Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Văn học ấn độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.88 KB, 6 trang )

Ấn Độ là đất nước mộ đạo và trọng triết học vào bậc nhất trên thế giới. Đây là quê
hương của 2 trong số những tôn giáo lớn nhất là đạo Phật, Hindu và là ngôi nhà
chung của nhiều tôn giáo khác, trở thành một tiểu vũ trụ của các tôn giáo và các nền
triết học. Các tôn giáo và triết học chung sống với nhau một cách khá hòa thuận, vì
người Ấn không bao giờ ảo tưởng như một số dân tộc khác cho rằng mình có chân lý
cuối cùng, chân lý tuyệt đối, không cần phải tiếp tục mọt sự tìm kiếm nào nữa. Theo
họ, chân lý có nhiều phương diện, mỗi người chỉ có thể tiếp cận một phương diện của
chân lý. Hệ quả là các tôn giáo ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng lẫn nhau, đức Phật là
một kiếp của thần Visnu trong Hindu giáo. Đó là cơ sở dẫn đến tinh thần mẹ hiền Ấn
Độ.
Bởi vậy không có gì ngạc nhiên khi tôn giáo trở thành kim chỉ nam cho các hoạt
động của người Ấn Độ, từ nghiên cứu khoa học, hoạt động xã hội, cho đến văn học
nghệ thuật. Ý kiến cho rằng “Tôn giáo đọc cho văn học chép” một lần nữa khẳng định
vai trò và tầm ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo đến đời sống văn học.
Tôn giáo là một phần không thể thiếu trong đời sống xã hội, trong tâm hồn mỗi
người. Dù theo hoặc không theo một tôn giáo nào thì trong mỗi con người luôn tồn tại
một đức tin nhất định, đức tin ấy chi phối phần nào những hành động và suy nghĩ của
chúng ta. Bởi vậy tác phẩm văn học – sự phản ánh cuộc sống và tâm hồn con người –
sẽ thể hiện phần nào yếu tố tâm linh, tôn giáo. Nhưng không một nền văn học nào trên
thế giới mà yếu tố này lại đậm nét như văn học Ấn Độ. Có thể nói rằng tôn giáo thống
ngự văn học, tác phẩm văn chương như một cách thức, con đường thể hiện tinh thần,
tư tưởng tôn giáo. Quá trình sáng tạo của nghệ sĩ được nhìn nhận như một hành vi tôn
giáo, thao tác tâm linh, tác phẩm văn học được xem như một sách đạo tuyên truyền
giáo lí, thưởng thức văn chương như một phương cách gột rửa tâm hồn … tất cả đều
toán lên tinh thần tôn giáo. Nhưng cũng cần hiểu thêm rằng tôn giáo còn như là một
cách nhìn nhận thế giới.
Người Ấn Độ cho rằng: “Người nào đọc Mahabharata mà tin những thuyết trình
bày trong đó thì gột được hết những tội lỗi của mình và chắc hắn chết đi sẽ được lên
Thiên đường … Món bơ bổ hơn các món ăn khác ra sao, các người Bà La Môn cao quí
hơn các người ra sao ... đại dương so với một cái ao nhỏ, mênh mông ra sao, con bò
1


cái quí hơn các loài bốn chân khác ra sao, thì Mahabharata cũng cao quí hơn, mênh
mông hơn các truyện khác như vậy … Người nào chăm chú nghe các Shooka trong
Mahabharata mà tin thì sẽ trường thọ, có danh tiếng vững vàng trên cõi trần này và
kiếp sau sẽ được hưởng vĩnh phúc trên cõi Thiên đường”. Bởi sử thi Ấn Độ được xem
như là những pho sách thể hiện rõ tư tưởng của Hidu giáo, sách dạy về bổn phận, chủ
yếu là bổn phận của Kshatrya – chiến binh vua chúa. Đẳng cấp này thường chọn con
đường hành động, đó là hành động vô cầu (không tính đến hậu quả của hành động).
Trong Mahabrahata, anh cả các Panava giải thích là nếu quay về vương quốc chiến
đấu thì thất bại. Nhưng người vợ lại khẳng định: bổn phận của chúng ta là phải chiến
đấu không cần tính đến hậu quả của hành động. Đó là lời khẳng định chắc chắn về
con người bổn phận và sự lựa chọn con đường giải thoát.
Sử thi nổi danh Ramayana nếu xét về sự hoàn chỉnh của một sử thi thuần khiết thì
có thể kết thúc ở chương 78 khi Rama tiêu diệt được các Ravana nhưng Vakmiki
miêu tả cuộc tái ngộ giữa Rama và Sita để khắc họa đậm nét hơn lòng trung thành
tuyệt đối, việc thực hiện bổn phận của Kshatrya của Rama và Sita. Điều này thể hiện
rõ trong đoạn Rama buộc tội. Trong đoạn này, ngôn ngữ, hành động và tâm trạng của
Rama như thuộc về 2 con người, con người bổn phận vị tha và quyền lợi vị kỉ. Sự
mẫu mực của gia đình Rama đã bị nghi ngờ khi Sita rơi vào vòng tay của quỉ. Rama
phải chứng minh nàng trong sạch để khẳng định sự mẫu mực của gia đình. Những lời
buộc tội của chàng không phải là ghen tuông hay đa nghi mà là sự hi sinh vì cộng
đồng. Sita phải chứng minh bản thân, điều này diễn ra trước thần dân và cho thần dân
chứ không phải cho Rama. Bởi hơn ai hết, Rama hiểu sâu sắc vợ của mình. Chàng đã
trò chuyện với thần lửa ở chương 80 rằng: “Cũng như nước biển không thể bị biển
vượt qua, nàng không thể bị khuất phục bởi Ravana. Hắn không thể đụng tới nàng
cũng như không thể đụng tới ngọn lửa tinh khiết”. Và người anh hùng chỉ thực sự
bước lên đài vinh quang chiến thắng khi nàng Sita chứng minh được sự trong sạch
của bản thân, khi chàng thực thi trọn vẹn bổn phận với cộng đồng. Bởi “Chiến thắng
hàng ngàn người, hàng ngàn lần trên chiến trường chẳng bằng người tự thắng. Người
tự thắng là người vinh quang nhất” (Kinh Pháp cú). Điều này gợi nhắc đến vở Lơxit
của Corney. Cả Simen và Rogirgo đều chọn danh dự, bổn phận làm đầu. Nên vì

2
Rogirgo đã giết cha của Simen và Simen cầu khẩn nhà vua giết anh ta để rửa hận cho
cha. Trong sự tranh đấu giữa tư duy và tình cảm, cá nhân và cộng đồng đầy khó khăn,
đau đớn ấy, nhân vật bắt buộc phải lựa chọn và cuối cùng bổn phận luôn được đặt lên
hàng đầu. Rama đã hoàn thành trọn vẹn bổn phận cai trị vương quốc của một trang
Kshatrya chân chính. Lòng trung thành tuyệt đối với bổn phận đạo đức đã khiến
chàng trở thành một biểu tượng mẫu mực cho Dharma. Cũng bởi lẽ đó mà nhân dân
Ấn Độ tôn thờ, coi chàng là “hiện thân của Dharma”. Trong một sự đối sánh, chúng ta
thấy rằng con người lí tưởng của sử thi Ấn độ khác con người lí tưởng của sử thi
Hilap: Ấn Độ ca ngợi phẩm chất đạo đức, Hi Lạp ca ngợi sự dũng cảm, những chiến
công.
Sự chi phối mạnh mẽ của tôn giáo đối với văn học còn thể hiện đậm nét qua dòng
thơ sùng tín. Nó bắt nguồn từ quan niệm về con đường thứ ba đi đến giải thoát (hạnh
phúc) của Hindu giáo. Đi con đường này, tín đồ chỉ cần dâng tình yêu lên một Đấng
Tối Cao là có thể đạt tới hạnh phúc, thay vì phải khổ hạnh theo con đường thứ nhất
hay thực hiện hành động vô cầu (không mưu cầu kết quả của hành động) theo đòi hỏi
của con đường thứ hai. Thơ sùng tín được khơi nguồn dòng chảy từ rất sớm khoảng
thế kỷ 7TCN, nhưng phải đến thế kỷ 11- 17, nó mới dâng cao, lan rộng trên toàn tiểu
lục địa và trở thành thành tựu duy nhất của văn học trung đại. Một trong những
nguyên nhân chủ yếu khiến thơ sùng tính phát triển mạnh mẽ vào thời kì này là do đất
nước Ấn Độ thời trung đại lần lượt bị các nước hồi giáo xâm lược. Đạo Hồi ào ạt xâm
nhập. Trước sức tấn công mạnh mẽ của Hồi giáo, Hindu giáo phải tự mình canh tân
thể loại. Thay vì nhấn mạnh vào những con đường khó đi như con đường thứ nhất
thời Upanishad hay con đường thứ hai thời sử thi, nó tập trung vào con đường rộng
mở nhất: con đường sùng tín để thu hút tín đồ.
Có thể phân chia thành 4 trường phái tùy theo đấng Tối Cao mà các nhà thơ Sùng
tín thời phụng.
- Thứ nhất: thờ thần Shiva và vợ của thần là nữ thần Kali làm nên phong trào Sùng
tín Shiva.
- Thứ hai: phong trào Sùng tín Vishnu gồm các nhà thơ dâng trọn tình yêu cho

Rama hoặc Krishna (hai kiếp hóa thân quan trọng nhất của Thần Vishnu).
- Thứ ba: thờ Đấng Tối Cao ở tại tâm ta.
3
- Thứ tư: bày tỏ tình yêu lên một Đấng Tối Cao huyền bí vượt quá khả năng nhận
thức của con người. Người ta chỉ nhận biết được Ngài qua những sáng tạo của Ngài
mà thôi. Ngài là chân lý vĩnh hằng.
Nhân vật trữ tình là cá nhân bày tỏ lòng sùng kính lên Đấng Tối Cao- lực lượng
siêu nhiên. Thơ Dâng (Tagore) thực chất là dâng tặng tình yêu lên một đấng tối cao.
Tập thơ mượn lời của một tín đồ dâng tặng tình yêu lên đấng tối cao trong đó đấng
Tối Cao được ẩn dụ thành ông chủ, mẹ- cha, người tình …
Một trong những cây bút tiêu biểu cho dòng thơ sùng kính là Kabir. Ông theo
trường phái thờ Đấng Tối Cao ở tại tâm, là nhà thơ trữ tình bậc nhất thời kỳ trung cổ.
Ông là phát ngôn viên xuất sắc của phong trào Thơ Thần bí- một chủ lưu quan trọng
của dòng Thơ Sùng Tín. Ông sống bằng nghề thợ dệt, dệt nên sợi dây liên kết con
người, suốt đời ông đấu tranh để tìm ra sự hòa hợp giữa đạo Hồi và đạo Hindu.
Thơ Kabir là những bài ca thể hiện trực tiếp sự tôn kính tuyệt đối trước đấng tối
cao:
Tình yêu giữa Người và tôi có thể bị chia cắt sao?
Như chiếc lá sen nằm trên mặt nước:
Người là vị Chúa Tể của tôi, còn tôi chỉ là đầy tớ.
Như con chim chakor, đêm nào cũng chăm chú nhìn ra bóng tối để thấy mặt trăng.
Người là vị chúa tể, còn tôi chỉ là đầy tớ”.
Thơ của ông mang tinh thần đấu tranh về sự bình đẳng của con người. Nó đập tan
những hàng rào giả dối của đẳng cấp, nghề nghiệp, tôn giáo bao đời ngăn cách con
người: Tu sỹ, chiến binh, thương nhân và ba mươi sáu đẳng cấp đều tìm kiếm chúa
trời. Người thợ hớt tóc, bà nội trợ, người thợ mộc cũng tìm kiếm chúa Trời. Những
người Hindi và những người Hồi giáo đều đật đến cõi vĩnh hằng, đó là nơi không có
dấu vết của sự phân chia đẳng cấp”.
Những dòng thơ của ông đả phá những nghi lễ, hình thức của các tôn giáo. Điện
thánh giáo đường chỉ là những yếu tố vô nghĩa. Cái quan trọng phải là sự chân thành:

“Rửa miệng, tụng kinh, ngâm mình trong những dòng sông linh thiêng, quỳ lạy trong
các đền thờ, như vậy để làm gì khi mà miệng anh tụng niệm, chân anh hành hương còn
lòng anh thì gian trá”.
Kabir là một nhà thơ hướng đến sự toàn vẹn trong tôn giáo. Ông cho rằng cần phải
đi đến sự thống nhất giữa các tôn giáo, Allah- giáo chủ đạo Hồi và Rama- một vị thần
tối cao của đạo Hindu chỉ là những tên gọi khác nhau của một đấng tối cao
4
“Hãy nhìn vào trái tim mình, anh sẽ gặp cả Karim và Rama ở đó.
Tất thảy những đàn ông và phụ nữ trên trái đất đều là những hình thể sống động
của người”.
Vừa ca ngợi “một thế giới vô biên”, sự giải thoát, đấng tối cao “không thể miêu tả
bằng lời nói, không có hình, không có thân thể, bề cao, bề ngang”, nhà thơ vừa khẳng
định đấng tối cao Đấng tối cao không ở đâu xa, ngài tồn tại trong vũ trụ đồng thời ở
tại tâm ta “Người đã khiến thế giới bên ngoài với thế giới bên trong thành một thể bất
phân”. Vì thế thật đáng thương cho những kẻ cứ đi tìm Người ở tận đâu đâu “như con
hươu mang xạ trong người còn tìm kiếm mùi hương, con cá bơi trong nước mà than
khát”, nhà thơ thể hiện tinh thần tôn giáo ở 2 mặt đối lập, trần thế và xuất thế. Nó như
hai mặt của một tờ giấy, có mối quan hệ khăng khít và nương tựa lẫn nhau.
Dòng thơ sùng kính còn ghi nhận những tên tuổi khác như Jayadeva. Sống cuối
thế kỷ XII, thi sĩ nổi tiếng này vốn là một nhà thơ cung đình của vua Laksmansca ở
Bengal. Ông được người đương thời xem là một trong 5 viên ngọc quý của triều đình.
Việc thờ phụng Vishnu đã làm dấy lên một phong trào viết lại hai sử thi Maha và
Rama. Các thi sỹ sùng tín không viết lại theo hướng trung thành với bản gốc mà thể
hiện tư tưởng sùng tín của thời đại. Trong số những thi phẩm của phong trào này,
Mục tử ca là tác phẩm trung tâm. Tác phẩm giống như một vở kịch opera tuy nhiên
đến nay, phần âm nhạc trong vở kịch chỉ còn dấu vết trong những lời chỉ dẫn về hòa
âm hay giai điệu. Người ta còn gọi đó là kịch đồng quê, là bài ca của mọi bài ca Ấn
Độ,
Nhân vật chính là chàng mục đồng Krishna và cô gái chăn bò Radha. Chương đầu
là cảnh đôi bạn tình phải xa nhau trong mùa xuân. Cô gái nghi ngờ chàng trai đi chơi

với người khác. Nàng nhớ nhung người yêu:
Ôi em nhớ Hari, với những trò vui, với điệu vòng tình.
Sóng tóc chàng trang điểm lông công, đôi mắt tựa ánh trăng trong xinh đẹp
Và tấm thân là một đám mây mưa trĩu nặng, dát lên muôn sắc cầu vồng.
Ghen tuông, đau khổ, mong chờ:
Ôi em nhớ Hari, với những trò vui, với điệu vòng tình.
Nụ hồn của những thiếu nữ mục đồng làm chàng say đắm
Đôi môi chàng như một đóa hoa
Trái tim xuẩn ngốc của em…
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×