Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

g cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại công ty cổ phần đầu tư xây dựng Constrexim

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.41 MB, 73 trang )

1

1. 
 TRONG 

1.1. Tng quan v tài sn ngn hn trong doanh nghip
1.1.1. Khái niệm tài sản ngắn hạn
Tài sản là khái niệm gọi chung cho các của cải, vật chất được dùng vào mục
đích sản suất của doanh nghiệp nhằm đáp ứng mục tiêu quan trọng nhất đó là tối đa
hóa giá trị tài sản thuộc chủ sở hữu. Tài sản bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài
hạn, mỗi loại tài sản chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu tài chính của doanh
nghiệp. Tài sản dài hạn có đặc điểm là tốc độ thu hồi vốn chậm, khi kết thúc thời hạn
tính khấu hao thì thu hồi toàn bộ vốn đầu tư. Theo Hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá
Việt Nam – Tiêu chuẩn số 12 – Phân loại tài sản, tài sản dài hạn có thời gian sử dụng
dài hơn 1 năm và giá trị hơn 30 triệu đồng, còn lại là tài sản ngắn hạn.
“Tài sản ngắn hạn (TSNH) là những tài sản thuộc quyền sở hữu và quản lý của
doanh nghiệp, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi vốn trong một chu kỳ kinh
doanh hoặc trong một năm. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, tài sản
ngắn hạn được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản cao,
các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, khoản phải thu, dự trữ tồn kho và các tài sản
ngắn hạn khác. Giá trị các loại TSNH của doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất thường
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của chúng. Quản lý sử dụng hợp lý các
loại TSNH có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của
doanh nghiệp”. (Lưu Thị Hương (2013), “Giáo trình tài chính doanh nghiệp”, Nhà
xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, trang 214-215).
1.1.2. Đặc điểm của tài sản ngắn hạn
Thứ nhất, tài sản ngắn hạn thường luân chuyển trong một năm hoặc một chu kỳ
kinh doanh. Tài sản ngắn hạn như tiền mặt, hàng tồn kho thường được sử dụng trong
một chu kỳ kinh doanh, phân biệt với tài sản dài hạn như thiết bị, máy móc, nhà xưởng
thường được sử dụng trong nhiều năm và trích khấu hao.
Thứ hai, tài sản ngắn hạn biểu hiện dưới các hình thái khác nhau như: tiền và


các tài sản tương đương tiền, khoản phải thu khách hàng, hàng tồn kho và các tài sản
ngắn hạn khác. Các khoản mục này tương ứng với các mục đích chuyên biệt khác nhau
của tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp: tiền và các tài sản tương đương tiền hay
chứng khoán khả thị đảm bảo khả năng thanh toán cho doanh nghiệp, hàng tồn kho
được sử dụng trong khâu sản xuất kinh doanh, các khoản phải thu khách hàng dùng để
ghi nhận các khoản tín dụng thương mại.
Thứ ba, tài sản ngắn hạn thường thay đổi hình thái vật chất ban đầu để tạo thành
thực thể của sản phẩm. Đặc điểm này là điển hình của doanh nghiệp sản xuất kinh
Thang Long University Library
2

doanh, hàng tồn kho dùng cho mục đích sản xuất thường trải qua một quá trình biến
đổi thành thành phẩm, hàng hóa hoàn chỉnh để xuất bán ra thị trường.
Thứ tư, tài sản ngắn hạn có giá trị luân chuyển toàn bộ một lần và giá thành sản
phẩm làm ra. Điều này có nghĩa là mọi chi phí phát sinh trong quá trình biến đổi tài
sản ngắn hạn thành thành phẩm đã được tính vào giá thành của sản phẩm trước khi đưa
ra thị trường. (Lưu Thị Hương (2013), “Giáo trình tài chính doanh nghiệp”, Nhà xuất
bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, trang 216-217).
1.1.3. Phân loại tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.1.3.1. Phân loại theo khả năng chuyển đổi và đặc điểm kinh tế của bộ phận cấu
thành tài sản ngắn hạn
Trong quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, dựa trên khả năng chuyển
đổi và đặc điểm kinh tế của các bộ phận cấu thành nên tài sản ngắn hạn, người ta có
thể phân loại tài sản ngắn hạn như sau:
  
Tiền và các khoản tương đương tiền là một bộ phận của vốn sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp thuộc tài sản ngắn hạn được hình thành chủ yếu trong quá
trình bán hàng và trong các mối quan hệ thanh toán. Tiền và các khoản tương đương
tiền bao gồm tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển (kể cả ngoại tệ),
vàng bạc đá quý, kim khí quý. (Ngô Thế Chi, Trương Thị Thuỷ (2010), “Giáo trình kế

toán tài chính”, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, trang 33).
Tiền mặt là số vốn bằng tiền do thủ quỹ bảo quản tại quỹ (két) của doanh
nghiệp bao gồm: Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý, kim khí quý, tín phiếu và
ngân phiếu. Tiền gửi là số tiền mà doanh nghiệp gửi tại các ngân hàng, kho bạc nhà
nước hoặc các công ty tài chính bao gồm Tiền Việt Nam, các loại ngoại tệ, vàng bạc
đá quý, Tiền đang chuyển là khoản tiền mặt, tiền séc đã xuất khỏi quỹ của doanh
nghiệp đã nộp vào Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, đã gửi vào Bưu điện để trả cho các
đơn vị khác nhưng chưa nhận được giấy báo của Ngân hàng. (Ngô Thế Chi, Trương
Thị Thuỷ (2010), “Giáo trình kế toán tài chính”, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội,
trang 33-45).
 
Đầu tư tài chính là một hoạt động đầu tư ra ngoài doanh nghiệp nhằm mục đích
sử dụng hợp lý các nguồn vốn để tăng thu nhập và nâng cao hiệu quả hoạt động cho
doanh nghiệp như: Mua bán chứng khoán, góp vốn liên doanh, cho vay lấy lãi, kinh
doanh bất động sản, cho thuê tài sản, Tùy theo thời hạn thu hồi vốn mà các khoản
đầu tư tài chính được chia thành 2 loại: Đầu tư tài chính ngắn hạn và đầu tư tài chính
dài hạn.
3

Đầu tư tài chính ngắn hạn là việc doanh nghiệp đem tài sản vật tư, tiền vốn để
mua chứng khoán, góp vốn liên doanh, nhằm mục đích thu lợi nhuận cao hơn với thời
hạn thu hồi vốn đầu tư không quá một năm.
Trong khoản mục đầu tư tài chính ngắn hạn bao gồm 3 khoản mục nhỏ là đầu tư
chứng khoán ngắn hạn, đầu tư ngắn hạn khác và dự phòng giảm giá các khoản đầu tư.
Chứng khoán là công cụ và cũng là hàng hóa trong thị trường tài chính thực hiện chức
năng dẫn vốn từ người có vốn để dành tới những người thiếu vốn nhưng có cơ hội kinh
doanh. Chứng khoán ngắn hạn là các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu
kho bạc, kỳ phiếu Ngân hàng) có thể thu hồi trong vòng 1 năm. Đầu tư ngắn hạn khác
là những khoản đầu tư tài chính ngoài các khoản đầu tư chứng khoán: Cho vay lấy lãi,
tiền gửi có kỳ hạn, Dự phòng giảm giá các khoản đầu tư là việc tính trước vào chi

phí hoạt động tài chính phần giá trị có thể bị giảm xuống thấp hơn trong tương lai của
các hoạt động đầu tư và phản ánh giá trị thuần của hoạt động đầu tư trên Báo cáo tài
chính. (Ngô Thế Chi, Trương Thị Thuỷ (2010), “Giáo trình kế toán tài chính”, Nhà
xuất bản Tài chính, Hà Nội, trang 46).
 
Các khoản phải thu là khoản nợ của cá nhân, tổ chức đơn vị bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp về số tiền mua sản phẩm, hàng hóa, vật tư và các dịch vụ khác
chưa thanh toán cho doanh nghiệp. Các khoản phải thu là một tài sản rất quan trọng
của doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty kinh doanh thương mại, mua bán hàng hoá.
Hoạt động mua bán chịu giữa các bên, phát sinh các khoản tín dụng thương mại. Thực
ra, các khoản phải thu gồm nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của quan hệ
mua bán, quan hệ hợp đồng. Các khoản phải thu bao gồm: Phải thu khách hàng, phải
thu nội bộ, các khoản tiền tạm ứng, các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ và các khoản
phải thu khác. (Ngô Thế Chi, Trương Thị Thuỷ (2010), “Giáo trình kế toán tài chính”,
Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, trang 54).
 Hàng 
Định nghĩa hàng tồn kho theo chuẩn mực số 2 trong chuẩn mực kế toán Việt
Nam (VAS) đã nêu rõ, hàng tồn kho là những tài sản:
 Được giữ lại để bán trong kỳ sản xuất, kinh doanh bình thường;
 Đang trong quá trình sản xuất, kinh doanh bình thường;
 Nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ để sử dụng trong quá trình sản xuất,
kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ.
Hàng tồn kho bao gồm:
 Nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng cụ tồn kho, đã mua đang đi trên đường
hoặc gửi đi gia công chế biến.
Thang Long University Library
4

 Hàng hoá mua để bán: hàng hoá tồn kho, hàng mua đang đi trên đường, hàng
gửi đi gia công, chế biến, hàng gửi bán;

 Hàng hoá thành phẩm: thành phẩm tồn kho và thành phẩm gửi bán;
 Sản phẩm dở dang: sản phẩm chưa hoàn thành hoặc sản phẩm hoàn thành
nhưng chưa làm thủ tục nhập kho;
 Chi phí dịch vụ dở dang.
Tất cả những thứ này được coi là hàng tồn kho và chiếm một phần lớn trong tỷ
lệ tài sản kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì doanh thu từ hàng tồn kho là một trong
những nguồn cơ bản tạo ra doanh thu và những khoản thu nhập thêm sau này cho
doanh nghiệp. Đó là những tài sản đã sẵn sàng để đem ra bán hoặc sẽ được đem ra
bán.
1.1.3.2. Phân loại theo vai trò của tài sản ngắn hạn
Căn cứ vào vai trò của tài sản ngắn hạn thì tài sản ngắn hạn được chia là 3 loại:
  tro
Tài sản ngắn hạn trong khâu dự trữ bao gồm:
 Nguyên vật liệu chính hay bán thành phẩm mua ngoài: là những loại nguyên
vật liệu khi tham gia vào sản xuất chúng cấu tạo nên thực thể sản phẩm.
 Nguyên vật liệu phụ: là những loại vật liệu giúp cho việc hình thành sản
phẩm làm cho sản phẩm bền hơn đẹp hơn.
 Nhiên liệu: là những loại dự trữ cho sản xuất có tác dụng cung cấp nhiệt
lượng cho quá trình sản xuất như than, củi, xăng dầu
 Phụ tùng thay thế: là giá trị của những chi tiết, phụ tùng, linh kiện máy móc
thiết bị dự trữ phục vụ cho việc sửa chữa hoặc thay thế những bộ phận của máy móc
thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải
 Vật liệu đóng gói: là những vật liệu dùng để đóng gói trong quá trình sản
xuất như bao ni lông, giấy, hộp
 Công cụ lao động nhỏ có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh
và giữ nguyên hình thái vật chất nhưng giá trị nhỏ không đủ tiêu chuẩn tài sản cố định.
  
Tài sản ngắn hạn trong khâu sản xuất bao gồm:
 Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang (bán thành phẩm) là giá trị khối lượng
sản phẩm đang còn trong quá trình chế tạo, đang nằm trên dây chuyền công nghệ, đã

kết thúc một vài quy trình chế biến nhưng còn phải chế biến tiếp mới trở thành thành
phẩm.
 Chi phí trả trước: là những chi phí thực tế đã chi ra trong kỳ, nhưng chi phí
này tương đối lớn nên phải phân bổ dần vào giá thành sản phẩm nhằm đảm bảo cho
5

giá thành ổn định như: chi phí sửa chữa lớn, nghiên cứu chế thử sản phẩm, tiền lương
công nhân nghỉ phép, công cụ xuất dùng
  
Tài sản ngắn hạn trong khâu lưu thông bao gồm:
 Thành phẩm gồm những thành phẩm sản xuất xong nhập kho được dự trữ
cho quá trình tiêu thụ.
 Hàng hoá là những hàng hoá phải mua từ bên ngoài (đối với đơn vị kinh
doanh thương mại).
 Hàng gửi bán là giá trị của hàng hoá, thành phẩm đơn vị đã xuất gửi cho
khách hàng mà chưa được khách hàng chấp nhận.
 Tiền và các khoản tương đương tiền gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền
đang chuyển.
 Những khoản phải thu tạm ứng phát sinh trong quá trình bán hàng hoặc
thanh toán nội bộ.
 Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn là giá trị các loại chứng khoán ngắn
hạn. (Thư viện Học mở Việt Nam (2004), “Tài sản ngắn hạn”, www.voer.edu.vn)
1.1.4. Vai trò của tài sản ngắn hạn
Thứ nhất, tài sản ngắn hạn đóng vai trò rất quan trọng trong sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp có
thể kinh doanh, sản xuất thuận lợi. Giá trị các loại tài sản ngắn hạn của các doanh
nghiệp kinh doanh sản xuất thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản. Chúng
ta có thể thấy rằng các loại tài sản ngắn hạn chiếm một phần khá lớn trong tổng tài sản
của doanh nghiệp. Do đó, bất cứ sự thay đổi nào của khoản mục này cũng ảnh hưởng
đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. (Nguyễn Hải Sản (2013), “Quản

trị tài chính doanh nghiệp”, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, trang 367).
Doanh nghiệp cần dự trữ tài sản ngắn hạn để đáp ứng cho các chi phí giao dịch,
chi phí giao dịch bao gồm phí dịch vụ cho việc mua bán chứng khoán, các khoản lỗ
tiềm tàng do phải bán gấp các tài sản trong khi có thể kiếm lời nhiều hơn nếu có thêm
thời gian. Cụ thể doanh nghiệp luôn phải dự trữ một lượng tiền hoặc chứng khoán khả
thị đủ để đảm bảo khả năng thanh toán, đây cũng là loại tài sản có tính thanh khoản
cao, có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt nhanh chóng với chi phí thấp đáp ứng cho
các mục tiêu ngắn hạn.
Thứ hai, tài sản ngắn hạn còn hỗ trợ thanh toán cho các giao dịch có độ trễ về
thời gian. Điều này xuất hiện trong quá trình sản xuất, marketing và thu tiền. Do các
giao dịch diễn ra không đồng thời, nhiều hoạt động tác động đến nhu cầu vốn lưu động
như lưu trữ hàng tồn kho, áp dụng các chính sách hỗ trợ bán hàng, chiết khấu thanh
toán để khuyến khích khách hàng thanh toán sớm, giảm thời gian chuyển tiền khi thu
Thang Long University Library
6

hồi nợ. Ví dụ trong trường hợp khách hàng thanh toán chậm tiền hàng, công ty sẽ ghi
nhận thành khoản phải thu, sau một thời gian theo cam kết giữa hai bên, khách hàng
thanh toán tiền nợ. Lúc này, số tiền hàng đã có độ trễ bằng với thời gian khách hàng
nợ công ty và được đảm bảo bằng khoản nợ được ghi nhận vào tài khoản phải thu
khách hàng của doanh nghiệp.
Một vai trò nữa của tài sản ngắn hạn là trong các trường hợp cần phải chi trả
các chi phí liên quan đến pháp luật như chi phí thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng, phí
môn bài, hay chi phí gián tiếp như chi phí nguyên vật liệu phụ, chi phí công phụ, chi
phí quảng cáo, Những chi phí này rất lớn nên nhà quản lý thường xem chúng như
những áp lực tài chính và có xu hướng dự trữ một lượng lớn tài sản có tính thanh
khoản cao để đảm bảo khả năng thanh toán kể cả khi việc này đem lại ít lợi nhuận hơn
so với đầu tư tài sản dài hạn. Chính vì vậy, chính sách quản lý tài sản đối với doanh
nghiệp hết sức quan trọng.
1.2. Hiu qu s dng tài sn ngn hn trong doanh nghip

1.2.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu quả là một khái niệm luôn được đề cập trong nền kinh tế thị trường các
doanh nghiệp luôn hướng tới hiệu quả kinh tế chính phủ nỗ lực đạt hiệu quả kinh tế -
xã hội. Theo nghĩa chung nhất, hiệu quả là một khái niệm phản ánh trình độ sử dụng
các yếu tố cần thiết để tham gia vào một hoạt động nào đó với những mục đích xác
định do con người đặt ra.
Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là một phạm trù kinh tế đánh giá trình độ sử
dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp đó đạt kết quả cao nhất. Có thể đánh giá hiệu
quả sử dụng tài sản ngắn hạn nói chung bằng chỉ tiêu:
H
=
K
C
Hoặc H = K - C
Trong đó: K – Kết quả đạt được
C – Chi phí nguồn lực cần thiết để gắn với kết quả đó
H – Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn (Nguyễn Hải Sản (2013),
“Quản trị tài chính doanh nghiệp”, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, trang 200).
Trình độ sử dụng tài sản ngắn hạn được thể hiện ở viêc doanh nghiệp sử dụng
tài sản ngắn hạn như thế nào trong các quá trình dự trữ, sản xuất và lưu thông. Cụ thể,
quá trình vận động của tài sản ngắn hạn bắt đầu từ việc dùng tiền tệ mua sắm vật tư dự
trữ cho sản xuất, tiến hành sản xuất và khi sản xuất xong doanh nghiệp tổ chức tiêu thụ
để thu về một số vốn dưới hình thái tiền tệ ban đầu với giá trị tăng thêm. Mỗi lần vận
động như vậy được gọi là một vòng luân chuyển của tài sản ngắn hạn. Doanh nghiệp
sử dụng vốn đó càng có hiệu quả bao nhiêu thì càng có thể sản xuất và tiêu thụ sản
7

phẩm nhiều bấy nhiêu. Với lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng
hợp lý, hiệu quả hơn từng đồng tài sản ngắn hạn, làm cho mỗi đồng tài sản ngắn hạn
hàng năm có thể mua sắm nguyên, nhiên vật liệu nhiều hơn, sản xuất ra sản phẩm và

tiêu thụ được nhiều hơn. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp nâng
cao tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn (số vòng quay tài sản ngắn hạn trong một
năm).
Tóm lại, Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là một phạm trù kinh tế, phản ánh
tình hình sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao nhất trong
kinh doanh với chi phí thấp nhất [7, tr.199]
1.2.2. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Quá trình hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp là quá trình hình thành
và sử dụng vốn kinh doanh. Ngày nay các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế
thị trường yêu cầu về tài sản ngắn hạn là rất lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh
doanh – nơi có tỷ lệ tài sản ngắn hạn thường chiếm khoảng 50% - 60% tổng tài sản
của doanh nghiệp, bởi lẽ là một doanh nghiệp kinh doanh thương mại, việc dự trữ
hàng hóa là một việc vô cùng cần thiết, giúp doanh nghiệp cung ứng kịp thời hàng hóa
khi có nhu cầu. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, tài sản ngắn hạn chính là lượng
nguyên vật liệu, thành phẩm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó, có thể
coi tài sản ngắn hạn là nhựa sống tuần hoàn trong doanh nghiệp.
Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh của một doanh
nghiệp, người ta sử dụng thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai góc độ là hiệu quả kinh tế và hiệu
quả xã hội. Vì thế, việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là yêu cầu mang
tính bắt buộc và thường xuyên đối với doanh nghiệp.
1.2.2.1. Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động với mục tiêu xuyên
suốt là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Để đảm bảo mục tiêu này, doanh nghiệp thường
xuyên phải đưa ra và giải quyết tập hợp các quyết định tài chính dài hạn và ngắn hạn.
Quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản ngắn hạn là một nội dung trọng tâm trong các
quyết định tài chính ngắn hạn và là nội dung có ảnh hưởng lớn đến mục tiêu tối đa hóa
giá trị doanh nghiệp. Các quyết định tài chính liên quan đến tài sản ngắn hạn chủ yếu
là các quyết định về đầu tư. Quyết định đầu tư là những quyết định liên quan đến tổng
giá trị tài sản và giá trị từng bộ phận tài sản (tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn). Quyết

định đầu tư chủ yếu của doanh nghiệp liên quan đến tài sản ngắn hạn bao gồm: quyết
định tồn quỹ, quyết định tồn kho, quyết định chính sách bán hàng, quyết định đầu tư
tài chính ngắn hạn… Quyết định quan hệ cơ cấu giữa đầu tư tài sản ngắn hạn như:
quyết định sử dụng đòn bẩy hoạt động, quyết định điểm hoà vốn.
Thang Long University Library
8

Quyết định đầu tư được xem là quyết định quan trọng nhất trong các quyết định
của tài chính doanh nghiệp bởi nó tạo ra giá trị cho doanh nghiệp. Một quyết định đầu
tư đúng sẽ góp phần làm tăng giá trị doanh nghiệp, qua đó làm gia tăng giá trị tài sản
cho chủ sở hữu, ngược lại một quyết định đầu tư sai sẽ làm tổn thất giá trị doanh
nghiệp dẫn tới thiệt hại tài sản cho chủ sở hữu doanh nghiệp.
Xuất phát từ vai trò to lớn đó khiến cho yêu cầu doanh nghiệp phải nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn nói chung và tài sản ngắn hạn nói riêng là một yêu cầu khách
quan, gắn liền với bản chất của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Xuất phát từ vai trò quan trọng của tài sản ngắn hạn
Đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường: Một doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường, muốn hoạt động kinh doanh thì cần phải có vốn. Tài sản ngắn hạn là
một thành phần quan trọng trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong khâu dự trữ và sản xuất, tài sản ngắn hạn đảm bảo cho sản xuất của
doanh nghiệp được tiến hành liên tục, đảm bảo quy trình công nghệ, công đoạn sản
xuất, đặc biệt trong các doanh nghiệp sản xuất. Trong lưu thông, tài sản ngắn hạn đảm
bảo dự trữ thành phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ được liên tục, nhịp nhàng và đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng. Thời gian luân chuyển tài sản ngắn hạn lớn khiến cho
công việc quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn luôn luôn diễn ra thường xuyên, hàng
ngày. Với vai trò to lớn như vậy, việc tăng tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn, nâng
cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp là một yêu cầu tất yếu.
1.2.2.3. Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tức là có thể tăng tốc độ luân
chuyển tài sản ngắn hạn, rút ngắn thời gian tài sản ngắn hạn nằm trong lĩnh vực dự trữ,

sản xuất và lưu thông, từ đó giảm bớt số lượng tài sản ngắn hạn chiếm dụng, tiết kiệm
tài sản ngắn hạn trong luân chuyển.
Tăng tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn cũng có ảnh hưởng tích cực đối với
việc hạ thấp giá thành sản phẩm, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đủ vốn thỏa mãn
nhu cầu sản xuất và hoàn thành nghĩa vụ nộp các khoản thuế cho ngân sách Nhà nước,
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong cả nước.
1.2.2.4. Xuất phát từ thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại các doanh
nghiệp
Trên thực tế, có rất nhiều nguyên nhân khiến một doanh nghiệp làm ăn thiếu
hiệu quả thậm chí thất bại trên thương trường. Nguyên nhân chủ yếu là do việc sử
dụng tài sản ngắn hạn không hiệu quả trong việc mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm. Điều này dẫn đến việc sử dụng lãng phí tài sản lưu động, tốc độ luân
chuyển tài sản ngắn hạn thấp, mức sinh lợi kém và thậm chí có doanh nghiệp còn gây
9

thất thoát không kiểm soát được tài sản lưu động dẫn đến mất khả năng tổ chức sản
xuất kinh doanh, khả năng thanh toán.
Trong hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp Nhà nước do
đặc thù chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế bao cấp trước đây, có kết quả sản xuất kinh
doanh yếu kém mà một nguyên nhân chủ yếu là do sự yếu kém trong quản lý tài chính
nói chung và quản lý tài sản ngắn hạn nói riêng gây lãng phí, thất thoát vốn. Do đó, để
hoàn thành đường lối xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa với thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, yêu cầu phải nâng cao
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và của các doanh nghiệp Nhà
nước nói riêng. Xét từ góc độ quản lý tài chính, yêu cầu cần phải nâng cao năng lực
quản lý tài chính, trong đó chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là
một nội dung quan trọng không chỉ đảm bảo lợi ích riêng doanh nghiệp mà còn có ý
nghĩa chung đối với nền kinh tế quốc dân. Điều này đã được bàn luận hết sức sôi nổi
tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII bàn về Luật đầu tư vốn Nhà nước cho hoạt động
sản xuất kinh doanh.

( Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư, www.mpi.gov.vn)
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.2.3.1. Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Tình hình hay tình trạng tài chính của một doanh nghiệp thể hiện khá rõ nét qua
khả năng thanh toán. Một doanh nghiệp có tình trạng tài chính tốt, lành mạnh chứng tỏ
hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả, doanh nghiệp không những có đủ mà còn có
thừa khả năng thanh toán. Ngược lại, nếu doanh nghiệp ở trong tình trạng tài chính
xấu, chứng tỏ hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, doanh nghiệp không đảm bảo khả
năng thanh toán các khoản nợ, uy tín của doanh nghiệp thấp. Thực tế cho thấy, nếu
khả năng thanh toán của doanh nghiệp không đảm bảo, chắc chắn doanh nghiệp sẽ gặp
nhiều khó khăn trong hoạt động, thậm chí doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng phá sản.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp thể hiện trên nhiều mặt khác nhau như:
khả năng thanh toán ngắn hạn, khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán tức
thời. Một doanh nghiệp được xem là đảm bảo khả năng thanh toán khi và chỉ khi
doanh nghiệp bảo đảm đáp ứng được đầy đủ các mặt khác nhau của khả năng thanh
toán.
Bởi thế, để đánh giá khái quát khả năng thanh toán của doanh nghiệp, các nhà
phân tích thường sử dụng các chỉ, “Hệ số thanh toán ngắn hạn”, “Hệ số thanh toán
nhanh”, “Hệ số thanh toán tức thời” và “Hệ số thanh toán lãi vay”.
 Khả năng thanh toán ngắn hạn




Thang Long University Library
10

Đây là tỷ số được tính bằng cách chia giá trị tài sản ngắn hạn cho giá trị nợ
ngắn hạn. Tài sản ngắn hạn thường bao gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển nhượng,
các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản

vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các
khoản phải trả khác Cả tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định tới
một năm. Tỷ lệ khả năng thanh toán chung là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn
của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được
trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương ứng với
thời hạn của các khoản nợ đó. Tỷ lệ này có giá trị càng cao (>1) thì khả năng thanh
toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng tốt và ngược lại. Nếu khả năng thanh toán
hiện hành nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy
nhiên, nếu con số này quá cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài
sản lưu động so với nhu cầu. Thông thường thì phần vượt trội đó sẽ không sinh thêm
lợi nhuận. Vì thế mà việc đầu tư đó sẽ kém hiệu quả. Vấn đề này đòi hỏi nhà doanh
nghiệp phải phân bổ vốn như thế nào cho hợp lý.
 Khả năng thanh toán nhanh




Một tỷ lệ thanh toán hiện hành cao chưa phản ánh chính xác việc doanh nghiệp
có thể đáp ứng nhanh chóng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn với chi
phí thấp hay không vì nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của các khoản mục trong
tài sản lưu động và kết cấu của các khoản mục này. Vì vậy, chúng ta cần phải xét đến
hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Ở đây giá trị hàng tồn kho bị loại ra vì trong
tài sản lưu động, hàng tồn kho được coi là loại tài sản lưu động có tính thanh khoản
thấp hơn.
Về mặt lý thuyết, khi trị số của chỉ tiêu “Hệ số thanh toán nhanh” ≥ 1, doanh
nghiệp đảm bảo và thừa khả năng thanh toán và ngược lại, khi trị số của chỉ tiêu < 1,
doanh nghiệp không đảm bảo khả năng thanh toán nhanh.
(Nguyễn Năng Phúc (2011), “Giáo trình phân tích báo cáo tài chính”, Nhà xuất bản
Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, trang 184-185).
 Khả năng thanh toán tức thời (Hệ số thanh toán bằng tiền)





Hệ số thanh toán bằng tiền được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh
cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng
chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn. Do vậy, tỷ lệ khả năng
thanh toán tức thời cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn bằng tiền và các
11

chứng khoán ngắn hạn. Nói chung tỷ lệ này thường biến động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên,
cũng giống như trường hợp của hệ số thanh toán ngắn hạn để kết luận giá trị của hệ số
thanh toán tức thời là tốt hay xấu cần xét đến đặc điểm và điều kiện kinh doanh của
doanh nghiệp. Nếu hệ số này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc
thanh toán nợ.
(Nguyễn Năng Phúc (2011), “Giáo trình phân tích báo cáo tài chính”, Nhà xuất bản
Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, trang 185).
1.2.3.2. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn chung
Trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp các hệ thống chỉ tiêu tài chính
được đưa ra để đánh giá các hoạt động của doanh nghiệp trong một niên độ kế toán là
không thể thiếu. Qua quá trình phân tích hệ thống chỉ tiêu này thì doanh nghiệp có thể
đánh giá hiệu quả hoạt động của mình và đưa ra các giải pháp cần thiết để khắc phục
khó khăn trong niên độ tiếp theo. Để đánh giá khách quan hiệu quả sử dụng tài sản
ngắn hạn chúng ta có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau như sau:
- Số vòng luân chuyển của tài sản ngắn hạn (Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn)




Tài sản ngắn hạn được lấy từ chỉ tiêu mã số 100 trong Bảng cân đối kế toán,

tổng số luân chuyển thuần bao gồm doanh thu thuần, doanh thuần, doanh thu tài chính
và thu nhập khác được lấy từ chỉ tiêu mã số 10, 21, 31 trên Bảng kết quả hoạt động
kinh doanh. Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ tài sản ngắn hạn quay được bao nhiêu vòng.
Chỉ tiêu này thể hiện sự vận động của tài sản ngắn hạn trong kỳ, chỉ tiêu này càng cao
chứng tỏ tài sản ngắn hạn vận động càng nhanh, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
cao, từ đó góp phần tạo ra doanh thu thuần càng cao và là cơ sở để tăng lợi nhuận của
doanh nghiệp.
- Suất hao phí của tài sản ngắn hạn so với doanh thu
Chỉ tiêu này cho biết để có một đồng doanh thu thì doanh nghiệp phải bỏ ra bao
nhiêu đồng tài sản ngắn hạn, đó chính là căn cứ để để đầu tư tài sản ngắn hạn cho thích
hợp, chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao.




- Suất hao phí của tài sản ngắn hạn so với lợi nhuận sau thuế
Chỉ tiêu này cho biết để có một đồng lợi nhuận sau thuế thì cần bao nhiêu đồng
tài sản ngắn hạn bình quân, chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản
ngắn hạn càng cao, chỉ tiêu này là căn cứ để các doanh nghiệp dự toán nhu cầu về tài
sản ngắn hạn khi muốn có mức độ lợi nhuận mong muốn.
Thang Long University Library
12





- Tỷ suất sinh lời của tài sản ngắn hạn (ROCA – Return on Current Assets)
Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị tài sản ngắn hạn có trong kỳ đem lại bao nhiêu
đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tốt,

góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Ngược lại, nếu tỷ
suất sinh lời của tài sản ngắn hạn giảm và thấp cho thấy khả năng tạo ra lợi nhuận sau
thuế của tài sản ngắn hạn giảm.
   



- Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn thông qua mô hình Dupont
Dupont là tên của một nhà quản trị tài chính người Pháp tham gia kinh doanh ở
Mỹ. Dupont đã chỉ ra được mối quan hệ tương hỗ giữa các chỉ số hoạt động trên
phương diện chi phí và các chỉ số hiệu quả sử dụng vốn.
Mô hình Dupont là kỹ thuật được sử dụng để phân tích khả năng sinh lời của
một doanh nghiệp bằng các công cụ quản lý hiệu quả truyền thống. Mô hình Dupont
tích hợp nhiều yếu tố của báo cáo kết quả kinh doanh và bảng cân đối kế toán. Trong
phân tích tài chính, người ta vận dụng mô hình Dupont để phân tích mối liên hệ giữa
các chỉ tiêu tài chính. Chính nhờ sự phân tích mối liên kết giữa các chỉ tiêu tài chính,
chúng ta có thể phát hiện ra những nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích theo một
trình tự nhất định.
Để phân tích tỷ suất sinh lời của tài sản ngắn hạn có thể xác định thông qua mô
hình sau:
   
Trong đó:




Qua công thức trên có thể thấy 2 nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời trên tài
sản ngắn hạn là tỷ suất sinh lời trên doanh thu và số vòng luân chuyển tài sản ngắn
hạn.
Thứ nhất là hiệu suất sử dụng số vòng luân chuyển của tài sản ngắn hạn càng

cao chứng tỏ sức sản xuất của các tài sản ngắn hạn càng nhanh, đó là nhân tố tăng sức
sinh lời của tài sản ngắn hạn, cụ thể hơn số vòng luân chuyển của tài sản ngắn hạn lại
bị ảnh hưởng bởi hai nhân tố là tổng số luân chuyển thuần và tài sản ngắn hạn. Nếu
tổng số luân chuyển thuần lớn và tài sản ngắn hạn nhỏ thì số vòng quay lớn. Tuy nhiên
trong thực tế hai chỉ tiêu này thường có mối quan hệ cùng chiều, khi tài sản ngắn hạn
tăng thì tổng số luân chuyển thuần cũng tăng ví dụ như khi doanh nghiệp nới lỏng hơn
13

chính sách tín dụng thương mại, dẫn đến khoản phải thu khách hàng tăng, hàng tồn
kho tăng và doanh thu thuần cũng tăng lên…. Trên cơ sở đó, nếu doanh nghiệp muốn
tăng vòng luân chuyển của tài sản ngắn hạn thì cần phân tích các nhân tố liên quan,
phát hiện những mặt tích cực và tiêu cực của từng nhân tố để có biện pháp nâng cao số
vòng quay của tài sản ngắn hạn thích hợp.
Thứ hai là, tỷ suất sinh lời trên doanh thu càng cao thì sức sinh lời của tài sản
ngắn hạn càng tăng. Tuy nhiên có thể thấy rằng sức sinh lời của doanh thu ảnh hưởng
bởi hai nhân tố là doanh thu và chi phí, nếu doanh thu cao và chi phí thấp thì tỷ suất
sinh lời trên doanh thu tăng và ngược lại. Tuy nhiên, trong thực tế khi doanh nghiệp
tăng doanh thu thì kéo theo mức chi phí cũng tăng lên như chi phí giá vốn, chi phí
quản lý, chi phí bán hàng… Chính vì vậy, để có thể tăng được tỷ suất sinh lời trên
doanh thu, doanh nghiệp cần nghiên cứu những nhân tố cấu thành nên tổng chi phí để
có các biện pháp điều chỉnh phù hợp, đồng thời có các biện pháp đẩy nhanh tốc độ bán
hàng, tăng doanh thu và giảm các khoản giảm trừ doanh thu.
Tóm lại, phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn bằng mô hình Dupont có ý
nghĩa lớn đối với quản trị doanh nghiệp thể hiện ở chỗ có thể đánh giá đầy đủ và khách
quan các nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn nói riêng và hiệu quả
sản xuất kinh doanh nói chung, từ đó tiến hành công tác cải tiến tổ chức quản lý của
doanh nghiệp.
- Thời gian một vòng quay của tài sản ngắn hạn





Chỉ tiêu này cho biết mỗi vòng luân chuyển của tài sản ngắn hạn bình quân mất
bao nhiêu ngày. Chỉ tiêu này càng thấp, chứng tỏ tài sản ngắn hạn vận động nhanh,
góp phần nâng cao doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ngược lại, chỉ tiêu này
thấp cho thấy trong kỳ kinh doanh, tài sản ngắn hạn vận động chậm làm giảm doanh
thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn.
- Mức tiết kiệm tài sản ngắn hạn
Mức tiết kiệm tài sản ngắn hạn có được do tăng hiệu suất sử dụng tài sản ngắn
hạn được biểu hiện bằng hai chỉ tiêu là mức tiết kiệm tương đối và mức tiết kiệm tuyệt
đối. [7, tr.219]
 Mức tiết kiệm tài sản ngắn hạn tuyệt đối: Nếu quy mô kinh doanh không thay
đổi, việc tăng hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn đã giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm
được một lượng vốn lưu động tài sản ngắn hạn có thể rút ra khỏi luân chuyển dùng vào
việc khác. Công thức xác định số tài sản ngắn hạn tiết kiệm tuyệt đối:













Thang Long University Library
14


 Mức tiết kiệm tài sản ngắn hạn tương đối: Nếu quy mô kinh doanh được mở
rộng, việc tăng hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn đã giúp doanh nghiệp không cần
tăng thêm tài sản ngắn hạn hoặc bỏ ra số tài sản ngắn hạn ít hơn so với trước. Công
thức xác định số tài sản ngắn hạn tiết kiệm tương đối:













Trong đó:
V
tktđ1
: Tài sản ngắn hạn tiết kiệm tuyệt đối
V
tktđ2
: Tài sản ngắn hạn tiết kiệm tuyệt đối
M
0
,M
1
: Doanh thu thuần kỳ trước, kỳ này

V
0
,V
1
: Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn kỳ trước và kỳ này
(Nguyễn Năng Phúc (2011), “Giáo trình phân tích báo cáo tài chính”, Nhà
xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, trang 219).
1.2.3.3. Hiệu quả sử dụng từng bộ phận tài sản ngắn hạn
- Số vòng quay hàng tồn kho
Số vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho. Vòng quay
hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ. Hệ số
vòng quay hàng tồn kho được xác định bằng giá vốn hàng bán chia cho giá trị bình
quân hàng tồn kho.




Hệ số vòng quay hàng tồn kho thường được so sánh qua các năm để đánh giá
năng lực quản trị hàng tồn kho là tốt hay xấu. Hệ số này lớn cho thấy tốc độ quay vòng
của hàng hóa trong kho là nhanh và ngược lại, hệ số này nhỏ thì tốc độ quay vòng
hàng tồn kho thấp. Nhưng cũng cần lưu ý là hàng tồn kho mang đậm tính chất ngành
nghề kinh doanh nên không phải cứ mức tồn kho thấp là tốt, mức tồn kho cao là xấu.
Hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng
càng nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột
ngột thì rất có khả năng doanh nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh
giành thị phần. Hơn nữa, dự trữ nguyên vật liệu đầu vào cho các khâu sản xuất không
đủ có thể khiến dây chuyền sản xuất bị ngưng trệ. Vì vậy, hệ số vòng quay hàng tồn
kho cần phải đủ lớn để đảm bảo mức độ sản xuất và đáp ứng được nhu cầu khách
hàng.
- Thời gian quay vòng hàng tồn kho

Chỉ tiêu này cho ta biết số ngày cần thiết để hàng tồn kho quay được một vòng.
Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho và số ngày chu chuyển tồn kho có quan hệ tỷ lệ
nghịch với nhau.
15





Dự trữ và tồn kho thường chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động của doanh
nghiệp. Vì vậy, một mặt ta phải giới hạn mức dự trữ này ở mức tối ưu, mặt khác tăng
vòng quay của chúng. Dự trữ là một khoản đầu tư cần thiết để đảm bảo tính liên tục
của sản xuất và không bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh. Khoản đầu tư này được giải
phóng sau khi sản phẩm được tiêu thụ. Vòng quay hàng tồn kho là một chỉ tiêu khá
quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho phản ánh số lần hàng tồn kho được bán ra
trong kỳ kế toán và có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu vốn luân chuyển. Con số này
càng cao chứng tỏ khả năng bán ra càng lớn. Trên góc độ chu chuyển vốn thì hệ số
quay vòng tồn kho lớn sẽ giảm bớt được số vốn đầu tư vào công việc này, hiệu quả sử
dụng vốn sẽ cao hơn. Tuy nhiên, khi phân tích cũng cần phải chú ý đến những nhân tố
khác ảnh hưởng đến hệ số quay vòng tồn kho như việc áp dụng phương thức bán hàng,
kết cấu hàng tồn kho, thị hiếu tiêu dùng, tình trạng nền kinh tế, đặc điểm theo mùa vụ
của doanh nghiệp, thời gian giao hàng của nhà cung cấp
Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho cung cấp cho ta nhiều thông tin. Việc giảm
vòng quay vốn hàng tồn kho có thể do chậm bán hàng, quản lý dự trữ kém, trong dự
trữ có nhiều sản phẩm lạc hậu. Nhưng việc giảm vòng quay hàng tồn kho cũng có thể
là kết quả của quyết định của doanh nghiệp tăng mức dự trữ nguyên vật liệu khi biết
trước giá cả của chúng sẽ tăng hoặc có thể có sự gián đoạn trong việc cung cấp các
nguyên vật liệu này (có đình công, suy giảm sản xuất). Ngược lại, việc tăng vòng quay
hàng tồn kho có thể do những cải tiến được áp dụng trong khâu bán hàng hay hàng hoá

của doanh nghiệp đạt chất lượng cao, kết cấu hợp lý. Đây là điều đáng khích lệ. Còn
nếu doanh nghiệp duy trì mức tồn kho thấp thì cũng làm cho hệ số quay vòng hàng tồn
kho tăng cao nhưng điều này đôi khi gây ra tình trạng thiếu hàng để bán và ảnh hưởng
đến việc tăng doanh thu.
Trong các khoản phải thu, phải thu khách hàng thường chiếm tỷ trọng đáng kể,
phải thu khách hàng có ý nghĩa quan trọng đối với tình hình tài sản của doanh nghiệp.
Khi các khoản phải thu của khách hàng có khả năng thu hồi thì chỉ tiêu giá trị tài sản
thuộc Bảng cân đối kế toán có ý nghĩa cho quá trình phân tích. Khi chỉ tiêu phải thu
của khách hàng không có khả năng thu hồi thì độ tin cậy của tài sản trên Bảng cân đối
kế toán thấp ảnh hưởng đến quá trình phân tích. Do vậy phân tích tình hình phải thu
của khách hàng ta thường tiếp cận trên những góc độ sau:
- Số vòng quay các khoản phải thu
S vòng quay các
khon phi thu
=
Doanh thu thun
Khon phi thu khách hàng bình quân
Thang Long University Library
16

Chỉ tiêu này cho biết khả năng thu nợ của doanh nghiệp trong kỳ phân tích
doanh nghiệp đã thu được bao nhiêu nợ và số nợ còn tồn đọng chưa thu được là bao
nhiêu. Tỷ số này càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu là cao. Quan sát
số vòng quay khoản phải thu sẽ cho biết chính sách bán hàng trả chậm của doanh
nghiệp hay tình hình thu hồi nợ của doanh nghiêp.
- Kỳ thu tiền bình quân
Chỉ tiêu này được đánh giá khả năng thu hồi vốn trong các doanh nghiệp, trên cơ
sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân 1 ngày. Nó phản ánh số ngày
cần thiết để thu được các khoản phải thu. Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì
kỳ thu tiền bình quân càng nhỏ và ngược lại. Tuy nhiên kỳ thu tiền bình quân cao hay

thấp trong nhiều trường hợp chưa thể kết luận chắc chắn mà còn phải xem xét lại mục
tiêu và chính sách của doanh nghiệp như: Mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín
dụng của doanh nghiệp. Mặt khác khi chỉ tiêu này được đánh giá là khả quan, thì
doanh nghiệp cũng cần phải phân tích kỹ hơn vì tầm quan trọng của nó và kỹ thuật
tính toán che dấu đi các khuyết tật trong việc quản lý các khoản phải thu.
K thu tin bình quân
=
360
S vòng quay các khon phi thu
Khi nghiên cứu về tài sản ngắn hạn, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn và các
chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn chúng ta đó thấy được tầm quan
trọng của tài sản ngắn hạn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài
sản ngắn hạn có mặt trong mọi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh từ khâu dự trữ, sản
xuất đến lưu thông và vận động theo những vòng tuần hoàn. Qua đó, chúng ta phần
nào nhận thức được sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn.
- Thời gian trả nợ trung bình
Thời gian trả nợ thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Từ đó giúp doanh
nghiệp đưa ra các quyết định, chính sách thanh toán phù hợp nhắm nâng cao uy tín và
hạn chế rủi ro tài chính. Thời gian trả nợ cho biết thời gian mà doanh nghiệp có thể
chiếm dụng vốn của các đối tượng khác. Thời gian này dài thì doanh nghiệp có thể
chiếm dụng vốn lâu song cũng ảnh hưởng tới uy tín của doanh nghiệp.
Thi gian
tr n trung
bình
=
360
H s tr n

H s tr n
=

Giá vn hàng bán + Chi phí chung bán hàng, qun lý
Phi tr ng, thu phi tr
Số vòng quay trả nợ và thời gian trả nợ trung bình là chỉ tiêu vừa phản ánh uy
tín của doanh nghiệp đối với bạn hàng vừa phản ánh khả năng trả nợ của doanh
17

nghiệp. Đối lập với vòng quay khoản phải thu và hàng tồn kho có xu hướng ngày càng
tăng càng tốt thì đối với doanh nghiệp càng chậm trả nợ thì càng tốt, vậy nên họ rất
muốn kéo dài thời gian hoàn trả nợ dẫn đến vòng quay phải trả thấp. Vòng quay phải
trả thấp, số ngày trả nợ kéo dài có thể là dấu hiệu cho thấy công ty rất có uy tín và là
khách hàng tốt nhất của nhà cung cấp nên được cho trả chậm, nhưng cũng là dấu hiệu
cho thấy doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc trả các khoản nợ đến hạn.
- Thời gian quay vòng tiền trung bình

trung bình

=


quân

+

quay vòng


-


bình

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi ra phải mất bao lâu mới thu hồi được. Thời
gian của vòng quay tiền ngắn tức là doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh, bởi chỉ khi
nào dòng tiền thực sự trở lại doanh nghiệp thì kinh doanh với mới thực sự đạt hiệu
quả. Ngược lại, nếu thời gian của vòng quay tiền dài thì doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn
chậm, hoạt động kinh doanh chưa thực sự có hiệu quả.
1.3. Các nhân t n hiu qu s dng tài sn ngn hn trong doanh
nghip
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố
khác nhau chính vì vậy để đưa ra một quyết định tài chính nhà quản trị tài chính doanh
nghiệp phải xác định được và xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề cần giải
quyết. Có thể chia các nhân tố đó dưới 2 góc độ nghiên cứu.
1.3.1. Nhóm nhân tố không thể kiểm soát được
1.3.1.1. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
Nhân tố này thể hiện các đặc trưng của hệ thống kinh tế trong đó các doanh
nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh như: Chu kỳ phát triển kinh tế, tăng
trưởng kinh tế, hệ thống tài chính - tiền tệ, tình hình lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, các
chính sách tài chính – tín dụng của Nhà nước.
Nền kinh tế nằm trong giai đoạn nào của chu kỳ phát triển kinh tế, tăng trưởng
kinh tế sẽ quyết định đến nhu cầu sản phẩm cũng như khả năng phát triển các hoạt
động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp. Nắm bắt được nhu cầu sản phẩm
lớn, doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư sản xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu của khách
hàng sẽ giúp doanh nghiệp có được một kết quả kinh doanh khả quan với lượng doanh
thu và lợi nhuận tăng, lúc này sự đầu tư vào các tài sản, trong đó có tài sản ngắn hạn
đã đem lại được hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
Hệ thống tài chính - tiền tệ, lạm phát, thất nghiệp và các chính sách tài khoá của
chính phủ có tác động lớn tới quá trình ra quyết định sản xuất – kinh doanh và kết quả
hoạt động của doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ lạm phát cao thì hiệu quả sử dụng tài sản ngắn
Thang Long University Library
18


hạn của doanh nghiệp sẽ khó có thể cao được do sự mất giá của đồng tiền. Ngoài ra,
chính sách tài chính - tiền tệ cũng tác động lớn đến hoạt động huy động vốn cũng như
hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp. Một ví dụ cụ thể được đưa ra khi lạm
phát tăng khiến lãi suất tiền vay tăng, những tính toán dự kiến trong kế hoạch của
doanh nghiệp có thể bị thay đổi và đảo lộn.
Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, doanh nghiệp còn chịu tác động của thị
trường quốc tế. Sự thay đổi chính sách thương mại của các nước, sự bất ổn của nền
kinh tế các nước tác động trực tiếp đến thị trường đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp.
Như vậy, những thay đổi của môi trường kinh tế ngày càng có tác động mạnh
đến hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cho doanh nghiệp những
thuận lợi đồng thời cả những khó khăn. Do đó, doanh nghiệp phải luôn đánh giá và dự
báo những thay đổi đó để có thể đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm tranh thủ
những cơ hội và hạn chế những tác động tiêu cực từ sự thay đổi của môi trường kinh
tế.
1.3.1.2. Rủi ro trong sản xuất kinh doanh
Những rủi ro bất thường trong quá trình sản xuất kinh doanh mà các doanh
nghiệp thường gặp phải trong điều kiện kinh doanh của cơ chế thị trường có nhiều
thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) tham gia cùng cạnh tranh với nhau. Đặc biệt
đối với những doanh nghiệp nhỏ và vừa không thể đa dạng hóa danh mục đầu tư mà
phần lớn chỉ tập trung vào một hoạt động. Khi rủi ro xảy ra có thể khiến doanh nghiệp
mất toàn bộ vốn dẫn đến phá sản hoặc rơi vào tình trạng nợ nần, bị siết nợ mất toàn bộ
tài sản, ảnh hưởng đến việc tiếp tục hoạt động kinh doanh chung và ảnh hưởng đến
hiệu quả sử dụng các loại tài sản có trong doanh nghiệp đó. Ngoài ra, doanh nghiệp
còn gặp phải những rủi ro do thiên nhiên gây ra như động đất, lũ lụt, núi lửa, hỏa
hoạn mà các doanh nghiệp khó có thể lường trước được.
1.3.1.3. Nhân tố công nghệ
Khoa học công nghệ luôn phát triển nhanh và vượt trội với nhiều thay đổi,
chính những sự thay đổi này đem lại lợi ích cho doanh nghiệp nếu bắt kịp xu hướng
mới, hiệu quả kinh doanh được tăng cường. Song để có thể nhanh chóng bắt kịp được

những tiến bộ này cũng đòi hỏi doanh nghiệp chịu khó đầu tư, thay đổi, điều này là
không dễ với nhưng doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
Khoa học – công nghệ là một trong những nhân tố quyết định đến năng suất lao
động và trình độ sản xuất của nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói
riêng. Sự tiến bộ của khoa học – công nghệ sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
nâng cao năng lực sản xuất, giảm bớt chi phí, tăng khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên,
tiến bộ khoa học – công nghệ cũng có thể làm cho tài sản của doanh nghiệp bị hao
19

mòn vô hình nhanh hơn. Có những máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ… mới chỉ
nằm trên các dự án, các dự thảo, phát minh đã trở nên lạc hậu trong chính thời điểm
đó.
Như vậy, việc theo dõi cập nhật sự phát triển của khoa học – công nghệ là hết
sức cần thiết đối với doanh nghiệp khi lựa chọn phương án đầu tư để có thể đạt được
hiệu quả cao nhất trong việc sử dụng tài sản ngắn hạn, đảm bảo hoạt động sản xuất –
kinh doanh của mình.
1.3.1.4. Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Đây là một trong những nhân tố không thể kiểm soát được tác động đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước tạo hành lang pháp lý, môi trường kinh
doanh cho doanh nghiệp hoạt động, do đó doanh nghiệp phải chấp hành những chế độ,
quy định của Nhà nước. Bất kỳ sự thay đổi nào trong cơ chế quản lý của Nhà nước đều
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhà nước điều tiết hoạt động thị trường thông qua các chính sách thuế, chính
sách đầu tư, chính sách bảo trợ. Các chính sách tích cực của Nhà nước như ưu đãi tín
dụng, ký kết các hiệp định thương mại, tham gia các tổ chức thương mại trong khu vực
và thế giới đã tạo môi trường và hành lang pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp có cơ
hội phát triển kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế. Ví dụ, chính sách mở cửa kinh tế
và chính trị của Việt nam kéo theo sự thay đổi vai trò của nhà nước. Nhà nước có thêm
nhiệm vụ tạo nên các cơ sở pháp lý và chính sách cho việc phân cấp và tham gia hoạt
động kinh tế độc lập trong khu vực tư nhân, tạo thuận lợi cho việc hợp tác giữa các cơ

sở nhà nước và tư nhân. Nhà nước giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý các hạng
mục xây dựng của các doanh nghiệp xây lắp, đồng thời cung cấp thông tin về tăng
trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng, tình hình phát triển của các thành phần kinh tế,
tổng chi đầu tư toàn xã hội, các cân đối lớn của nền kinh tế, bao gồm: cân đối tích lũy -
tiêu dùng, cân đối đầu tư - tiết kiệm; có ý kiến về cơ cấu chi đầu tư phát triển và chi
thường xuyên, cân đối thu chi ngân sách, nợ công, chính sách thuế, phí. Tuy nhiên,
trong chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước còn nhiều điểm hạn chế và chưa hoàn
thiện khiến cho doanh nghiệp gặp không ít khó khăn trong khi làm thủ tục hành chính,
thương mại.
Bởi vậy, các chính sách vĩ mô của Nhà nước khi có sự điều chỉnh, thay đổi về
chính sách chế độ, hệ thống pháp luật, thuế cũng tác động đến hiệu quả sử dụng
TSNH của doanh nghiệp. Một cơ chế quản lý ổn định, thích hợp với các loại hình
doanh nghiệp sẽ là điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, giúp cho họ yên
tâm khi tiến hành sản xuất kinh doanh, dồn hết năng lực sẵn có của mình vào kinh
doanh mà không sợ sự biến động của thị trường.
Thang Long University Library
20

1.3.2. Nhóm các nhân tố có thể kiểm soát được
1.3.2.1. Ngành nghề kinh doanh
Trên thị trường, mỗi ngành nghề kinh doanh có những đặc điểm khác nhau như
tính mùa vụ, chu kỳ sản xuất kinh doanh v.v từ đó có tác động không nhỏ tới hiệu
quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh có tính chất mùa vụ
thường có biến động trong sử dụng tài sản ngắn hạn tương ứng với mùa vụ đó. Ngoài
ra, các doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất ngắn sẽ có thời gian quay vòng vốn nhanh và
tác động đến hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp. Cụ thể, với một doanh
nghiệp có chu kì sản xuất ngắn, lúc này hàng tồn kho trong doanh nghiệp được quay
vòng nhanh hơn, giúp doanh nghiệp nhanh chóng thu hồi vốn, gia tăng doanh thu và
lợi nhuận trong năm. Vòng quay hàng tồn kho tăng, thời gian quay vòng hàng tồn kho
giảm giúp doanh nghiệp rút ngắn thời gian luân chuyển tiền trong doanh nghiệp, nâng

cao khả năng sinh lời của tiền sẽ giúp công ty nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn
hạn.
Ngành nghề kinh doanh tạo nên đặc điểm riêng cho từng doanh nghiệp. Đó là
nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp có đặc điểm khác nhau về ngành nghề kinh doanh sẽ đầu tư vào
tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn khác nhau. Tỷ trọng tài sản ngắn hạn và tài sản dài
hạn khác nhau nên hệ số sinh lợi của tài sản chung cũng như tài sản bộ phận cũng khác
nhau. Doanh nghiệp có đặc điểm hàng hoá khác nhau và đối tượng khách hàng khác
nhau nên chính sách tín dụng thương mại cũng khác nhau dẫn đến tỷ trọng khoản phải
thu khác nhau. Như vậy, đặc điểm sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp tác động
quan trọng đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu tài
sản ngắn hạn, vòng quay và hệ số sinh lợi của tài sản ngắn hạn.
1.3.2.2. Xác định nhu cầu tài sản ngắn hạn
Việc xác định đúng nhu cầu của doanh nghiệp về tài sản ngắn hạn cho chu kỳ
kinh doanh của doanh nghiệp giúp định hướng rõ về cơ cấu của tài sản ngắn hạn, đảm
bảo cho hoạt động của doanh nghiệp diễn ra đúng hạn. Nếu xác định thiếu, ngay lập
tức doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong chi trả, thanh toán hoặc thiếu hàng hóa để
cung cấp cho đối tác. Lúc này doanh nghiệp có thể rơi vào trạng thái mất khả năng
thanh toán, hàng tồn kho bị ứ đọng trong thời gian dài do chưa đủ đơn hàng cấp cho
khách hàng, thêm vào đó lượng tiền bị ứ đọng ở hàng tồn kho có thể khiến doanh
nghiệp không đủ vốn để bắt đầu cho chu kỳ kinh doanh sau, ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh tế, hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Nếu rơi vào tình trạng quá cấp
bách, doanh nghiệp có thể phải đi vay mượn, làm tăng chi phí sử dụng tài sản ngắn
hạn. Trường hợp xấu hơn, doanh nghiệp không đi vay mượn được sẽ trực tiếp tạo ảnh
hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận thấp sẽ ảnh hưởng lớn đến
21

tỷ suất sinh lời của các tài sản ngắn hạn, lúc này một đồng tài sản ngắn hạn đem ra đầu
tư sẽ đem lại ít đồng lợi nhuận hơn. Ngược lại, nếu xác định dư thừa, doanh nghiệp sẽ
phải phát sinh các khoản như chi phí cơ hội do dự trữ tiền mặt, chi phí quản lý kho dẫn

đến hiệu suất sử dụng tài sản thấp. Chính vì vậy, xác định được đúng nhu cầu tài sản
cho doanh nghiệp là việc hết sức quan trọng để đảm bảo chu trình hoạt động của
doanh nghiệp.
1.3.2.3. Chi phí
Chi phí là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản. Nhà quản
lý cần cân nhắc các quyết định về chi phí để đảm bảo hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mình. Nếu chi phí bị đẩy lên quá cao sẽ khiến cho giá thành của hàng hóa, dịch
vụ tăng theo, tất yếu dẫn theo sức mua giảm, doanh thu bị giảm theo, đồng thời lợi
nhuận thu được cũng sẽ giảm (trong trường hợp doanh nghiệp không tăng giá bán).
Chính vì vậy, doanh nghiệp cần tìm kiếm các giải pháp làm giảm thiểu chi phí, hạ thấp
giá hành sản phẩm của doanh nghiệp để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
1.3.2.4. Năng lực và trình độ quản lý
Năng lực và trình độ quản lý doanh nghiệp tác động trực tiếp đến hiệu quả sử
dụng tài sản ngắn hạn thông qua các quyết định của nhà điều hành. Phẩm chất và năng
lực của nhà quản lý cần phải tốt để dẫn dắt doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường đầy
cạnh tranh. Khả năng nhanh nhạy trong bắt nhịp xu thế thị trường và điều phối tài
nguyên của doanh nghiệp có thể nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Lợi nhuận
được nâng cao cho thấy tính hiệu quả trong việc đầu tư, góp phần nâng cao hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Tóm lại, hai nhóm nhân tố trên có ảnh hưởng đến kinh
doanh của doanh nghiệp bắt nguồn từ nhiều yếu tố khác nhau, phụ thuộc vào lĩnh vực,
loại hình kinh doanh và môi trường. Song việc nắm bắt tổng thể các yếu tố này có thể
quản lý được mọi tác động của các yếu tố đến doanh nghiệp, kể cả các yếu tố mang
tính biến động, bất ngờ.
Kt lu
Qua phần giới thiệu và phân tích ở chương 1, ta thấy được tổng quan về tài sản
ngắn hạn của doanh nghiệp và hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiêp.
Cụ thể hơn, ta có thể hiểu được khái niệm, đặc điểm, phân loại, vai trò của tài sản ngắn
hạn trong doanh nghiệp. Đồng thời, khóa luận đã nghiên cứu về hiệu quả sử dụng tài
sản ngắn hạn và các chỉ số tài chính đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn để từ
đó đánh giá một cách chính xác về hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh

nghiệp. Phần cuối chương 1 xoay quanh các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng
tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp. Dựa trên những lý luận cơ bản tại chương 1,
khóa luận sẽ thực tế hóa hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn thông qua việc phân tích
thực trạng sử dụng tài sản ngắn hạn tại Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Constrexim.
Thang Long University Library
22

 


2.1. Tng quan v Công ty C phxây dng Constrexim
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng
Constrexim
Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Constrexim là công ty trực thuộc Tổng Công
ty Cổ phần đầu tư xây dựng và thương mại Việt Nam (Constrexim Holdings) – Doanh
nghiệp độc lập của Bộ Xây dựng.
Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Constrexim được thành lập theo mô hình
công ty cổ phần giấy phép kinh doanh số 0103013494 do Sở kế hoạch và đầu tư thành
phố Hà Nội cấp lần đầu ngày 03 tháng 05 năm 2007. Trụ sở công ty đặt tại tầng 1,
N08, ngõ 84, phố Chùa Láng, quận Đống Đa, Hà Nội. Từ tổ chức tiền thân là Công ty
đầu tư xây dựng và thương mại số 9, thành lập theo quyết định số 804QĐ/MC-TCHC
cấp ngày 26 tháng 12 năm 2005 giấy phép đăng ký kinh doanh số 0116000613 cấp
ngày 01 tháng 01 năm 2006 do Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp, trải qua
thời kỳ kiện toàn bộ máy và thay đổi tổ chức, sau khi cổ phần hóa, công ty đã chính
thức mang tên Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Constrexim (Constrexim Cic).
Tuy mới được thành lập không lâu nhưng công ty đã tập hợp được một đội ngũ
cán bộ, công nhân có năng lực, kinh nghiệm và tâm huyết với công ty. Mặt khác được
sự hỗ trợ từ công ty mẹ cùng với việc phát huy nội lực của chính mình, công ty đã
bước đầu trang bị được một lực lượng máy móc phục vụ thi công như: Máy xúc, máy
ủi, vận thăng, cẩu tháp, hệ thống giáo chống, Đội ngũ cán bộ, công nhân viên của

công ty được công ty tạo điều kiện để không ngừng học tập và nâng cao trình độ
chuyên môn cũng như trình độ quản lý. Công ty đang từng bước tích tụ thêm vốn và
năng lực sản xuất, quan hệ của công ty với các doanh nghiệp trong và ngoài nước để
doanh thu hàng năm không ngừng tăng trưởng ở mức cao và ổn định.
Trong suốt quá trình gần 10 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành, thông
qua sự phát triển ổn định và bền vững, Constrexim đã khẳng định được vị thế là một
trong những công ty có tiếng nằm trong hệ thống các công ty con của Constrexim
Holdings. Công ty đã từng thi công một số công trình lớn như: Khu nhà ở cao tầng Bắc
Hà, trụ sở Công ty thương mại và vật liệu xây dựng BMC, Công trình nhà xưởng E112
– Bộ công an, Trung tâm kiểm nghiệm dược phẩm – mỹ phẩm Trung ương, Trường
mầm non Cát Linh,
2.1.2. Bộ máy quản lý của Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Constrexim
Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Constrexim là một đơn vị hạch toán độc lập
có tài khoản riêng và có tư cách pháp nhân. Bộ máy quản lý của công ty tổ chức theo
23

kiểu trực tuyến chức năng nghĩa là Ban Giám đốc bao gồm Tổng Giám đốc và 02 Phó
Tổng Giám đốc trực tiếp chỉ đạo bộ phận phòng ban chức năng, thực hiện các quyết
định của Hội đồng Quản trị và chịu sự giám sát của Ban kiểm soát.
  t chc Công ty C phn n thit k công ngh xây dng
Constrexim





















(Nguồn: Phòng tổ chức hành chính)
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý có toàn quyền nhân danh công ty để quyết
định mọi vấn đề liên quan đến sản xuất kinh doanh và quyền lợi của công ty như quyết
định chiến lược phát triển của công ty, quyết định phương án đầu tư, giải pháp phát
triển thị trường. Hội đồng quản trị hoạt động theo điều lệ tổ chức, hoạt động của công
ty và pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty là Ông Nghiêm
Xuân Trường (kiêm Tổng Giám đốc) cùng 05 Ủy viên Hội đồng quản trị là Ông Đào
Công Sửu, Bà Trịnh Thị Trang, Ông Lê Vinh Việt, Ông Hồ Hải Trung và Ông Trần
Kim Đính.
Ban kiểm soát có chức năng giám sát Ban Tổng Giám đốc công ty về việc quản
lý và điều hành công ty. Chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị trong thực hiện các
nhiệm vụ đươc giao.
BAN
KIỂM
SOÁT
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
PHÒNG
KINH
TẾ KẾ

HOẠCH
BAN GIÁM ĐỐC
PHÒNG
TÀI
CHÍNH
– KẾ
TOÁN
PHÒNG
TỔ
CHỨC
HÀNH
CHÍNH
ĐỘI
XÂY
DỰNG
SỐ 1
TRUNG TÂM
TƯ VẤN
THIẾT KẾ VÀ
QUẢN LÝ DỰ
ÁN
PHÒNG
KỸ
THUẬT
CHẤT
LƯỢNG

NGHIỆP
XÂY
DỰNG

SỐ 1

NGHIỆP
XÂY
DỰNG
SỐ 2
Thang Long University Library
24

Ban Giám đốc đại diện mọi quyền lợi, nghĩa vụ của công ty trước pháp luật và
trước cơ quan quản lý Nhà nước. Quản lý và lãnh đạo toàn bộ hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty, báo cáo Hội đồng quản trị về các hoạt động của công ty. Ban Giám
đốc thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo điều lệ tổ chức, hoạt động của công ty
và pháp luật của Nhà nước. Ban Giám đốc bao gồm Tổng Giám đốc và 02 Phó Tổng
Giám đốc.
Các phòng chức năng có nhiệm vụ thực hiện các công việc do Tổng Giám đốc
và Phó Tổng Giám đốc giao, hoàn thành các công việc được giao theo đặc điểm riêng
của từng phòng.
Phòng tổ chức nhân sự trong công ty thực hiện các công tác lao động tiền
lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; hỗ trợ các phòng ban khác soạn thảo văn bản,
công văn và hồ sơ dự thầu; chịu trách nhiệm tuyển dụng và đào tạo đội ngũ cán bộ,
nhân viên vào làm việc tại công ty. Đồng thời theo dõi thời gian làm việc, phân công
và chấm công đảm bảo đủ số lượng nhân viên cho việc kinh doanh của công ty được
hoạt động liên tục đem lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, phòng còn tổ chức các chuyến
du lịch cho công nhân viên.
Phòng Tài chính – Kế toán thực hiện kế hoạch tổ chức công tác tài chính - kế
toán trong công ty; tập hợp và huy động các nguồn tài chính, quản lý quỹ, thanh toán
vật tư và tập hợp các chi phí; báo cáo đầy đủ kịp thời, chính xác tình hình sử dụng
quản lý các quỹ, tài sản, hàng hóa, các nguồn vốn và kết quả sản xuất kinh doanh;
quản lý thu chi, thanh toán tiền lương, các chế độ chính sách cho người lao động theo

đúng quy định của nhà nước, lập sổ theo dõi thu nhập cá nhân cho người lao động…,
trích nộp các khoản nộp ngân sách, giải ngân thanh toán, thực hiện chi trả cổ tức, chi
trả vốn vay lãi suất; Chủ trì công tác quyết toán, kiểm toán đúng kỳ hạn, kiểm kê tài
sản, công cụ dụng cụ. Lập báo cáo tài chính theo đúng quy định.
Phòng Kế hoạch - Kỹ thuật là phòng chuyên môn, nghiệp vụ trực thuộc công ty;
hoạt động theo quy định của pháp luật và quy định của công ty; tham mưu cho Giám
đốc về công tác kế hoạch sản xuất, phục vụ thi công. Phối hợp toàn bộ hoạt động và tổ
chức thực hiện kế hoạch thi công tại các công trường.
Phòng Kế hoạch - Kỹ thuật có chức năng tham mưu và chịu trách nhiệm trước
Phó Tổng Giám đốc công ty về công tác kế hoạch kinh doanh, đảm bảo mục tiêu phát
triển của công ty; công tác kế hoạch đầu tư và xây dựng theo quy định; công tác kỹ
thuật thi công công trình có sử dụng sản phẩm của công ty.
Phòng kỹ thuật chất lượng có nhiệm vụ tham mưu, giúp việc cho Ban Giám đốc
trong công tác thẩm định chất lượng dự án đầu tư, thẩm định chất lượng công trình.
Trung tâm tư vấn thiết kế và quản lý dự án có nhiệm vụ tư vấn cho phòng kế
hoạch – kỹ thuật về quy trình thực hiện dự án, phác thảo bản vẽ thiết kế công trình.
25

Các đội xây dựng, xí nghiệp xây dựng có nhiệm vụ thực hiện các công việc do
Giám đốc giao, hoàn thành các công việc được giao theo đặc điểm riêng của đội, xí
nghiệp. Ngoài nhiệm vụ trực tiếp quản lý, thi công tại các công trình, các đội và xí
nghiệp xây dựng có trách nhiệm bảo quản, sử dụng các phương tiện vận tải của công
ty theo quy định; tiến hành lập kế hoạch bảo dưỡng, sửa chữa các thiết bị máy móc của
công ty; chịu sự điều động của Phòng kế hoạch – kỹ thuật.
2.1.3. Đặc điểm ngành nghề kinh doanh
Hiện nay, Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Constrexim hoạt động chủ đạo ở
một lĩnh vực kinh doanh chính là xây lắp. Constrexim luôn coi lĩnh vực xây lắp là lĩnh
vực hoạt động chủ yếu của công ty. Các loại hình công trình mà Constrexim đang thực
hiện xây dựng là: Công trình dân dụng, công trình công nghiệp, công trình giao thông,
công trình thủy lợi, cơ sở hạ tầng.

Ngoài lĩnh vực kinh doanh chính, hiện tại công ty có cung cấp thêm dịch vụ tư
vấn, thiết kế công trình: Tư vấn đầu tư, thiết kế kỹ thuật, lập dự toán, giám sát công
trình giao thông, công trình dân dụng, thủy lợi và hạ tầng kỹ thuật. Lĩnh vực này tuy
không phải là nguồn thu chính của công ty nhưng hàng năm cũng đem về cho công ty
một khoản lợi nhuận không nhỏ.
2.2. Thc trng ho ng kinh doanh ca Công ty C ph   ng
Constrexim n 2011  2013
2.2.1. Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng
Constrexim giai đoạn 2011 – 2013
Căn cứ vào bảng 2.1 ta có thể thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
có một vài thay đổi. Có thể thấy rõ nhất là sự tăng trưởng không đều của doanh thu,
tuy nhiên lợi nhuận sau thuế tăng liên tục hàng năm. Để hiểu thêm điều này ta có thể
đi sâu phân tích các chỉ tiêu. Cụ thể như sau:
Thang Long University Library

×