Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

phân tích diễn biến lạm phát của việt nam giai đoạn từ 2004 đến 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.96 KB, 45 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế phức tạp gắn liền với sự tăng lên
đồng loạt của giá cả và sự mất giá của tiền tệ. Lạm phát là căn bệnh tiềm ẩn
đối với các nước phát triển theo cơ chế thị trường, nó xuất hiện khi nền kinh
tế chứa đựng các dấu hiệu mất cân đối: mất cân đối giữa cung – cầu hàng
hoá, mất cân đối giữa cung – cầu thị trường… Mỗi lần xuất hiện ở điều kiện
và hoàn cảnh khác nhau th́ì có tác động không giống nhau đến nền kinh tế.
Cho nên mỗi lần lạm phát xuất hiện lại đ̣òi hỏi tâm trí và sức lực của các nhà
hoạch định chính sách, các nhà kinh tế và dân chúng. Bởi nó ảnh hưởng đến
điều hành các chính sách vĩ mô, đến hoạch định và kết quả kinh doanh của
các chủ thể kinh tế, đến mức sống và niềm tin của dân chúng.
Việt Nam sau khi thống nhất đất nước đã trải qua những thời kỳ
“thăng trầm” của lạm phát. Từ cơn bão siêu lạm phát những năm 1986-1988
sau đó “im lặng” trong một giai đoạn giảm phát, lạm phát lại bùng trở lại ở
nước ta sau khi mở cửa nền kinh tế gia nhập Tổ chức thương mại thế giới.
Năm 2007 Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của
WTO, lạm phát phi mã đánh dẫu sự trở lại bằng việc đưa chỉ số giá tiêu
dùng lên 12,6%. Dường như nền kinh tế đang tăng trưởng quá nóng và
không hấp thụ được hết những cơ hội của nó. Bên cạnh đó là những bất cập
trong hệ thống tài chính tiền tệ cũng như sự thiếu đồng bộ trong các chính
sách của Chính phủ đã dẫn tới tình trạng lạm phát như hiện nay. Yêu cầu đặt
ra là phải nghiên cứu xác định được đúng nguyên nhân lạm phát ở nước ta
để có thể “kê đơn đúng bệnh” trong thời gian tới nhằm chuẩn bị một cách tốt
nhất cho nền kinh tế trong giai đoạn mở cửa.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó và qua nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề
này trong quá trình học tập cũng như trong thực tế, chúng em đã quyết định
chọn đề tài thảo luận: “phân tích diễn biến lạm phát của Việt Nam giai đoạn
từ 2004 đến Nay”
♦ Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về lạm phát
- Nghiên cứu thực trạng và những nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt


Nam trong thời gian gần đây. Nhìn nhận các giải pháp của chính phủ
và rút ra những thành công cũng như hạn chế của các giải pháp đó.
- Đề xuất một số giải pháp
♦ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài vấn đề lạm phát trong nền kinh tế
- Phạm vi nghiên cứu: tình hình lạm phát ở Việt Nam từ 2004 đến Nay.
Nội dung đề tài gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan về lạm phát
Chương 2: Tình hình lạm phát của Việt Nam từ 2004 – Nay
Chương 3: Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế
Chương 4: Nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam
Chương 5: Các giải pháp kìm chế lạm phát ở Việt Nam
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
I. Khái niệm
1. Định nghĩa lạm phát
Lạm phát là một khái niệm kinh tế đã xuất hiện từ lâu, gắn liền với sự
ra đời và phát triển của tiền tệ.Các nhà kinh tế học theo trường phái “lạm
phát tiền tệ”, đại biểu tiêu biểu là Keynes và Friedman cho rằng “lạm phát là
hiện tượng tiền giấy thừa so với nhu cầu lưu thông hàng hoá và dịch vụ”.
Tiền giấy mất giá nên giá cả tăng lên, và “lạm phát ở bất kỳ nơi nào luôn là
một hiện tượng tiền tệ với nghĩa là, nó được và có thể được tạo ra chỉ bằng
cách tăng lượng tiền nhanh hơn so với tăng sản lượng”
Trường phái “lạm phát giá cả” hay quan điểm lạm phát của nhà kinh tế
học nổi tiếng Paul A. Samuelson và William D. Nordhaus cho rằng lạm phát
là việc giá cả hàng hoá tăng lên, không kể trong dài hạn hay ngắn hạn, mang
tính đột xuất hay theo chu kì.
Vậy lạm phát là gì? Có nhiều quan điểm khác nhau nhưng hầu hết các
nhà kinh tế học đều đưa ra một đặc điểm chung về lạm phát đó là:
“Lạm phát là hiện tượng phát hành tiền vào lưu thông quá lớn,

vượt quá số lượng tiền cần thiết trong lưu thông, làm cho sức mua của
đồng tiền giảm sút không phù hợp với giá trị danh nghĩa mà nó đại
diện.”
Lạm phát là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền kinh tế hàng hóa
tiền tệ, còn sản xuất hàng hóa và lưu thông tiền tệ thì còn lạm phát. Vấn đề
chỉ là kiềm chế lạm phát ở mức độ nào là hợp lý, bởi lạm phát ở mức hợp lý
còn có tác dụng kích thích sản xuất và tiêu dùng.
2. Phân loại lạm phát
• Lạm phát vừa phải (Moderate inflation) là loại lạm phát mà tốc độ
tăng giá cả chậm, ở mức dưới một con số (dưới 10%) mỗi năm. Khi đó, tiền
tệ mất giá không nhiều và người ta tin tưởng vào giá trị của đồng tiền. Ở hầu
hết các nền kinh tế thị trường, lạm phát vừa phải luôn tồn tại. Lạm phát ở
mức độ này không gây ra những tác động đáng kể đối với nền kinh tế.
• Lạm phát phi mã (Galloping inflation) là lạm phát xảy ra khi giá cả
tăng với tốc độ 2 hoặc 3 con số (30%, 50%, 100%, 500% . . .). Khi đó, tiền
mất giá trị một cách nhanh chóng và người ta chỉ nắm giữ một lượng tiền tối
thiểu để đảm bảo cho các giao dịch hàng ngày. Loại lạm phát này khi ở đỉnh
cao sẽ gây ra những hiệu quả kinh tế nghiêm trọng.
• Siêu lạm phát (Hyper inflation) là hiện tượng tốc độ tăng mức giá
hết sức nhanh chóng, có khi tới vài trăm phần trăm một tháng hay vài nghìn
phần trăm mỗi năm. Siêu lạm phát không thể kéo dài trong quá nhiều năm
do tiền gần như mất hết giá trị, các doanh nghiệp không thể hoạt động được
và phá sản, người dân không dùng tiền trong các giao dịch nữa và quốc gia
gặp phải tình trạng này buộc phải cải tổ chính sách kinh tế nước mình và tìm
cách chấm dứt lạm phát.
3. Các phương pháp đo lường lạm phát
CPI được sử dụng một cách phổ biến trong việc đánh giá mức lạm phát. CPI
đo lường mức giá trung bình 1 nhóm hàng hóa và dịch vụ cần cho tiêu dùng
của các hộ gia đình trong 1 giai đoạn nhất định.
Tỷ lệ lạm phát được tính như sau:

gp =
%1001
×









p
n
I
I
Trong đó: gp là tỷ lệ lạm phát (%) I
p
là chỉ số giá cả của thời kỳ gốc
I
n
là chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu
Ưu điểm: Cho phép so sánh sự biến động mức giá tiêu dùng theo thời gian.
Nhược điểm: Không phản ánh được sự thay đổi trong cơ cấu tiêu dung, đồng
thời cũng không phản ánh được sự thay đổi về chất lượng của hàng hóa và
dịch vụ.
Ở Việt Nam CPI được tính cho toàn quốc và cho từng địa phương, chỉ số giá
bình quân được thông báo hàng tháng, tổ hợp của nhiều tháng, cho cả năm
và được công bố cùng chỉ số giá vàng, chỉ số đô la Mỹ. Trong thực tế, tỷ lệ
lạm phát thường được biểu hiện qua các chỉ số giá cả:

a. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI- Consumer Price Index) được sử dụng rộng rãi
nhất để tính tỷ lệ lạm phát. CPI đo lường mức giá bình quân của một nhóm
hàng hoá, dịch vụ trong một khoảng thời gian. Số lượng, chủng loại hàng
hoá nào được lựa chọn lại tuỳ theo quy định của từng nước. Để tính toán chỉ
số giá tiêu dùng, người ta phải thực hiện các bước sau:
1. Cố định giỏ hàng hóa: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định lượng
hàng hóa, dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua.
2. Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hóa
tại mỗi thời điểm.
3. Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hóa bằng cách dùng số
lượng nhân với giá cả của từng loại hàng hóa rồi cộng lại.
4. Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu
dùng bằng công thức sau:
CPI
t
= 100 x
Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ
t
Chi phí để mua giỏ hàng hoá kỳ cơ sở
Trên thực tế người ta có thể xác định quyền số trong tính toán chỉ số
giá tiêu dùng bằng cách điều tra để tính toán tỷ trọng chi tiêu của từng nhóm
hàng hoá, dịch vụ so với tổng giá trị chi tiêu. Sau đó quyền số này được
dùng để tính chỉ số giá tiêu dùng cho các thời kỳ sau. CPI thường được tính
hàng tháng và hàng năm. CPI còn được tính toán cho từng nhóm hàng hóa
hoặc một số nhóm hàng hóa tùy theo mục đích sử dụng.
Tuy nhiên, khi sử dụng chỉ số giá tiêu dùng, ta cũng gặp phải một số
vấn đề. Do sử dụng giỏ hàng hoá cố định nên khi tính toán CPI có ba vấn đề
chính dẫn đến hạn chế của CPI sau đây:
Thứ nhất, CPI không phản ánh được độ lệch thay thế vì nó sử dụng
giỏ hàng hoá cố định. Khi giá cả một mặt hàng này tăng nhanh hơn so với

các mặt hàng khác thì người tiêu dùng sẽ có xu hướng ít tiêu dùng những
mặt hàng đã trở nên quá đắt đỏ mà tiêu dùng nhiều những hàng hoá đỡ đắt
đỏ hơn. Yếu tố này làm CPI đã đánh giá cao hơn thực tế mức giá. Ví dụ khi
thịt gà trở nên mắc hơn do dịch cúm thì người tiêu dung sẽ chuyển sang ăn
cá biển với mục đích là cung cấp chất đạm cho cơ thể.
Thứ hai, CPI không phản ánh được sự xuất hiện của những hàng hoá
mới vì nó sử dụng giỏ hàng hoá cố định trong khi nếu có hàng hoá mới xuất
hiện thì một đơn vị tiền tệ có thể mua được các sản phẩm đa dạng hơn. Ví dụ
ở TP.HCM khi mọi người đều có điện thoại di động, giá của mặt hàng này
đang giảm theo thời gian nhưng nó lại không nằm trong rổ hàng hóa. CPI
không phản ánh được sự gia tăng sức mua này của đồng tiền nên vì thế lại
đánh giá mức giá cao hơn thực tế.
Thứ ba, CPI không phản ánh được sự thay đổi của chất lượng hàng
hoá vì nếu mức giá của một hàng hoá cụ thể nào đó tăng nhưng chất lượng
cũng tăng tương ứng thậm chí tăng hơn thì trên thực tế mức giá không tăng.
Chất lượng hàng hoá dịch vụ nhìn chung đều có xu hướng được nâng cao
nên CPI cũng đã phóng đại mức giá.
b. Chỉ số giảm phát GDP, còn gọi là Chỉ số điều chỉnh GDP (D
GDP
-GDP
deflator) là chỉ số tính theo phần trăm phản ánh mức giá chung của tất cả các
loại hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước. Chỉ số điều chỉnh GDP cho biết
một đơn vị GDP điển hình của kỳ nghiên cứu có mức giá bằng bao nhiêu
phần trăm so với mức giá của năm cơ sở. (Số liệu thống kê của Việt nam
công bố đang tính GDP theo giá của năm 1994). Người ta tính chỉ số giảm
phát GDP theo công thức sau:
Chỉ số giảm phát GDP = 100 xGDP danh nghĩa
GDP thực tế
Khác với CPI, D
GDP

được tính trên giỏ hàng hoá thay đổi do vậy nó
phản ánh được sự thay thế giữa các hàng hoá, dịch vụ với nhau. Mặc dù vậy
nó lại không phản ánh được sự giảm sút phúc lợi của người tiêu dùng trong
trường hợp phải tiêu dùng ít hơn một loại hàng nào đó. Ví dụ: do sau dịch
cúm gà, giá gà trở nên quá đắt so với giá thịt lợn nên người tiêu dùng sẽ mua
ít thịt gà hơn và mua nhiều thịt lợn hơn. Phúc lợi của người tiêu dùng đã
giảm xuống do họ phải tiêu dùng thịt gà ít hơn nhưng D
GDP
không phản ánh
được điều này cho dù nó phản ánh được sự thay thế giữa thịt gà và thịt
lợn.CPI chỉ phản ánh mức giá của hàng tiêu dùng còn D
GDP
phản ánh giá của
cả hàng hoá do doanh nghiệp, chính phủ mua. Vì thế D
GDP
được coi là phản
ánh đúng hơn mức giá chung.D
GDP
chỉ phản ánh mức giá của những hàng
hoá sản xuất trong nước (vì GDP chỉ tính sản phẩm trong nước) còn CPI
phản ánh mức giá của cả hàng hoá nhập khẩu. Ví dụ: khi giá một chiếc xe ô
tô Toyota nhập khẩu tăng thì nó được phản ánh ở CPI nhưng không được
phản ánh ở D
GDP
.Tuy nhiên, trên thực tế, số liệu thống kê cho thấy sự khác
biệt giữa CPI và D
GDP
không lớn.
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ 2004 – NAY

Nguồn TCTK
Biểu đồ thể hiện tình hình lạm phát từ năm 2004 đến 2011 (đơn vị: %)
1. Giai đoạn từ năm 2004 – 2008
Đây là giai đoạn mà lạm phát tăng tốc, làm đau đầu các nhà quản lý
mĩ mô và ảnh hưởng đến mọi mặt cuộc sống của người dân. Từ 3% năm
2003, lạm phát tăng vọt lên 9,5% năm 2004, sau đó giảm nhẹ vào 2 năm
2005, 2006 nhưng lại bùng phát trở lại vào năm 2007 với lạm phát phi mã
12,6% và đặc biệt là năm 2008 khi tính đến hết tháng 5/2008, chỉ số giá tiêu
dùng đã tăng 15,96%.
* Năm 2004
Trong năm 2004, nền kinh tế Việt Nam diễn ra trong bối cảnh tình
hình quốc tế và trong nước không mấy thuận lợi. Mặc dù kinh tế thế giới
tăng trưởng khá tạo thuận lợi cho tăng trưởng xuất khẩu ở Việt Nam, song
những biến động khó lường về chính trị, thiên tai, dịch cúm, giá cả nhiên -
nguyên vật liệu…có tác động xấu đến hoạt động kinh doanh trong nước.
Trong hoàn cảnh đó năm 2004 nền kinh tế vẫn đạt mức tăng trưởng GDP
7,69% cao hơn mức tăng 7,43 của năm 2003. Tuy vậy năm 2003, lạm phát
dừng lại ở con số khiêm tốn 3%, thế nhưng con số này đã đột ngột tăng tốc
vào năm 2007 và lên 9,5%. Chỉ số tăng giá trong vòng 5 tháng đầu năm
2004 đã lên tới 6,3%, cao hơn mức dự kiến cả năm là 5% trong đó nhóm
hàng thực phẩm tăng 12,6%. Giá cả một số mặt hàng thuỷ hải sản tăng do thị
trường xuất khẩu ổn định và mở rộng, giá cả được cải thiện. Giá đường trắng
tiêu thụ trong nước bình quân tăng tới 40 - 45% so với cùng kỳ năm trước.
Nhóm mặt hàng tăng giá cao đứng thứ hai là lương thực, tăng tới 10,9%.
Nguyên nhân chủ yếu là do khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng,
giá bán cũng khá hơn trước. Chỉ có duy nhất chỉ số tiêu dùng của nhóm
“hàng” giáo dục là giảm tuy nhiên tỷ lệ giảm không quá lớn và nhóm này
cũng không chiếm tỷ trọng lớn nên không làm ảnh hưởng đến xu thế tăng
của chỉ số giá chung.
Bảng: Chỉ số CPI các tháng trong năm 2004 so với tháng 12/2003

(Theo TCTK)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Chỉ số
tăng
CPI (%)
1,1 4,1 4,9 5,4 6,3 7,2 7,7 8,3 8,6 8,6 8,8 9,5
* Năm 2005
Vượt qua nhiều khó khăn khách quan như: thời tiết, thiên tai, dịch
cúm gia cầm tái phát, giá cả hàng hóa, dịch vụ thế giới biến động bất lợi nhất
là giá xăng, dầu và một số nguyên liệu tăng đột biến, thị trường xuất khẩu
hàng hóa chủ lực (dệt may, da giày, thủy sản…) thu hẹp. Tình hình kinh tế
trong nước ta năm 2005 vẫn phát triển toàn diện và tăng trưởng khá cao
8,43%, xấp xỉ mục tiêu đề ra là 8,5% và là mức tăng cao nhất trong vòng 9
năm qua kể từ năm 1997. Năm 2005, chỉ số lạm phát có giảm đi so với năm
trước nhưng vẫn tiếp tục ở mức cao. Chỉ số giá tiêu dùng của cả nước đã lên
tới 8,4%, vượt xa so với mức 6,5% theo Nghị Quyết của Quốc hội đề ra từ
đầu năm, thấp hơn so với mức 9,5% của năm 2004 và cao gấp 3 lần so với
mức 3,0 % của năm 2003. Tăng giá cao nhất trong cả năm 2005 là nhóm mặt
hàng lương thực – thực phẩm. Tính chung trong cả 12 tháng năm 2005,
nhóm lương thực - thực phẩm tăng 10,8%, thấp hơn so với mức tăng kỷ lục
15,6% của cả năm 2004, trong đó riêng nhóm hàng thực phẩm đã tăng tới
12% và nhóm mặt hàng lương thực tăng 7,8%. Nguyên nhân do giá xuất
khẩu gạo của Việt Nam tăng, giá thu mua một số mặt hàng lương thực làm
thức ăn gia súc tăng, làm tăng giá các mặt hàng lương thực trong nước. Diện
tích đất đai sản xuất lương thực có xu hướng giảm do chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, do đất đai canh tác được chuyển sang đất đô thị, đất khu công nghiệp,
đất làm được giao thông và các mục đích khác. Mặt khác giá thành sản xuất
các mặt hàng lương thực cũng tăng lên. Đặc biệt là giá thóc gạo xuất khẩu ở
khu vực đồng bằng sông Cửu Long tăng khá bởi nhu cầu thu mua lúa gạo
cho xuất khẩu. Do tác động bởi giá gạo trên thị trường thế giới và giá gạo

xuất khẩu của Việt Nam tăng. Do ảnh hưởng cơn bão số 7 ở các tỉnh phía
Bắc, lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long, mưa lũ tại các tỉnh miền Trung trong
các tháng 10,11 và tháng 12-2005. Bởi vậy đã làm cho giá lương thực trong
năm 2005 tăng tới 7,8%. Tuy nhiên vẫn thấp hơn mức tăng 14,3% của mặt
hàng lương thực trong năm 2004.
Trong khi đó giá mặt hàng thực phẩm tính chung trong năm 2005 tăng
12%, thấp hơn so với cả năm 2004 đã tăng kỷ lục, tới 17,1%. Nguyên nhân
là do tác động của dịch cúm gia cầm xẩy ra trên diện rộng. Chính phủ chỉ
đạo kiên quyết và các địa phương cũng triển khai đồng bộ việc tiêu huỷ gia
cầm, việc cấm lưu thông gia cầm, cũng như tình trạng đóng băng tiêu thụ
các sản phẩm ở nhiều địa phương. Do đó nhu cầu tiêu thụ thực phẩm được
dồn sang các mặt hàng khác làm cho giá bán lẻ nhóm mặt hàng này tăng lên
Mức tăng lớn đứng hàng thứ hai và thứ ba trong năm 2005 là nhóm
mặt hàng nhà ở, vật liệu xây dựng và nhóm phương tiện đi lại với mức tăng
lần lượt là 9,8% và 9,1%. Nguyên nhân của tình trạng đó là do giá sắt thép
trên thị trường thế giới và giá xanưg dầu tăng cao.
* Năm 2006
Diễn biến kinh tế Việt Nam năm 2006 tiếp tục có sự ổn định, nền
kinh tế đạt mức tăng trưởng 8,17% vươt mục tiêu đã đề ra đầu năm là 8%.
Chỉ số giá tiêu dùng CPI năm 2006 tăng 6.6%, thấp hơn nhiều so với mức
tăng 8,4% của cùng kỳ năm 2005. Điều đặc biệt là nếu như năm 2005, lạm
phát CPI và lạm phát nhóm hàng LTTP đều giảm so với năm trước (8.4% so
với 9.5% và 10.8% so với 15.6%) còn ngược lại lạm phát của các nhóm
hàng phi LTTP và lạm phát bình quân lại tăng thì bước sang năm 2006, cả 4
chỉ tiêu lạm phát CPI, LTTP, phi LTTP và lạm phát bình quân đều giảm so
với năm ngoái.
Bảng 4: Diễn biến lạm phát từ năm 2003-2006
Đơn vị: % tăng giảm
2003 2004 2005 2006
I. So với đầu năm

CPI 3.0 9.5 8.4 6.6
I. Hàng LTTP:
I- Hàng ăn và dịch vụ ăn uống 2.8 15.6 10.8 7.9 ↓
T/đó:
1-Lương thực 2.9 14.3 7.8 14.1
2- Thực phẩm 2.9 17.1 12.0 5.5
II- Hàng phi LTTP 2.8 4.7 6.4 3.8
II- Đồ uống thuốc lá 3.5 3.6 4.9 5.2
III- May mặc giày dép mũ nón 3.4 4.1 5.0 5.8
IV-Nhà ở vật liệu xây dựng 4.1 7.4 9.8 5.9 ↓
V- Thiết bị đồ dùng gia đình 1.9 3.6 4.8 6.2
VI- Dược phẩm y tế 20.9 9.1 4.9 4.3 ↓
VII- Phương tiện đi lại, bưu điện -2.0 5.9 9.1 4.0 ↓
VIII- Giáo dục 4.9 -1.8 5.0 3.6 ↓
IX- Văn hoá, thể thao, giải trí -1.3 2.2 2.7 3.5
X- Hàng hoá dịch vụ khác 4.3 5.2 6.0 6.5
III- Bình quân 3.2 7.7 8.3 7.4
(Nguồn: TCTK)
Trong 10 nhóm hàng hoá, thì 5 nhóm hàng có mức tăng thấp hơn so
với mức tăng của năm 2005, đó là: LTTP, Phương tiện đi lại bưu điện, Nhà
ở vật liệu xây dựng, Giáo dục, Dược phẩm y tế, 5 nhóm còn lại là May mặc,
mũ nón giày dép, Thiết bị đồ dùng gia đình, Đồ uống thuốc lá, Văn hoá thể
thao giải trí, Hàng hoá dịch vụ khác lại có mức tăng cao hơn năm ngoái.
* Năm 2007
Đây là năm đầu tiên Việt Nam là thành viên chính thức của WTO.
Đây cũng là năm bắt đầu cho lạm phát cao trở lại Việt Nam. Giá tiêu dùng
tháng 12 tăng tới 2,91%, không những cao nhất so với các tháng trong năm
(kể cả tháng 2 là tháng có Tết Nguyên đán cũng chỉ tăng 2,17%), mà còn
tăng cao nhất so với tốc độ tăng trong tháng 12 của mười mấy năm qua. Do
giá tháng 12 tăng cao như vậy, nên tính chung 12 tháng (tháng 12.2007 so

với tháng 12.2006), giá tiêu dùng tăng 12,63%, cao nhất trong 11 năm qua.
Hầu hết 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng đều tăng. Trong 11
nhóm hàng hóa, dịch vụ, nhóm thực phẩm (chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
"rổ" hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng) giá tăng cao nhất (tháng 12 tăng tới 4,69%,
cả năm tăng tới 21,16%). Nhóm lương thực (nhóm chiếm tỷ trọng lớn thứ
hai trong "rổ" hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng) có giá tăng cao thứ ba (tháng 12
tăng 2,98%, cả năm tăng 15,4%). Tình hình này tưởng rằng sẽ làm cho nông
dân có lợi, nhưng đó chỉ là "được mùa thì mất giá, được giá thì mất mùa" -
điệp khúc lặp đi lặp lại đối với người nông dân, một bộ phận đi trước nhất
nhưng lại yếu thế nhất trong kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập.
Giá nhà ở và vật liệu xây dựng (gồm tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất
đốt và vật liệu xây dựng) tháng 12 tăng 3,28%, cả năm tăng tới 17,12% (cao
thứ hai sau nhóm thực phẩm). Giá vật liệu xây dựng tăng cao đã làm cho giá
bất động sản tăng kép (tăng do giá đất tăng, tăng do giá xây dựng tăng), khác
với các lần sốt trước chỉ có giá đất tăng. Tình hình trên làm cho những người
thu nhập thấp khó có khả năng "cải thiện" nhà ở.
Giá phương tiện đi lại, bưu điện tháng 12 tăng 4,38%, nhưng nếu
không kể giá bưu điện giảm (- 0,77%) thì giá phương tiện đi lại còn tăng cao
hơn nữa, do giá xăng dầu tăng cao.
* Năm 2008
Tiếp tục đà tăng giá của năm 2007, năm 2008 lạm phát được dự báo là sẽ
giữ nguyên mức tăng thậm chí là còn có thể cao hơn. Tốc độ GDP năm 2008
tăng 6,18% so với năm 2007. Trong 6 tháng đầu năm 2008 lạm phát tăng
mạnh, từ tháng 7 giảm dần và đạt mức âm vào tháng 3 quý IV. Tính chung
cả năm chỉ số CPI tăng 19,89 cao hơn nhiều so với năm 2007.
Hình 9: Chỉ số giá tiêu dùng năm tháng đầu năm 2008
(Nguồn: TCTK)
Trong tháng đầu tiên của năm mới 2008, chỉ số giá tiêu dùng trên cả
nước tăng 2,38%. Đáng chú ý là tốc độ tăng giá tại nông thôn và các vùng
khó khăn về kinh tế lại cao hơn tại các thành phố lớn. Giá cả tháng 2 đã tăng

với tốc độ kỷ lục 3,56% và đưa chỉ số giá tiêu dùng trong 2 tháng đầu năm
lên gần 6%, trong khi mục tiêu cả năm là kiểm soát CPI ở dưới 8,5%.Chỉ số
giá tăng mạnh chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng của người dân cả nước đột biến
trong dịp Tết. Trong khi các nhóm hàng khác giữ ổn định hoặc tăng nhẹ trên
dưới 1%, giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống vọt lên tới 6,18%, làm động lực
đẩy CPI đi lên. Trong đó, giá các loại lương thực leo thang 3,2%, và thực
phẩm đắt hơn trước 7,53%. Người tiêu dùng sử dụng các dịch vụ ăn uống
ngoài gia đình cũng phải trả các khoản chi phí cao hơn trước đến 5,7%. Một
nhóm khác cũng bước vào cuộc đua tăng giá là các dịch vụ văn hóa, thể thao
và giải trí, do nhu cầu vui chơi của người dân tăng cao trong những ngày
Tết. Giá nhóm này nhích lên 2,34% so với tháng đầu năm. Một số nhóm
hàng và dịch vụ khác có nhu cầu cao trong Tết cũng tăng nhẹ, như đồ uống
và thuốc lá 1.89%; may mặc, mũ nón, giày dép 1,36%; nhà ở 1,39%; phương
tiện đi lại 1,51%.
Tháng 3 năm 2008 giá tiêu dùng tăng 2,99% so với tháng trước và
tăng 9,16% so với tháng 12 năm 2007. Tốc độ này tuy thấp hơn tốc độ tăng
của tháng 2, nhưng là tháng 3 có tốc độ tăng cao nhất trong 18 năm qua.
Tháng 4, chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp hơn tháng trước, chỉ ở mức 2,2%,
nhưng vẫn góp phần vào mức lạm phát kỷ lục 11,6% trong 4 tháng qua.
Tính chung trong 5 tháng đầu năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng
15,96%, và so với cùng kỳ năm ngoái đã tăng hơn 19,09%. Nếu như chỉ số
tiêu dùng tháng 4 đã có dấu hiệu giảm nhiệt thì sang đến tháng 5, do cơn sốt
giá gạo chỉ số CPI lại tăng 3,91%. Không giống diễn biến nhóm hàng lương
thực, nhóm hàng thực phẩm chỉ tăng 2,28%, nhà ở - vật liệu xây dựng (gồm
cả chất đốt, giá thuê nhà, điện nước, các loại vật liệu xây dựng quan trọng
như sắt, thép, ximăng) cũng chỉ tăng 1,2% so với tháng 4-2008. Ngoài ra,
nhiều mặt hàng khác đã giảm tốc độ tăng giá khá nhanh như dược phẩm y tế
chỉ còn tăng 0,48%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng 0,34% so với tháng 4-
2008. Đa số các mặt hàng, dịch vụ khác đều tăng dưới 1% như thiết bị đồ
dùng gia đình, văn hóa thể thao giải trí và may mặc mũ nón giày dép.

2.Giai đoạn từ năm 2009 – 6 tháng đầu năm 2012
*Năm 2009
Theo đà suy giảm kinh tế cuối năm 2008, tốc độ tăng GDP quý I/2009
chỉ đạt 3,14% là quý có tốc độ tăng thấp nhất trong nhiều năm gần đây.
Nhưng quý II, quý III và quý IV của năm 2009, tốc độ tăng
GDP đã tăng lên lần lượt là 4,46%, 6,04% và 6,9%. Tính
chung cả năm 2009 GDP tăng 5,32%. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế năm 2009 tuy vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,18% của
năm 2008 nhưng đã đạt mục tiêu tăng 5% của kế hoạch.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế
tăng trưởng âm mà kinh tế nước ta tăng trưởng dương tương
đối cao như trên là 1 thành công lớn. Tốc độ tăng GDP quý I
và quý II năm 2009 thấp hơn tốc độ tăng của quý I và quý II
năm 2008 nhưng quý III năm 2009 tăng 6,04% cao hơn tốc
độ tăng 5,98% của quý III/2008 và quý IV năm 2009 tăng
6,9% cao hơn tốc độ tăng 5,89 của quý IV/2008 cho thấy nền
kinh tế nước ta đã vượt qua thời kì suy giảm tốc độ tăng
trưởng chứng tỏ các chính sách giải pháp ngăn chặn suy
giảm kinh tế của chính phủ đề ra, được triển khai trong năm
vừa qua phù hợp với tình hình thực tế đã và đang phát huy
hiệu quả.

* Năm 2010
Sáng ngày 24/12/2010, Tổng cục thống kê đã công bố chỉ số tiêu
dùng (CPI) tháng 12/2010 của cả nước tăng 1,98%, qua đó đẩy mức lạm
phát năm của cả nước 2010 lên 11,75% so với năm 2009. Con số này vượt
gần 5% so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm (khoảng 8%).Trong
khi đó, nếu tính bình quân theo từng tháng (cách tính mới của Tổng cục
thống kê), chỉ số lạm phát năm 2010 tăng 9,19% so với năm 2009.
Trong tháng 12, CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,31% trong đó

nhóm lương thực tăng 4,67%, thực phẩm tăng 3,28% so với tháng 11. Ngành
bưu chính viễn thông giảm nhẹ 0,02% so với tháng trước. Tính chung CPI
năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%. Tiếp đó là hàng ăn
(16,18%), nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Các ngành Giao thông, hàng
hóa & dịch vụ khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn
thông là nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong năm 2010.
Trong năm 2010, chỉ số giá vàng tăng 36,72%, chỉ giá USD tăng 7,63%.
Về CPI của các vùng miền, đáng chú ý là chỉ số CPI khu vực nông thôn
tháng 12 tăng 2,04%; cao hơn 1,87% của khu vực thành thị.
Diễn biến giá tiêu dùng trong năm 2010 (số liệu từ Tổng cục Thống kê).
* Năm 2011
Tổng cục Thống kê công bố chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 12 và cả
năm 2011. Theo đó, tháng 12, CPI cả nước tăng 0,53% so với tháng trước đó
kéo lạm phát cả năm lên mức 18,58%. Đây là tháng cuối năm nên có đến
10/11 nhóm hàng trong rổ tính toán chỉ số giá tiêu dùng của Tổng cục Thống
kê đều có mức tăng so với tháng trước. Trong đó thủ phạm chính vẫn là
nhóm hàng lương thực, với mức tăng cao nhất 1,4% khiến cho chỉ số của
nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng lên 0,69% so với tháng trước.
Tuy nhiên, do nhóm hàng thực phẩm và nhóm ăn uống ngoài gia đình chỉ
nhích nhẹ lần lượt là 0,49% và 0,57% nên nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống
vẫn chỉ đứng thứ 2 sau nhóm may mặc, mũ nón, giày dép. Duy nhất chỉ có
nhóm Bưu chính viễn thông giảm 0,06%.
Tháng cuối năm nhu cầu đi lại chưa nhiều nhưng cũng ghi nhận mức tăng
giá so với tháng trước với 0,16%.
Nhu cầu sửa nhà và sắm sửa các vật dụng gia đình để đón Tết tăng mạnh
khiến cho mức giá của nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng và nhóm thiết bị và
đồ dùng gia đình tháng này cũng tăng so với tháng trước lần lượt là 0,51%
và 0,68% (đứng thứ 3 và 4 trong nhóm có mức tăng mạnh nhất).
Cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê, so với năm 2010, chỉ số giá tiêu
dùng cả năm 2011 tăng 18,58% - cao hơn nhiều so với mục tiêu mà Chính

phủ đề ra cũng như các dự báo trước đó của các bộ ngành và giới phân tích.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, thủ phạm chính đẩy lạm phát tăng cao
vẫn là giá thực phẩm, lương thực tăng mạnh với mức 29,34% và 22,82%.
Giao thông đi lại cũng nằm trong nhóm có mức tăng cả năm khá cao gần
16%. Nhóm giáo dục được cho là bị tác động mạnh nhất bởi các yếu tố liên
quan khác như giá nguyên vật liệu đầu vào, trượt giá chung…nên có mức
tăng đến 23,18% so với năm ngoái.
Không tính vào rổ hàng hóa tính chỉ số lạm phát song giá vàng được coi là
một trong những sự kiện đáng chú ý của năm 2011 khi liên tiếp lập các kỷ
lục mới. Theo Tổng cục Thống kê, trong năm 2011, giá vàng đã tăng 39%.
Tỷ giá USD cũng tăng đến 8,47% so với năm 2010.

* 6 tháng đầu năm 2012
Quả thật, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong 6 tháng đầu năm 2012 giảm
tốc khá nhanh, vượt mọi dự báo và tạo sự ngỡ ngàng cho nhiều người.
So với tháng trước, CPI tháng 1/2012 tăng 1% và tháng 2/2012 tăng 1,37%
(bằng mức cùng kỳ năm 2009, nhưng là mức thấp nhất trong vòng 10 năm
qua), tháng 3/2012 CPI chỉ tăng 0,16% (mức tăng thấp nhất trong vòng gần
2 năm qua, tăng 2,55% so với tháng 12/2011 và tăng 14,15% so với cùng kỳ
năm trước). CPI tháng 4/2012 chỉ tăng 0,05% và là tháng thứ 9 liên tiếp tăng
chậm lại so với tháng cùng kỳ (tháng 8/2011 tăng 23,02%; tháng 9/2011
tăng 22,42%; tháng 10/2011 tăng 21,59%; tháng 11/2011 tăng 19,83%;
tháng 12/2011 tăng 18,13%; tháng 1/2012 tăng 17,27%; tháng 2/2012 tăng
16,44%, tháng 3/2012 tăng 14,15%). Tổng cộng CPI trong 4 tháng đầu năm
2012 đã tăng 2,6% so với tháng 12/2011 và tăng 10,54% so với tháng
4/2011.CPI tháng 5/2012 tăng trở lại với mức tăng 0,18% so tháng trước và
tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước. CPI tháng 6/2012 đã giảm 0,26% so
với tháng trước, tức sau 38 tháng tăng liên tục (kể từ tháng 3/2009). So với
12/2011, CPI tháng này còn tăng 2,52%; so với tháng 6/2011 chỉ còn tăng
6,9%, không bằng 1/3 so với đỉnh lạm phát theo năm vào tháng 8/2011.

Nhìn chung, trong 6 tháng đầu năm 2012, mức tăng giá âm duy nhất thuộc
về nhóm dịch vụ bưu chính viễn thông. Nhóm hàng hóa tăng mạnh nhất vẫn
là lương thực, thực phẩm, ăn uống, giáo dục và giao thông. Nhóm hàng tăng
thấp là thuốc và dịch vụ y tế, tiếp đó là văn hóa phẩm, dịch vụ du lịch, giải
trí…Ngoài ra, tỷ giá VND với USD rất ổn định (tăng 0,32%), chỉ số giá
vàng khá ổn định (tăng 16,24%), tức chỉ bằng khoảng 1/2 so với mức tăng
cùng kì của năm trước. Tuy nhiên, CPI tính trong 6 tháng đầu năm 2012 so
với cũng kỳ năm 2011 với mức tới 12,2% vẫn là rất cao, thậm chí gấp tới 3 -
4 lần nếu so với mức lạm phát trung bình của các khu vực và thế giới trong
cùng kỳ so sánh.
CHƯƠNG III
TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT
I. Mối quan hệ lạm phát, thất nghiệp lãi suất, tiền tệ
1.Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp:
Chúng ta đều biết rằng để kiềm chế lạm phát Nhà nước sẽ thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt, tức là giảm mức cung tiền và tăng lãi suất , nhưng phải
chấp nhận tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. Nhưng thực tế , thì lý thuyết đó chỉ phù
hợp trong 1 thời gian ngắn.
Trong dài hạn , tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên phụ thuộc vào thuộc tính thị trường
lao động còn tỷ lệ lạm phát phụ thuộc trước hết vào sự gia tăng cung tiền ,
do đó lạm phát và thất nghiệp không liên quan nhiều đến nhau. Lúc này các
chính sách tác động tới Tổng cầu chỉ ảnh hưởng tới các biến danh nghĩa
( mức giá, tỷ lệ lạm phát), mà không có ý nghĩa với các biến thực tế ( sản
lượng , tỷ lệ thất nghiệp).
Năm 2005, lực lượng lao động tại VN có việc làm là 43,46 triệu người,
chiếm 97,9% lực lượng lao động cả nước.Tỉ lệ tăng trưởng việc làm 2,67%;
cơ cấu việc làm tiếp tục chuyển dịch tích cực: Lao động trong khu vực dịch
vụ chiếm 25,33%; công nghiệp và xây dựng chiếm 17,88%; nông nghiệp
chiếm 56,79%… - Lao động qua đào tạo chiếm khoảng 25%, trong đó 19%
qua đào tạo nghề.

Theo đánh giá chung, thực trạng và xu thế phát triển lao động-việc là giai
đoạn 2001-2005 của nước ta có nhiều chuyển biến tích cực về đào tạo, giải
quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị, tăng tỷ lệ thời
gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn, tiếp tục chuyển dịch cơ
cấu lao động …
Thực tế các DN trong các khu công nghiệp đã phải cắt giảm lao động do suy
giảm kinh tế nhưng không phải tất cả những lao động này đều rơi vào tình
trạng thất nghiệp mà phần lớn họ về quê tìm việc làm mới, có thể không phù
hợp nhưng vẫn có thu nhập, dù thấp.
Chính phủ đã có những giải pháp chống suy giảm kinh tế, duy trì tăng
trưởng và bảo đảm an sinh xã hội; giải pháp kích cầu đầu tư, tiêu dùng ,
hoàn thiện bảo hiểm thất nghiệp để hỗ trợ lao động tìm việc, nâng cao chất
lượng lao động, cắt giảm thuế tiêu thụ, , chú trọng đầu tư cho giáo dục, đào
tạo nghề cho bà con ở vùng nông thôn, mở rộng xuất khẩu lao động, hạn chế
tăng dân số để thúc đẩy sản xuất phát triển trở lại ,tạo việc làm cho người
lao động.
2.Quan hệ lạm phát và lãi suất
Hiệu ứng fícher do nhà kinh tế học irving físher đưa ra vào thời kì khủng
hoảng 1930-1939. Đây là nội dung quan trọng trong thuyết số lượng tiền tệ
của ông nhằm mục đích lí giải hiện tượng khủng hoảng kinh tế . ông cho
rằng nguyên nhân chủ yếu của Đại khủng hoảng là tín dụng dễ dãi dẫn đến
nợ nần quá mức gây ra đầu cơ và các bong bóng xà phòng và khi bong
bóng xà phòng bị vỡ dẫn đến tài sản giảm giá, đói tín dụng , ảnh hưởng các
ngành sản xuất dẫn đến giảm phát .
Hiệu ứng fsher mô tả mối quan hệ giữa tỉ lệ lạm phát và hai loại lãi suất là
lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế . khi tỉ lệ lạm phát tăng dẫn đến lãi
suất danh nghĩa tăng lên cùng một tỉ lệ trong khi lãi suất thực tế không đổi
lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực tế + tỉ lệ lạm phát.
Ví dụ , ngân hàng trả cho khoản tiết kiệm mà bạn gửi ttrong một năm với
lãi suất danh nghĩa 8%, tỉ lệ lạm phát trong thời gian đó là 6%. Lãi suất

thực tế mà bạn nhận được chỉ là 2%. Bởi vì theo hiệu ứng físher 8%-
6%=2%. Vì vậy khi lạm phát tăng 1% thì lãi suất danh nghĩa cũng tăng 1%.
3.Mối quan hệ lạm phát và tiền tệ
Khi nghiên cứu về lý thuyết tiền tệ, ta đã biết dạng thức MS = Md (i,
Y) khi thị trường tiền tệ cân bằng. Xét trong dài hạn, lãi suất thực tế (i) sản
lượng thực tế (Y) đạt mức cân bằng nghĩa là ổn định (Y đạt tiềm năng), cầu
tiền thực tế là không đổi và do vậy MS cũng sẽ không thay đổi. Điều đó có
nghĩa là nếu lượng cung tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả (P) cũng
tăng với tỷ lệ tương ứng, nói cách khác tỷ lệ lạm phát sẽ bằng tỷ lệ tăng tiền.
Như vậy, lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Điều này xảy ra trong thực tế
khi nền kinh tế gặp phải cơn sốc (ví dụ giá đầu vào tăng lên) làm cho lượng
tiền thực tế nhất thời giảm xuống. Chính phủ cần phải tăng mức cung tiền
danh nghĩa để đảm bảo nhu cầu thực tế. Nhưng vì sản lượng và việc làm
không đổi, lãi suất thực tế cũng không đổi, chỉ có mức cung tiền danh nghĩa,
giá cả cũng như tiền lương danh nghĩa tăng lên Tuy nhiên lịch sử lạm phát
cũng chỉ ra rằng không có cuộc lạm phát cao nào mà không có sự tăng
trưởng mạnh mẽ về tiền tệ. Lượng tiền tăng càng nhanh thì lạm phát càng
cao và bất kỳ một chính sách vĩ mô nào giảm được tốc độ tăng tiền cũng dẫn
đến giảm tỷ lệ lạm phát và điều này đặc biệt phù hợp với thời kỳ ngắn hạn.
Khi ngân sách thâm hụt lớn hơn các chính phủ có thể in thêm tiền để trang
trải , lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Và
một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới lại nảy sinh đòi hỏi phải in
thêm một lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy
ốc này thường xảy ra trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên các chính phủ
có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay dân qua bán tín phiếu. Lượng tiền
danh nghĩa không tăng thêm nên không có nguy cơ lạm phát, nhưng nếu
thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn lãi) sẽ lớn đến
mức cần phải in thêm tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là
điều chắc chắn.
II. Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế

1. Tác động đối với sản lượng
Đi đôi với tăng giá, sản lượng quốc dân cũng thay đổi theo, nó có thể
tăng, giảm hoặc cũng có khi không đổi.
Lạm phát do cầu: thì sản lượng có thể tăng nhưng tăng bao nhiêu,
tăng nhiều ít như thế nào lại còn phụ thuộc vào độ dốc của đường tổng cung.
Khi sản lượng cân bằng ở dưới mức sản lượng tiềm năng, dịch chuyển của
đường tổng cầu sẽ làm cho sản lượng gia tăng lên. Nhưng khi mức sản lượng
cân bằng cao hơn mức sản lượng tiềm năng thì sự gia tăng tổng cầu sẽ tạo ra
sự tăng lên nhanh chóng của mức giá chung, lạm phát tăng nhanh.
Lạm phát do cung: thì sản lượng giảm giá cả tăng cao, nền kinh tế rơi
vào thời kỳ đình trệ-lạm phát. Sụt giảm sản lượng như thế nào còn phụ thuộc
vào độ dốc của đường tổng cầu
2. Tác động đối với phân phối lại thu nhập và của cải
Nói chung lạm phát tác động đối với phân phối thu nhập ở mức đô
nào còn phải phụ thuộc ở nhiều yếu tố và nhiều nhóm tác nhân kinh tế. Khóa
luận xin nêu đưa ra 1 số hướng tác động như sau:
* Tác động tới người cho vay và người đi vay:
Khi nền kinh tế có lạm phát thì mối quan hệ giữa người vay và người cho
vay được xem xét theo lãi suất thực. Thu nhập được chuyển từ người đi vay
sang người cho vay khi lạm phát trong thực tế khác với mức lạm phát dự
kiến và ngược lại.Chênh lệch giữa lạm phát thực tế và lạm phát dự kiến càng
cao thì mức độ phân phối càng nhiều.
Muốn tránh được sự phân phối lại này thì quá trình cho vay phải được xác
định theo lãi suất thả nổi, mức lãi suất này phải luôn luôn được xác định
theo công thức:
Lãi suất thả nổi= Lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
* Tác động giữa người hưởng lương và ông chủ:
Nói chung tốc độ tăng tiền công hầu như chậm hơn so với tốc độ tăng của
giá. Vì vậy những người lao động hưởng lương bao giờ cũng bị thiệt thòi và
người được lợi là các ông chủ. Quá trình phân phối này chỉ không diễn ra

khi tốc độ tăng của tiền công bằng với tốc độ tăng của giá.
* Tác động giữa người mua và người bán tài sản tài chính
Đa số các loại tài sản tài chính có mức lãi suất danh nghĩa cố định. Như vậy
khi có lạm phát xảy ra người nắm trong tay lượng trái phiếu sẽ bị thiệt và
người lợi sẽ là người phát hành trái phiếu.
* Tác động giữa các doanh nghiệp với nhau
Do tỷ lệ tăng giá hàng hóa trong khi lạm phát không giống nhau, vì vây
những doanh nghiệp nào mà sản xuất và tồn kho những mặt hàng có tỷ lệ
tăng giá chậm sẽ bị thiệt thòi.
* Giữa chính phủ và công chúng
Đa phần thì khi xảy ra lạm phát thu nhập của công chúng sẽ chuyển sang tay
chính phủ. Vì 3 lý do sau : (1) chính phủ nợ dân chủ yếu là dưới dạng tài sản
tài chính và món nợ này lại không nhỏ; (2) các khoản chi trả lương, trợ
cấp… thường cố định trong một thời gian dài, kể cả có thay đổi thì cũng
không kịp tốc độ thay đổi của giá; (3) các hoạt động thuế lũy tiến như thuế
thu nhập, sẽ tăng lên nhanh chóng, vì lạm phát đẩy thu nhập của dân chúng
tăng lên và chịu ở mức thuế suất cao hơn.
Tác động chính của về phân phối lại của lạm phát xảy ra thông qua
ảnh hưởng của nó đối với giá trị thực trên của cải của mọi người. Nhìn
chung “ lạm phát không dự kiến được thường có xu hướng chuyển của cải từ
tay người chủ nợ sang tay con nợ, giúp người đi vay và làm thiệt người cho
vay. Trong trường hợp lạm phát giảm xuống không lường trước được thì sẽ
có ảnh hưởng ngược lại. Tuy nhiên lạm phát chỉ làm xáo trộn thu nhập và tài

×