh cuối cùng khả năng cạnh
tranh với các đối thủ đó là thị phần và lợi nhuận của sản phẩm dịch vụ mà doanh
nghiệp cạnh tranh. Thị phần và lợi nhuân càng lớn phản năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp càng cao. Và muốn so sánh năng lực cạnh tranh với đối thủ cạnh
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
tranh có thể so sánh thị phần và doanh thu của sản phẩm dịch vụ cạnh tranh của
doanh nghiệp với đối thủ. Thị phần và doanh thu trong một giai doạn nhất định
của doanh nghiệp cao hơn đối thủ chứng tỏ năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là mạnh hơn đối thủ.
1.2 Phân loại cạnh tranh (Các loại hình cạnh tranh)
1.2.1 Căn cứ vào chủ thể tham gia vào thị trường
Căn cứ vào chủ thể tham gia có ba loại:
1.2.1.1 Cạnh tranh giữa người bán và người mua
Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo luật mua rẻ bán đắt. Người mua luôn muốn
được mua rẻ, ngược lại người bán lại luôn muốn được bán đắt. Sự cạnh tranh này
được thực hiện trong quá trình mặc cả và cuối cùng giá cả được hình thành và
hành động bán mua được thực hiện.
1.2.1.2 Cạnh tranh giữa những người mua
Là cuộc cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung cầu, Khi một loại hàng hoá
dịch vụ nào đó mà mức cung cấp nhỏ hơn nhu cầu tiêu dùng thì cuộc cạnh tranh
sẽ trở nên quyết liệt và giá hàng hoá dịch vụ đó sẽ tăng. Kết quả cuối cùng là
người bán sẽ thu được lợi nhuận cao, còn người mua thì mất thêm một số tiền.
Đây là cuộc cạnh tranh mà những người mua tự làm hại chính mình.

1.2.1.3 Cạnh tranh giữa những người bán
Đây là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất, nó có ý nghĩa sống còn
đối với bất kì doanh nghiệp nào. Khi sản xuất hàng hoá phát triển, số người bán
càng tăng lên thì cạnh tranh càng quyết liệt bởi vì doanh nghiệp nào cũng muốn
giành lấy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần cao về phía mình và kết quả
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
doanh nghiệp nào chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này sẽ đạt được việc tăng
doanh số tiêu thụ, tăng thị phần và cùng với đó sẽ là tăng lợi nhuận, tăng đầu tư
chiều sâu và mở rộng sản xuất. Những doanh nghiệp nào không có chiến lược
cạnh tranh thích hợp sẽ bị gạt ra khỏi thị trường nhưng đồng thời lại mở rộng
đường cho những doanh nghiệp nào nắm chắc được “ vũ khí ” cạnh tranh và dám
chấp nhận quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường.
1.2.2 Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế
Người ta chia cạnh tranh thành hai loại:
1.2.2.1 Cạnh tranh trong nội bộ ngành
Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất hoặc tiêu thụ một loại
hàng hoá dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này có sự thôn tính lẫn nhau.
Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên
thị trường. Những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh, thậm chí
phá sản.
1.2.2.2 Cạnh tranh giữa các ngành
Là sự cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp trong các ngành kinh tế khác
nhau, nhằm giành lấy lợi nhuận lớn nhất. Trong quá trình cạnh tranh này, các
chủ doanh nghiệp luôn say mê với những ngành đầu tư có lợi nhuận nên đã
chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành nhiều lợi nhuận. Sự điều chuyển tự
nhiên theo tiếng gọi của lợi nhuận này sau 1 thời gian nhất định sẽ hình thành
nên một sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành sản xuất, để rồi kết quả cuối
cùng là các chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số vốn như nhau
thì cũng chỉ thu được lợi nhuận như nhau, tức là hình thành tỷ suất lợi nhuận

bình quân giữa các ngành.
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
1.2.3 Căn cứ vào mức độ tính chất của cạnh tranh trên thị trường
Người ta chia cạnh tranh thành hai loại:
1.2.3.1 Cạnh tranh hoàn hảo
Là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất nhiều người bán, người
mua nhỏ, không ai trong số họ đủ khả năng bằng hành động của mình làm ảnh
hưởng đến giá cả dịch vụ. Điều đó có nghĩa là không cần biết sản xuất được bao
nhiêu, họ đều có thể bán được tất cả sản phẩm của mình tại mức giá thị trường
hiện hành. Vì vậy một hãng trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo không có lý do
gì để bán rẻ hơn mức giá thị trường. Hơn nữa sẽ không tăng giá của mình lên cao
hơn giá thị trường vì nếu thế hãng sẽ chẳng bán được gì. Nhóm người tham gia
vào thị trường này chỉ có cách là thích ứng với mức giá bởi vì cung cầu trên thị
trường được tự do hình thành, giá cả theo thị trường quyết định, tức là ở mức số
cầu thu hút được tất cả số cung có thể cung cấp. Đối với thị trường cạnh tranh
hoàn hảo sẽ không có hiện tượng cung cầu giả tạo, không hạn chế bởi biện pháp
hành chính nhà nước. Vì vậy trong thị trường này giá cả sẽ dần tới mức chi phí
sản xuất.
1.2.3.2 Cạnh tranh không hoàn hảo
Đây là hình thức cạnh tranh phổ biến trên thị trường mà ở đó doanh nghiệp
nào có đủ sức mạnh có thể chi phối được giá cả của sản phẩm thông qua hình
thức quảng cáo, khuyến mại các dịch vụ trong và sau khi bán hàng. Cạnh tranh
không hoàn hảo là cạnh tranh mà phần lớn các sản phẩm không đồng nhất với
nhau, mỗi loại sản phẩm mang nhãn hiệu và đặc tính khác nhau dù xem xét về
chất lượng thì sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể nhưng mức giá
mặc định cao hơn rất nhiều. Cạnh tranh không hoàn hảo có hai loại:
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
- Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh mà ở đó một hoặc một số chủ thể

có ảnh hưởng lớn, có thể ép các đối tác của mình phải bán hoặc mua sản phẩm
của mình với giá rất cao và những người này có thể làm thay đổi giá cả thị
trường. Có hai loại cạnh tranh độc quyền đó là độc quyền bán và độc quyền
mua. Độc quyền bán tức là trên thị trường có ít người bán và nhiều người
mua, lúc này người bán có thể tăng giá hoặc ép giá khách hàng nếu họ muốn
lợi nhuận thu được là tối đa, còn độc quyền mua tức là trên thị trường có ít
người mua và nhiều người bán khi đó khách hàng được coi là thượng đế, được
chăm sóc tận tình và chu đáo nếu không những người bán sẽ không lôi kéo
được khách hàng về phìa mình. Trong thực tế sẽ có tình trạng độc quyền xảy
ra nếu không có sản phẩm nào thay thế, tạo ra sản phẩm độc quyền hoặc các
nhà độc quyền liên kết với nhau gây trở ngại cho quá trình phát triển sản xuất
và làm tổn hại đến người tiêu dùng. Vì vậy phải có đạo luật chống độc quyền
nhằm chống lại liên minh độc quyền của một số nhà kinh doanh.
- Độc quyền tập đoàn: Hình thức cạnh tranh này tồn tại trong một số ngành
sản xuất mà ở đó chỉ có một số ít người sản xuất. Lúc này cạnh tranh sẽ xảy ra
giữa một số lực lượng nhỏ các doanh nghiệp. Do vậy mọi doanh nghiệp phải
nhận thức rằng giá cả các sản phẩm của mình không chỉ phụ thuộc vào số
lượng mà còn phụ thuộc vào hoạt động của những đối thủ cạnh tranh khác trên
thị trường. Một sự thay đổi về giá của doanh nghiệp cũng sẽ gây ra những ảnh
hưởng đến nhu cầu cân đối với các sản phẩm của doanh nghiệp khác. Những
doanh nghiệp tham gia thị trường này là những người có tiềm lực kinh tế
mạnh, vốn đầu tư lớn. Do vậy việc thâm nhập vào thị trường của các đối thủ
cạnh tranh thường là rất khó.
1.3 Vai trò của cạnh tranh
1.3.1 Vai trò của cạnh tranh đối với nền kinh tế quốc dân
Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế nâng cao năng suất lao động toàn
xã hội. Một nền kinh tế mạnh là nền kinh tế mà các tế bào của nó là các doanh
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
nghiệp có khả năng cạnh tranh cao. Tuy nhiên cạnh tranh ở đây phải là cạnh

tranh hoàn hảo, cạnh tranh lành mạnh; các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để
cùng phát triển, cùng đi lên thì mới làm cho nền kinh tế phát triển bền vững. Còn
cạnh tranh độc quyền sẽ ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế, nó tạo ra môi
trường kinh doanh không bình đẳng dẫn đến mâu thuẫn về quyền lợi và lợi ích
kinh tế trong xã hội, làm cho nền kinh tế không ổn định. Vì vậy chính phủ cần
ban hành lệnh chống độc quyền độc quyền trong cạnh tranh, trong kinh doanh để
tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Cạnh tranh hoàn hảo sẽ đào thải các doanh
nghiệp làm ăn không hiệu quả. Do đó buộc các doanh nghiệp phải lựa chọn
phương án kinh doanh có chi phí thấp nhất, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Như vậy cạnh tranh mới mang lại sự tăng trưởng kinh tế.
1.3.2 Vai trò của cạnh tranh đối với người tiêu dùng
Trên thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng diễn ra gay gắt thì
người được lợi nhiều nhất là khách hàng. Khi có cạnh tranh thì người tiêu dùng
không phải chịu một sức ép nào mà còn được hưởng những thành quả do cạnh
tranh mang lại như: chất lượng sản phẩm tốt hơn, giá bán thấp hơn, chất lượng
phục vụ cao hơn… Đồng thời khách hàng cũng tác động trở lại đối với cạnh
tranh bằng những yêu cầu về chất lượng hàng hoá, giá cả, chất lượng phục vụ…
Khi đòi hỏi của người tiêu dùng càng cao làm cho cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp ngày càng gay gắt.
1.3.3 Vai trò của cạnh tranh đối với doanh nghiệp
Cạnh tranh là điều bất khả kháng đối với mỗi doanh nghiệp trong nền kinh
tế thị trường. Cạnh tranh có thể được coi là cuộc chạy đua khốc liệt mà các
doanh nghiệp không thể tránh khỏi mà phải tìm mọi cách vươn lên để chiếm ưu
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
thế và chiến thắng. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp luôn tìm cách nâng cao
chất lượng sản phẩm, dịch vụ; thay đổi kiểu dáng, mẫu mã để đáp ứng nhu cầu
của khách hàng. Cạnh tranh khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công
nghệ mới, hiện đại, tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực để giảm giá thành, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, tạo ra

các sản phẩm mới khác biệt có sức cạnh tranh cao.
Cạnh tranh khốc liệt sẽ làm cho doanh nghiệp thể hiện được “ bản lĩnh “ của
mình trong quá trình kinh doanh. Nó sẽ làm cho doanh nghiệp càng vững mạnh
và phát triển hơn nếu doanh nghiệp chịu được áp lực cạnh tranh trên thị trường.
Chính sự tồn tại khách quan và sự ảnh hưởng của cạnh tranh đối với nền
kinh nói chung và đến từng doanh nghiệp nói riêng nên việc nâng cao khả năng
hay năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu khách quan
trong nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là quy luật khách quan của kinh tế thị trường, mà kinh tế thị
trường là kinh tế TBCN. Kinh tế thị trường là sự phát triển tất yếu và Việt Nam
chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng XHCN có sự quản lý vĩ mô của nhà nước, lấy thành phần kinh tế nhà
nước làm chủ đạo. Dù ở bất kỳ thành phần kinh tế nào thì các doanh nghiệp đều
phải vận hành theo quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Nếu doanh
nghiệp nằm ngoài quy luật vận động đó thì tất yếu sẽ bị loại bỏ, không thể tồn
tại. Chính vì vậy chấp nhận cạnh tranh và tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh
của mình chính là doanh nghiệp đang tìm con đường sống cho mình.
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
1.4 Những công cụ cạnh tranh chủ yếu
1.4.1 Cạnh tranh bằng sản phẩm
1.4.1.1 Cạnh tranh chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm được đánh giá một cách tương đối qua hai phương
thức chủ yếu:
- Thông qua các hệ thống kiểm soát chất lượng nhất định được công nhận rộng
rãi và phổ biến với nhiều tiêu thức kiểm tra, đánh giá khác nhau như độ bền vật
lý, hoá học; khả năng đáp ứng các chức năng sử dụng chính của sản phẩm; khả
năng tiết kiệm năng lượng tiêu thụ… Đáp ứng tốt những tiêu thức này chứng tỏ
chất lượng sản phẩm được đảm bảo. Rất nhiều sản phẩm bắt buộc phải đánh giá
chất lượng qua phương thức này. Những sản phẩm đó thường là những sản phẩm

có trình độ cao và đôi khi không thể đánh giá qua ý kiến chủ quan của người tiêu
dùng.
- Thông qua chính sự đánh giá, cảm nhận của khách hàng về sản phẩm sau quá
trình sử dụng. Chất lượng sản phẩm qua đánh giá của người tiêu dùng sẽ mang
tính chủ quan nhiều hơn, tuỳ theo sở thích, quan điểm, phong tục tập quán, tôn
giáo… của người tiêu dùng mà họ cho rằng sản phẩm này có chất lượng tốt hay
không.
Việc đảm bảo chứng nhận nhận chất lượng sản phẩm theo các hệ thống quy
định và kiểm soát chất lượng có uy tín đồng thời nắm bắt rõ nhu cầu của các
nhóm khách hàng khác nhau để đáp ứng chất lượng sản phẩm cho phù hợp sẽ
giúp cho sản phẩm của doanh nghiệp cạnh tranh tốt hơn so với đối thủ.
1.4.1.2 Cạnh tranh nhãn mác bao bì của sản phẩm
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
Các doanh nghiệp sử dụng phương pháp này để tác động trực tiếp vào tâm
lý của người tiêu dùng. Khi đưa ra quyết định về sản phẩm hầu hết khách hàng
đều quan tâm đến nhãn mác, uy tín của sản phẩm.
1.4.1.3 Cạnh tranh bao bì sản phẩm
Ngày nay khách hàng không chỉ quan tâm đến sản phẩm mà khi quyết định
mua hàng họ còn quan tâm nhiều đến việc bao gói sản phẩm. Đặc biệt những sản
phẩm chịu nhiều tác động do các yếu tố tự nhiên (thời tiết, nhiệt độ ) như các
sản phẩm lương thực, thực phẩm, những mặt hàng có giá trị sử dụng cao. Doanh
nghiệp cần thiết kế bao bì sản phẩm cho phù hợp về màu sắc, kiểu dáng, kích cỡ,
chất lượng…
1.4.1.4 Cạnh tranh về trình độ sản phẩm
Xuất phát từ nhu cầu thực tế trên thị trường, doanh nghiệp phải tạo ra
những sản phẩm cho phù hợp về nhận thức, nhu cầu, mức độ thao tác sử dụng…
1.4.1.5 Cạnh tranh bằng chu kỳ sống của sản phẩm
Quyết định sáng suốt trong từng giai đoạn của chu kỳ sống sản phẩm, thời
điểm để đưa ra sản phẩm mới thay thế hoặc dừng việc sản xuất và phân phối các

sản phẩm đã lỗi thời.
1.4.2 Cạnh tranh bằng giá
Chủ yếu các sản phẩm đều tham gia cạnh tranh bằng giá ở giai đoạn đầu,
đặc biệt những sản phẩm có tính chất thông dụng, thiết yếu. Những doanh
nghiệp mới gia nhập thị trường, giá cả luôn được coi là một công cụ quan trọng
có hiệu quả. Khi các doanh nghiệp cạnh tranh bằng giá thường sử dụng các biện
pháp sau:
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
- Sản xuất sản phẩm mới với chi phí thấp
- Bán sản phẩm với mức giá hạ và mức giá thấp
Trường hợp giá trị sử dụng của sản phẩm của doanh nghiệp tương đương
nhau nhưng mức giá thấp hơn cũng sẽ đem lại chiến thắng cho doanh nghiệp.
Nếu mức chênh lệch về giá trị sử dụng thấp hơn mức chênh lệch về giá so với
đối thủ thì doanh nghiệp đã tạo ra lợi ích cho khách hàng lớn hơn đối thủ cạnh
tranh. Do vậy sản phẩm của của doanh nghiệp sẽ được tín nhiệm hơn trong tâm
lý tiêu dùng của khách hàng, khả năng thắng cuộc trong cạnh tranh sẽ cao hơn.
Để tạo ra được mức giá thấp, doanh nghiệp phải xem xét khả năng kiểm
soát chi phí, chủ động giá của mình. Khả năng chủ động về giá càng cao sẽ tạo
lợi thế tốt trong cạnh tranh. Doanh nghiệp phải dựa vào những điều kiện cụ thể
với các yếu tố cơ bản để hạ giá sản phẩm:
- Chi phí kinh tế và kinh doanh thấp
- Khả năng tiêu thụ sản phẩm mạnh, ổn định
- Khả năng tài chính đảm bảo
1.4.3 Cạnh tranh về phân phối và bán hàng, dịch vụ kèm theo
Các biện pháp doanh nghiệp cần thực hiện:
- Tìm được các nhà phân phối đủ mạnh, các doanh nghiệp thương mại tham
gia phân phối sản phẩm của doanh nghiệp nếu các trung gian phân phối đó có
quy mô vốn lớn, có sức mạnh chi phối được lực lượng bán hàng trong kênh trên
thị trường.

Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
- Hệ thống bán hàng phong phú: hệ thống cửa hàng, kho hàng, bến bãi. Đối
với những sản phẩm ở trình độ kĩ thuật cao thì trung tâm bán hàng phải được
trang bị cơ sở vật chất hiên đại.
- Kết hợp được những người bán hàng trên thị trường, đặc biệt là thị trường
lớn
- Xây dựng hệ thống dịch vụ bán hàng, sau bán hàng hoàn hảo. Kết hợp tốt
giữa các cách thức bán hàng và các phương thức thanh toán.
Khi tham gia mua hàng của doanh nghiệp, khách hàng quan tâm nhiều đến các
loại dịch vụ đi kèm như: điều kiện thuận lợi khi thanh toán, chính sách tiền tệ
hợp lý, thực hiện mọi giao dịch mua bán nhanh gọn; sử dụng phương tiện bán
hàng, cung cấp hàng văn minh hiện đại. Đảm bảo lợi ích tốt nhất cho người mua,
thường xuyên cung cấp dịch vụ đối với những sản phẩm có bảo hành.
1.4.4 Cạnh tranh về thời cơ thị trường
Trong kinh doanh cũng như cạnh tranh thành công hay thất bại nhiều khi
chỉ là do nắm bắt được thời cơ hay không. Tuy nhiên việc nắm bắt thời cơ không
phải là chuyện đơn giản, thời cơ chỉ xuất hiện ở một số trường hợp cụ thể:
- Do sự thay đổi công nghệ
- Do sự thay đổi của dân cư
- Sự thay đổi của điều kiện tự nhiên
- Quan hệ được tạo lập của doanh nghiệp
Vấn đề là doanh nghiệp phải dự báo được những thay đổi của thị trường và
có kết luận chính xác, từ đó có những biện pháp chính sách khai thác thị trường
một cách hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh.
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.5.1 Các nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan là những yếu tố bên trong doanh nghiệp. Các yếu tố

này ảnh hưởng trực tiếp và có tác động to lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh
và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do có thể chủ động thay đổi các nhân
tố chủ quan trong phạm vi khả năng nhất định của doanh nghiệp nên các nhà
quản trị cần cố gắng điều chỉnh sao cho các yếu tố này ảnh hưởng tích cực đến
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là tối ưu nhất.
1.5.1.1 Khả năng về tài chính
Vốn là tiền đề vật chất cần thiết cho mọi hoạt đống sản xuất kinh doanh. Bất
cứ hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xem xét tính
toán đến tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực lớn
về tài chính sẽ rất thuận lợi trong việc huy động vốn, đầu tư, mua sắm đổi mới
công nghệ và máy móc thiết bị cũng như có điều kiện để đào tạo và đãi ngộ nhân
sự. Những thuận lợi đó sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao được trình độ chuyên
môn tay nghề cho cán bộ nhân viên, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi
phí để nâng cao dức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp yếu kém về
tài chính sẽ không có điều kiện để mua sắm, trang trải nợ và như vậy sẽ không
tạo được uy tín về khả năng thanh toán và khả năng đáp ứng những sản phẩm có
chất lượng cao đối với khách hàng, làm cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp không tiến triển được và có nguy cơ thụt lùi hoặc phá sản. Như vậy khả
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
năng về tài chính là yếu tố quan trọng đầu tiên để doanh nghiệp hình thành và
phát triển.
1.5.1.2 Nguồn lực vật chất kĩ thuật
Trình độ máy móc, thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có hệ thống trang thiết bị
máy móc, công nghệ hiện đại sẽ thúc đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hoá, tăng
nhanh vòng quay về vốn, giảm bớt được khâu kiểm tra về chất lượng hàng hoá
có đảm bảo hay không, đồng thời tiết kiệm nguyên vật liệu cho sản xuất. Như
vậy trình độ công nghệ máy móc có ảnh hưởng đến giá thành của sản phẩm và sẽ
ảnh hưởng đến giá bán. Ngày nay do tác động của cuộc cách mạng khoa học và

công nghệ, cuộc chiến giữa các doanh nghiệp đang trở thành cuộc cạnh tranh về
trí tuệ, về trình độ công nghệ. Công nghệ tiên tiến không những đảm bảo năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ mà còn có thể xác lập tiêu
chuẩn mới cho từng ngành sản xuất kĩ thuật. Công nghệ hiện đại theo tiêu chuẩn
hiện nay luôn gắn liền với việc bảo vệ môi trường, một chỉ tiêu ảnh hưởng lớn
đến uy tín của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng, do đó có ảnh hưởng không
nhỏ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.5.1.3 Nguồn nhân lực
Nguồn lực vật chất kĩ thuật là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến
đầu ra của doanh nghiệp nhưng nguồn nhân lực mới là nhân tố quyết định bởi
chỉ có con người mới có đầu óc và sáng kiến để thiết kế, sáng tạo ra sản phẩm,
chỉ có con người mới trực tiếp tạo được uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp. Vì
vậy doanh nghiệp phải chú ý tới việc sử dụng và phát triển nhân sự, xây dựng
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
môi trường văn hoá và có nề nếp tổ chức của doanh nghiệp. Đồng thời doanh
nghiệp phải quan tâm đến các chỉ tiêu cơ bản như số lượng lao động, trình độ
nghề nghiệp, năng suất lao động, thu nhập bình quân, năng lực của cán bộ quản
lý.
Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp nào có đội ngũ lãnh đạo giỏi, tài
tình và sáng suốt thì ở đó công nhân viên rất yên tâm để cống hiến hết mình, họ
luôn có cảm giác là doanh nghiệp mình sẽ luôn đứng vững và phát triển, trách
nhiệm và quyền lợi của họ được bảo đảm, nâng đỡ và phát huy. Ở đâu có nhân
viên nhiệt tình có trách nhiệm có sự sáng tạo thì ở có sự phát triển vững chắc,
bởi những quyết định mà ban lãnh đạo đưa ra đã có người thực hiện. Như vậy để
có năng lực cạnh tranh thì từng người trong doanh nghiệp đó phải có ý thức và
trách nhiệm và nghĩa vụ về công việc của mình. Muốn vậy khâu tuyển dụng, đào
tạo và đãi ngộ nhân sự là vấn đề quan trọng, nó quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp.
1.5.2 Các nhân tố khách quan

Là hệ thống toàn bộ các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp, có liên quan và
ảnh hưởng đến quá trình tồn tại, vận hành và phát triển của doanh nghiệp.
1.5.2.1 Các nhân tố mang tầm vĩ mô
- Các yếu tố về mặt kinh tế
Trong môi trường kinh doanh các yếu tố kinh tế dù ở bất kỳ cấp độ nào
cũng có vai trò quan trọng và quyết định hàng đầu. Các yếu tố kinh tế cần phải
được nghiên cứu, phân tích và dự báo bao gồm:
+ Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cao sẽ làm cho thu nhập của dân cư
tăng lên. Thu nhập của dân cư có ảnh hưởng đến việc quyết định khả năng thanh
toán của họ. Nếu như thu nhập của họ tăng lên có nghĩa là họ có thể tiêu dùng
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
những sản phẩm dịch vụ với chất lượng và yêu cầu cao hơn, đây là một cơ hội
tốt cho các nhà doanh nghiệp có khả năng sản xuất những hàng hoá cao cấp.
+ Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng nội tệ: Có ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là trong nền kinh tế mở như hiện nay. Nếu
đồng nội tệ mà bị mất giá thì nó cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
công ty trên thị trường. Đối với doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu nhập nhiều
nguyên liệu nước ngoài thì đây là khó khăn vì nó làm cho giá thực tế của hàng
hoá nhập khẩu tăng lên, làm ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm và khả năng cạnh
ttranh của công ty.
+ Lãi suất cho vay của ngân hàng cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp hạn chế về vốn phải
vay của ngân hàng. Nếu tỉ lệ lãi suất cao chi phí của doanh nghiệp tăng lên do trả
lãi tiền vay lớn, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ kém đi nhất là so với
các đối thủ có tiềm lực mạnh về vốn.
+ Các nhân tố kinh tế trong môi trường kinh tế quốc dân tương đối rộng
có ảnh hưởng đến nhiều mặt, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế,
do đó doanh nghiệp cần chọn lọc các ảnh hưởng (ở dạng cơ hội và đe dọa).
- Các nhân tố về chính trị – pháp luật:

Các nhân tố về chính trị pháp luật là nền tảng quy định các yếu tố khác của
môi trường kinh doanh. Có thể nói quan điểm đường lối chính trị nào, hệ thống
pháp luật và chính sách nào sẽ có môi trường kinh doanh đó. Nói cách khác
không có môi trường kinh doanh thoát ly quan điểm chính trị và nền tảng pháp
luật.
Cơ chế chính trị ổn định, một hệ thống pháp luật rõ ràng, nghiêm minh sẽ
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp yên tâm tiến hành sản xuất kinh doanh. Đặc
biệt là các đạo luật liên quan đến doanh nghiệp như luật thuế, bảo vệ môi trường,
những quy định về nhập khẩu của nhà nước đã đảm bảo cho sự công bằng giữa
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
các doanh nghiệp, ngăn chặn hành vi gian lận gây mất ổn định: Ví dụ như việc
chốn lậu thuế cũng làm ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.5.2.2 Các nhân tố vi mô
- Nhà cung cấp
Nhà cung cấp đối với doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, đảm bảo
cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành ổn định theo kế
hoạch đã định trước. Trên thực tế nhà cung cấp thường được phân thành ba loại
chủ yếu: loại cung cấp thiết bị, nguyên vật liệu; loại cung cấp nhân công; loại
cung cấp tiền và các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm. Như vậy mỗi doanh nghiệp
cùng một lúc có quan hệ với nhiều nguồn cung cấp thuộc cả ba loại trên. Vấn đề
đặt ra là yêu cầu của việc cung cấp phải đầy đủ về số lượng, kịp thời, đảm bảo về
chất lượng và ổn định về giá cả. Mỗi sự sai lệch trong quan hệ với nhà cung cấp
đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, điều đó sẽ làm giảm
sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để giảm tính độc quyền và sức ép từ phía các nhà cung cấp, các doanh
nghiệp phải biết tìm đến các nguồn lực tin cậy, ổn định và giá cả hợp lý với
phương châm là đa dạng hoá các nguồn cung cấp, thực hiện nguyên tắc “ không
bỏ tiền vào một ống “. Mặt khác trong quan hệ này doanh nghiệp nên tìm cho
mình một nhà cung cấp chính có đầy đủ sự tin cậy, nhưng phải luôn tránh sự lệ

thuộc, cần phải xây dựng kế hoạch cung ứng cho mình. Như vậy doanh nghiệp
cần phải thiết lập mối quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp để họ cung cấp đầy
đủ về số lượng.
- Khách hàng
Khách hàng là những người đang mua và sẽ mua hàng của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp khách hàng là yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất đối
với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tính chất quyết định của khách
hàng thể hiện ở các mặt sau:
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
Khách hàng là người mua sản phẩm của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp
tiêu thụ sản phẩm dịch vụ làm ra, trực tiếp ảnh hưởng đến doanh thu và lợi
nhuận của doanh nghiệp. Phải có khách hàng thì doanh nghiệp mới xoay vòng
được vốn kinh doanh, từ đó tái sản xuất và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh
của mình.
Bên cạnh đó sự yêu cầu của khách hàng cũng sẽ gây áp lực làm tụt giảm
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Điều này thể hiện ở chỗ nếu doanh
nghiệp không theo đuổi kịp những thay đổi trong nhu cầu của khách hàng thì họ
sẽ có xu hướng chuyển dịch sang sản phẩm của những doanh nghiệp khác mà
doanh nghiệp đó có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu của họ. Hiện tượng này dẫn đến
lượng khách hàng sẽ giảm đi và ngày một thưa dần nếu doanh nghiệp không kịp
thời đáp ứng nhu cầu của họ và như vậy sức cạnh tranh của sẽ giảm sút. Điều đó
chứng tỏ yếu tố khách hàng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự tồn tại, vận hành và
phát triển của doanh nghiệp.
- Các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn
Doanh nghiệp luôn phải đối phó với hàng loạt các đối thủ cạnh tranh. Vấn
đề quan trọng ở đây là không được coi thường bất kỳ đối thủ nào, nhưng cũng
không nên coi đối thủ là kẻ địch. Cách xử lý khôn ngoan nhất không phải là
hướng mũi nhọn vào đối thủ của mình mà ngược lại vừa phải xác định, điều
khiển và hoà giải, lại vừa phải hướng suy nghĩ và sự quan tâm của mình vào

khách hàng của đối thủ có nghĩa là doanh nghiệp đã thành công một phần trong
cạnh tranh. Mặt khác cũng nên quan tâm tới việc dự đoán trong tương lai và định
hướng tới khách hàng. Trên thực tế cho thấy cạnh tranh có thể diễn ra trên nhiều
mặt khác nhau nhưng có thể nói cạnh tranh với nhau chủ yếu là khách hàng. Để
có và giữ được khách hàng, doanh nghiệp cần phải tìm cách sản xuất ra những
sản phẩm có chất lượng tốt hơn, đẹp hơn và rẻ hơn, không những thế còn phải
chiều lòng khách hàng, lôi kéo khách hàng bằng các hoạt động quảng cáo
khuyến mại và tiếp thị.
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
Có thể nói rằng khi doanh nghiệp này với các doanh nghiệp khác mới bắt
đầu bước chân vào thị trường thì họ là những đồng nghiệp, những đối tác để gây
dựng thị trường, để hình thành nên một khu vực cung cấp hàng hoá và dịch vụ
cho khách hàng. Nhưng khi có những khách hàng đầu tiên bước vào khu vực thị
trường này thì họ sẽ trở thành đối thủ của nhau, họ tìm mọi cách để lôi kéo khách
hàng về phía mình
Trong những thời điểm và những giai đoạn khác nhau thường có những
đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủ yếu hơn rút ra khỏi
thị trường. Để chống lại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, các doanh nghiệp thường
thực hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm,
bổ sung những đặc điểm mới của sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện
sản phẩm của mình để có những đặc điểm khác biệt nổi trội hơn trên thị trường,
doanh nghiệp nên đề phòng và lường trước các đối tác kinh doanh, các bạn hàng,
bởi vì họ có thể trở thành những đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn.
Nếu ở trong một thị trường kinh doanh nhất định, doanh nghiệp vượt trội
lên so với các đối thủ về chất lượng sản phẩm, về giá cả và chất lượng phục vụ
thì doanh nghiệp đó có khả năng cạnh tranh và sẽ có điều kiện để tiến xa hơn so
với các đối thủ.
- Sự xuất hiện của các sản phẩm thay thế.
Những sản phẩm thay thế cũng là một trong các lực lượng tạo nên sức ép

cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp cùng nghành. Sự ra đời của sản phẩm
mới là một tất yếu nhằm đáp ứng biến động của nhu cầu của thị trường theo
hướng ngày càng đa dang, phong phú. Chính nó làm giảm khả năng cạnh tranh
của các sản phẩm bị thay thế. Các sản phẩm thay thế sẽ có ưu thế hơn và sẽ dần
thu hẹp thị trường của sản phẩm bị thay thế. Để khắc phục tình trạng thị trường
bị thu hẹp các doanh nghiệp phải luôn hướng tới những sản mới, nâng cao chất
lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã hay nói cách khác doanh nghiệp phải luôn
hướng tới khách hàng để tìm độ thoả dụng mới.
Doanh thu của doanh nghiệp
Tổng doanh thu toàn ngành
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
1.6 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ta có thể dựa vào
một số chỉ tiêu sau:
1.6.1 Thị phần
Doanh thu là số tiền mà doanh nghiệp thu được khi bán hàng hoá hoặc dịch
vụ. Bởi vậy mà doanh thu có thể được coi là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh.
Căn cứ vào chỉ tiêu doanh thu qua từng thời kỳ hoặc qua các năm ta có thể đánh
giá được kết quả hoạt động kinh doanh là tăng hay giảm, theo chiều hướng tốt
hay xấu. Nhưng để đánh giá được hoạt động kinh doanh đó có mang lại được
hiệu quả hay không ta phải xét đến những chi phí đã hình thành nên doanh thu
đó. Nếu doanh thu và chi phí của doanh nghiệp đều tăng lên qua các năm nhưng
tốc độ tăng của doanh thu lớn hơn tốc độ tăng của chi phí thì hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp được đánh giá là tốt, doanh nghiệp đã biết phân bổ và
sử dụng hợp lý yếu tố chi phí, bởi một phần chi phí tăng thêm đó được doanh
nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh, đầu tư mua sắm trang thiết bị và xây dựng
cơ sở hạ tầng…
Trên thực tế có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác, trong đó thị phần là

một chỉ tiêu thường hay được sử dụng. Thị phần được hiểu là phần thị trường mà
doanh nghiệp chiếm giữ trong tổng dung lượng thị trường. Do đó thị phần của
doanh nghiệp được xác định:
Thị phần của doanh nghiệp =
Chỉ tiêu này càng lớn nói lên sự chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp
càng rộng. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này ta có thể đánh giá mức độ
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hay không bởi nếu doanh nghiệp có một
mảng thị trường lớn thì chỉ số trên đạt mức cao nhất và ấn định cho doanh
nghiệp một vị trí ưu thế trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có một phạm vi thị
trường nhỏ hẹp thì chỉ số trên ở mức thấp, phản ánh tình trạng doanh nghiệp
đang bị chèn ép bởi các đối thủ cạnh tranh. Bằng chỉ tiêu thị phần doanh nghiệp
có thể đánh giá sơ bộ khả năng chiếm lĩnh thị trường so với toàn ngành.
Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ
ta dùng chỉ tiêu thị phần tương đối: đó là tỷ lệ so sánh về doanh thu của công ty
so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất để từ đó có thể biết được những mặt mạnh
hay những điểm còn hạn chế so với đối thủ. Ưu điểm của chỉ tiêu này là đơn
giản, dễ hiểu nhưng nhược điểm của nó là khó nắm bắt được chính xác số liệu cụ
thể và sát thực của đối thủ.
1.6.2 Năng suất lao động
Năng suất lao động là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất
kinh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi thông qua năng suất lao
động ta có thể đánh giá được trình độ quản lý, trình độ lao động và trình độ
công nghệ của doanh nghiệp.
1.6.3 Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận là một phần dôi ra của doanh thu sau khi đã trừ đi các chi phí
dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận được coi là một chỉ tiêu tổng
hợp đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì nếu doanh nghiệp thu
được lợi nhuận cao chắc chắn doanh nghiệp có doanh thu cao và chi phí thấp.

Căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận các doanh nghiệp có thể đánh giá được khả năng
cạnh tranh của mình so với đối thủ. Nếu lợi nhuận cao thì khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp cao và được đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
rất khả quan.
Nếu xét về tỷ suất lợi nhuận:
Trần Phương Tôn CQ
47/31.01
Tỷ suất lợi nhuận =
Chỉ tiêu này cho thấy nếu có một đồng doanh thu thì sẽ thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu này thấp tức là tốc độ tăng của lợi nhuận nhỏ hơn
tốc độ tăng của doanh thu, chứng tỏ sức cạnh tranh của doanh nghiệp thấp, hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả cao. Và có thể có quá nhiều
đối thủ thâm nhập vào thị trường của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp phải
không ngừng mở rộng thị trường để nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm mục
đích nâng cao lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu này cao tức là tốc độ tăng lợi nhuận lớn
hơn tốc độ tăng của doanh thu. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được
đánh giá là có hiệu quả. Điều này chứng tỏ khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp cao. Doanh nghiệp cần phát huy lợi thế của mình một cách tối đa và
không ngừng đề phòng đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn thâm nhập vào thị trường của
doanh nghiệp bất cứ lúc nào do sức hút lợi nhuận cao.
Ngoại trừ các chỉ tiêu có thể đo lường được, khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp còn được biểu hiện qua một số các chỉ tiêu định tính như
1.6.4 Uy tín của doanh nghiệp
Uy tín của doanh nghiệp là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh
giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có uy tín sẽ có
nhiều bạn hàng, nhiều đối tác làm ăn và nhất là có một lượng khách hàng rất lớn.
Mục tiêu của các doanh nghiệp là doanh thu, thị phần và lợi nhuận Nhưng để
đạt được các mục tiêu đó doanh nghiệp phải tạo được uy tín của mình trên thị
trường, phải tạo được vị thế của mình trong con mắt của khách hàng. Cơ sở, tiền
đề để tạo được uy tín của doanh nghiệp đó là doanh nghiệp phải có một nguồn

vốn đảm bảo để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh, có một hệ thống máy
móc, cơ sở hạ tầng đáp ứng đầy đủ yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Yếu tố
quan trọng nhất để tạo nên uy tín của doanh nghiệp đó là “con người trong doanh
Tổng lợi nhuận
Tổng doanh thu

×