Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

luận văn quản trị tài chính Thực trạng và giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn sản xuất của hộ nông dân xã An Phụ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.17 KB, 63 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong phát
triển kinh tế tuy nhiên đời sống của người dân vẫn chưa thực sự được cải thiện, đặc
biệt là người dân ở vùng nông thôn. Hầu hết các hộ gia đình ở khu vực nông thôn có
nguồn thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp, một bộ phận nhỏ có nguồn thu nhập từ buôn
bán, làm thuê, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Một đặc trưng của sản xuất nông nghiệp
là chỉ mang tính thời vụ dẫn tới nguồn thu nhập của các hộ nông dân thường không ổn
định. Chi tiêu của hộ có mối quan hệ cùng chiều với thu nhập, khi thu nhập thay đổi
thì chi tiêu cũng thay đổi qua đó dẫn đến sự thay đổi trong các khoản tiết kiệm của hộ.
Tiết kiệm đóng vai trò quan trọng trong việc tái đầu tư nhưng do sản xuất nông nghiệp
còn manh mún, các hộ vẫn còn nghèo về vật chất- kỹ thuật, yếu kém về trình độ,…nên
hầu hết thu nhập của hộ chưa tương xứng với sức bỏ ra. Thực tế này dẫn tới tình trạng
phần lớn hộ nông dân có khoản tiết kiệm không đủ bù đắp thêm cho các chi phí sản
xuất phát sinh làm cho nhiều hộ nông dân rơi vào tình trạng thiếu vốn. Mặt khác, nông
nghiệp, nông thôn là khu vực sinh lời thấp, chi phí cao, nhiều rủi ro khách quan (thiên
tai, dịch bệnh, khả năng trả nợ của khách hàng thấp…) nên luồng vốn đầu tư, đặc biệt
là vốn thương mại đổ vào khu vực này rất hạn chế. Nguồn cung vốn từ các tổ chức tín
dụng không đủ đáp ứng nhu cầu vốn của hộ, dẫn tới thực trạng các hộ nông dân phải
đi vay từ các nguồn tín dụng phi chính thức với lãi suất rất cao. Thực tế này đang diễn
ra ở rất nhiều vùng nông thôn Việt Nam nói chung và ở tỉnh Hải Dương nói riêng.
Nhận thấy những vấn đề đó nên việc nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp
nâng cao khả năng huy động vốn sản xuất của hộ nông dân xã An Phụ, huyện
Kinh Môn, tỉnh Hải Dương” là cấp thiết và có ý nghĩa thực tế.
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về vốn sản xuất của hộ nông dân.
Phân tích thực trạng huy động vốn sản xuất của hộ nông dân tại xã An Phụ,
huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương để tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
trong huy động vốn sản xuất của hộ nông dân.
Đề xuất các giải pháp và kiến nghị để nâng cao khả năng huy động vốn sản xuất
của hộ nông dân trên địa bàn xã An Phụ.


11
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu cách tiếp cận của hộ nông
dân với nguồn vốn chính thức và với nguồn vốn phi chính thức thông qua việc
phân tích thu nhập, chi tiêu, đầu tư và tiết kiệm của hộ để làm rõ khả năng huy
động vốn của hộ nông dân trên địa bàn xã An Phụ.
• Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chọn 50 mẫu để quan sát về “Khả năng huy động vốn sản xuất
của hộ nông dân xã An Phụ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương”.
Đề tài nghiên cứu thực trạng huy động vốn của hộ nông dân năm 2011
và đề xuất các giải pháp để tăng cường huy động vốn sản xuất của hộ nông dân
đến năm 2015.
Thời gian thu thập thông tin cho nghiên cứu bắt đầu từ 18/3/2012 đến
19/3/2012
Địa điểm: xã An Phụ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sơ bộ: Phỏng vấn sâu với 2 hộ nông dân được chọn thuận tiện việc
phỏng vấn, ý kiến của các nông dân đưa ra được ghi lại để làm cơ sở cho việc thiết kế
bảng câu hỏi. Phỏng vấn trực tiếp 3 hộ nông dân dựa trên bảng câu hỏi đã được thiết
kế sẵn, mục đích của việc phỏng vấn này là phát hiện ra những sai sót.
Nghiên cứu chính thức: Dựa trên bảng câu hỏi chính thức tiến hành thu thập
dữ liệu sơ cấp thông qua quá trình phỏng vấn trực tiếp đến từng nhà 50 hộ tại khu vực
xã An Phụ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
• Sử dụng phương pháp chọn mẫu: chọn hộ điều tra được thực hiện ngẫu nhiên
với 20 mẫu ở chợ Huề Trì, 30 mẫu khác được chọn thuận tiện ở những nông hộ
thuộc xã.
• Sử dụng phương pháp hồi qui để xem xét mối quan hệ giữa tổng lợi nhuận và
vốn đầu tư cho từng loại hình sản xuất:
Y= A+a
1

X
1
+ a
2
X
2
+ a
3
X
3
+ a
4
X
4
+ a
5
X
5
+ a
6
X
6
+ a
7
X
7
+ a
8
X
8

Trong đó:
Y: Tổng lợi nhuận.
X
1
, X
2
, X
3
, X
4
, X
5
, X
6
, X
7
, X
8
: vốn đầu tư cho lúa, rau màu, chăn nuôi, nuôi
trồng thủy sản, buôn bán, nghề phụ, làm thuê, hoạt động khác.
22
A: hằng số
a
1
, a
2
, a
3
, a
4

, a
5
, a
6
, a
7
, a
8
: hệ số sinh lời tổng thu nhập trên vốn đầu tư.
• Số liệu thứ cấp: Thu thập thông tin từ phòng tín dụng xã An Phụ, huyện Kinh
Môn, tỉnh Hải Dương, sách, internet, những kiến thức đã học ở trường, tham
khảo những tài liệu có liên quan, tài liệu giảng dạy các của giáo viên, tham
khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn.
5. Kết cấu của đề tài
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vốn sản xuất của hộ nông dân.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn sản xuất của hộ nông dân xã An Phụ,
huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Giải pháp chủ yếu nâng cao khả năng huy động vốn sản xuất của
hộ nông dân xã An Phụ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương và một số kiến nghị.
6. Lời cảm ơn:
Trước tiên em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Vũ Thị Minh đã tận tình hướng
dẫn, góp ý và động viên em trong quá trình thực hiện chuyên đề này.
Xin chân thành cảm ơn các cô chú ở Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế trung
ương, quý thầy cô Khoa Bất Động Sản và Kinh tế Tài nguyên trường đại học Kinh tế
quốc dân, quý thầy cô chuyên ngành Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các
bạn lớp kinh tế nông nghiệp khóa 50 đã nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt thời gian làm
chuyên đề này.
33
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỐN SẢN XUẤT CỦA

HỘ NÔNG DÂN
I. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỘ NÔNG DÂN VÀ KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN
1.1. Khái niệm kinh tế hộ nông dân
Nước ta là một nước nông nghiệp lâu đời với hơn 70% dân số là nông dân, với
trình độ sản xuất lạc hậu, manh mún. Tuy nhiên, quy mô kinh tế hộ vẫn chiếm tỷ trọng
lớn và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Nói đến sự tồn tại của hộ sản
xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng ta cần thấy rằng hộ sản xuất không chỉ có ở
nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xuất nông nghiệp trên thế giới. Hộ sản
xuất đã tồn tại qua nhiều phương thức và vẫn đang tiếp tục phát triển. Mỗi phương
thức sản xuất có những quy luật phát triển riêng của nó và trong mỗi chế độ nó tìm
cách thích ứng với nền kinh tế hiện hành. Vì vậy có nhiều quan niệm khác nhau về hộ
sản xuất. Theo phụ lục của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
ban hành kèm theo quyết định 499A TDNH 02/09/1993 thì khái niệm hộ sản xuất
được nêu như sau: “Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản
xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và tự chịu trách
nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình”.
Bên cạnh đó, ta cũng cần làm rõ khái niệm hộ nông dân. Hộ nông dân là một
đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất, vừa là một đơn vị tiêu dùng. Sản xuất
của hộ nông dân dựa trên công cụ sản xuất thủ công, trình độ canh tác lạc hậu, trình độ
khai thác tự nhiên thấp. Tuy nhiên, trong thời kỳ nền kinh tế thị trường, kinh tế Việt
Nam mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới, hộ nông dân, với tư cách là những đơn
vị kinh tế tự chủ, đã từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, áp dụng các tiến bộ
khoa học và công nghệ vào sản xuất, thực hiện liên doanh, liên kết, khai thác hiệu quả
các nguồn lực để sản xuất nông sản đáp ứng nhu cầu xã hội. Các hộ nông dân, ngoài
hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp với các mức
độ khác nhau. Bên cạnh đó, hộ nông dân có sự gắn bó các thành viên về huyết thống,
về quan hệ hôn nhân, có lịch sử và truyền thống lâu đời. Hoạt động chủ yếu trong lĩnh
44
vực nông nghiệp, là lĩnh vực mà chịu sự tác động trực tiếp của điều kiện thời tiết như
mưa, gió, nắng hạn…là những nguyên nhân khách quan không thể thay đổi vì vậy sản

xuất kinh doanh của hộ nông dân chịu nhiều rủi ro, nhất là rủi ro khách quan, tuy
nhiên khả năng khắc phục lại hạn chế. Từ những đặc điểm trên ta thấy kinh tế hộ là
thành phần kinh tế khá linh động, là cơ sở ban đầu cho việc thực hiện các quy hoạch
phát triển kinh tế nước ta.
1.2. Đặc điểm kinh tế hộ nông dân
1.2.1. Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất, vừa là một
đơn vị tiêu dùng.
Với lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu đời và là hình thức tổ chức sản
xuất trình độ thấp nhất trong các loại hình tổ chức kinh doanh chủ yếu trong nông
nghiệp, hộ nông dân đóng vai trò là đơn vị kinh tế cơ sở. Nước ta đang trong thời kỳ
đổi mới với nhiều khó khăn và thử thách.Với cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần,
kinh tế hộ vẫn đóng vai trò quan trọng, vẫn là mục tiêu phát triển chính và chủ yếu
trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Mặt khác, kinh tế hộ nông dân nước ta chủ yếu còn nhỏ lẻ, manh mún, sử dụng
lao động gia đình là chính, trình độ sản xuất hạn chế. Do đó, sản xuất chủ yếu mang
tính tự cấp, tự túc. Phần lớn sản phẩm làm ra là để tiêu dùng trong gia đình. Khi sản
xuất không đủ tiêu dùng, họ thường điều chỉnh nhu cầu, khi sản xuất dư thừa họ có thể
đem sản phẩm dư thừa để trao đổi trên thị trường, nhưng đó không phải là mục đích
sản xuất của họ. Vì vậy, hộ vừa là một đơn vị sản xuất, vừa là một đơn vị tiêu dùng.
1.2.2. Sản xuất của hộ nông dân dựa trên công cụ sản xuất thủ công, trình độ canh tác
lạc hậu, trình độ khai thác tự nhiên thấp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất chính ở nông thôn. Vì hộ sản xuất kinh doanh
nước ta chủ yếu còn nhỏ lẻ, manh mún nên công cụ sản xuất cũng ở mức độ thô sơ,
thủ công. Nước ta đi lên từ sau chiến tranh, đời sống người dân còn khổ cực, trình độ
năng lực còn rất hạn chế. Trước đây, vì trình độ canh tác còn lạc hậu, các hộ chủ yếu
sản xuất nhỏ để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng gia đình, ít mở rộng sản xuất, hầu như
không áp dụng khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó, nông nghiệp là ngành mang tính thời
vụ cao, phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, trong khi đó, khả năng khai thác tự
55
nhiên của hộ rất thấp, chủ yếu phụ thuộc hoàn toàn vào nó, dẫn đến tình trạng có năm

được mùa, có năm lại mất trắng, cuộc sống không ổn định.
Hiện nay, trong thời kỳ nền kinh tế thị trường, kinh tế Việt Nam mở cửa hội
nhập với khu vực và thế giới. Hộ nông dân, với tư cách là những đơn vị kinh tế tự chủ,
hộ đã từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, áp dụng các tiến bộ khoa học và công
nghệ vào sản xuất, thực hiện liên doanh, liên kết, khai thác hiệu quả các nguồn lực để
sản xuất nông sản đáp ứng nhu cầu xã hội.
1.2.3. Các hộ nông dân, ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào các hoạt động
phi nông nghiệp với các mức độ khác nhau.
Đối tượng sản xuất của hộ nông dân chủ yếu thuộc lĩnh vực nông nghiệp, hộ
sản xuất kinh doanh trồng trọt các loại cây ăn quả, cây trồng lâu năm…; hộ sản xuất
kinh doanh chăn nuôi; hay là hộ sản xuất kết hợp trồng trọt và chăn nuôi các loại cây
trồng, vật nuôi khác nhau có tính hỗ trợ cho nhau. Thực tế hiện nay, có rất nhiều mô
hình kết hợp trồng trọt, chăn nuôi đạt hiệu quả cao, thu về cho hộ nông dân hàng trăm
triệu mỗi năm.
Bên cạnh đó, nền kinh tế ngày càng phát triển, đòi hỏi kinh tế hộ phải phát triển
hơn cả về chất và lượng, không chỉ đơn thuần hoạt động sản xuất nông nghiệp mà hộ
còn tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh ở các ngành nghề phi nông nghiệp khác
vào lúc nông nhàn với quy mô lớn, nhỏ khác nhau để tận dụng triệt để nguồn nhân lực,
tránh lãng phí tư liệu sản xuất, đồng thời đa dạng các khoản thu nhập, nâng cao đời
sống người dân. 1.2.4. Hộ nông dân có sự gắn bó các thành viên về huyết thống, về
quan hệ hôn nhân, có lịch sử và truyền thống lâu đời.
Với đặc điểm như vậy nên các thành viên trong nông hộ gắn bó với nhau trên
các mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Do thống nhất về lợi ích
nên sự gắn kết, tính tự nguyện, tự giác cao trong lao động. Trong mỗi nông hộ, bố mẹ
vừa là chủ hộ, vừa là người tổ chức hoạt động sản xuất. Vì vậy, tổ chức sản xuất trong
hộ nông dân có nhiều ưu việt và có tính đặc thù.
1.2.5. Sản xuất kinh doanh chịu nhiều rủi ro, nhất là rủi ro khách quan, tuy nhiên khả
năng khắc phục lại hạn chế.
Hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, là lĩnh vực mà chịu sự tác động
trực tiếp của điều kiện thời tiết như mưa, gió, nắng hạn…là những nguyên nhân khách

66
quan không thể thay đổi. Hiện nay, sự đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn đã chú trọng
đến vấn đề này nhưng thực tế vẫn chưa triệt để, nông nghiệp, nông thôn vẫn phải gánh
chịu những đợt mất mùa, mưa bão, hạn hán; những đợt dịch bệnh đối với cây trồng,
vật nuôi làm ảnh hưởng xấu đến quá trình sản xuất kinh doanh của hộ.
1.2.6. Về tính pháp lý và khả năng tài chính của hộ
Đây là một đặc điểm đứng trên phương diện nghiên cứu hộ là một chủ thể kinh
tế chịu sự tác động của các hoạt động tín dụng.
Mọi thành viên trong hộ gia đình đều liên đới trách nhiệm trong quan hệ giao
dịch tín dụng. Về mặt thủ tục pháp lý trong giao dịch với ngân hàng, chỉ cần người đại
diện hộ đứng tên giao dịch với ngân hàng trên cơ sở ủy quyền của các thành viên trong
hộ.
Tài sản của hộ bao gồm cả tài sản chung của các thành viên trong hộ và cả tài
sản riêng của các thành viên góp vào sử dụng chung. Xét từ góc độ này thì năng lực tài
chính của hộ bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của các thành viên. Vốn tự có của
hộ chủ yếu là khả năng lao động của hộ, tức là kinh nghiệm cùng khả năng tổ chức và
trực tiếp tham gia lao động của các thành viên trong hộ.
1.3. Các điều kiện phát triển kinh tế hộ nông dân
1.3.1. Điều kiện chủ quan
Là những điều kiện mà cơ sở sản xuất kinh doanh và chủ cơ sở sản xuất kinh
doanh có thể tạo ra được. Điều kiện chính và cơ bản nhất là trình độ, năng lực và hiểu
biết chuyên môn của chủ hộ nông dân. Chủ sản xuất kinh doanh phải là người có trình
độ chuyên môn phù hợp, nhạy bén với thị trường, quyết đoán và linh hoạt trong xử lý
các tình huống. Người chủ sản xuất kinh doanh cần phải có những tri thức cần thiết
phục vụ cho kinh doanh và phát triển kinh tế hộ, đó là những kiến thức chung về kinh
tế và quản lý kinh tế, những kiến thức về nghiệp vụ, thu thập thông tin và xử lý thông
tin một cách nhanh, nhạy và chính xác.
Bên cạnh trình độ, năng lực và hiểu biết chuyên môn của chủ hộ thì vốn, các
yếu tố vật chất đầu vào, liên kết sản xuất kinh doanh cũng là những điều kiện chủ quan
đóng vai trò cực kỳ quan trọng.

- Vốn: vốn đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu để thực hiện quá trình
kinh doanh của hộ trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn. Một
77
hộ nông dân muốn sản xuất kinh doanh cái gì điều đầu tiên phải cần có vốn, lượng vốn
nhiều hay ít quyết định quy mô sản xuất của hộ, quyết định qúa trình sản xuất kinh
doanh đấy có được diễn ra liên tục, không bị bỏ dỡ giữa chừng vì thiếu vốn. Vốn cũng
quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh của hộ. Với lượng vốn lớn, hộ nông dân sẽ
được tiếp cận với nguồn lực vật chất đầu vào chất lượng, từ đó dẫn đến sản phẩm sản
xuất kinh doanh của hộ đạt chất lượng cao, dẫn đến đạt hiệu quả kinh tế.
- Tiềm lực vật chất đầu vào: Là điều kiện cần thiết cho bất kỳ hộ nông dân nào
hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nói chung và kinh doanh nông nghiệp
nói riêng. Đối với hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp thì sự biểu hiện của nó càng
đậm nét hơn vì mối quan hệ giữa các yếu tố trong sản xuất nông nghiệp không chỉ bị
chi phối bởi các quy luật kinh tế mà còn bị chi phối bởi các quy luật đặc điểm sản xuất
nông nghiệp, trong đó quy luật sinh học chi phối một cách mạnh mẽ, nhất là đối với
cây trồng, vật nuôi có chu lỳ sản xuất dài, yêu cầu đầu tư lớn và thời gian thu hồi vốn
chậm. Tiềm lực vật chất đầu vào cũng quyết định xem quá trình sản xuất kinh doanh
có diễn ra hay không và sản phẩm sản xuất kinh doanh có đạt hiệu quả không, dẫn đến
hiệu quả kinh tế có đạt được không.
- Liên kết sản xuất kinh doanh: Mở rộng sự liên kết hợp tác theo hướng đa dạng
giữa các hộ sản xuất trên cơ sở tự nguyện của hộ với sự hỗ trợ của Nhà nước. Sự liên
kết sản xuất hiệu quả giữa các hộ sẽ giảm được lượng chi phí sản xuất, đồng thời tạo ra
sản phẩm phong phú, đáp ứng nhanh nhu cầu thị trường.
1.3.2. Điều kiện khách quan
Là những điều kiện vượt ra khỏi phạm vi giải quyết của hộ sản xuất kinh doanh
nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn. Bao gồm nhiều điều kiện, trong đó cần
lưu ý các điều kiện sau:
- Điều kiện tự nhiên: Hoạt động sản xuất nông nghiệp, nông thôn mang tính
thời vụ rõ rệt, lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Điều kiện tự nhiên thuận lợi thì
cây trồng, vật nuôi sinh trưởng, phát triển tốt làm cho quá trình sản xuất đạt hiệu quả

cao. Nếu môi trường sinh thái ngày càng xấu đi, điều kiện tự nhiên ngày càng khắc
nghiệt hơn sẽ dẫn đến tính rủi ro sản xuất ngày càng cao, tổn thất ngày càng lớn và
khó lường trước được.
88
- Cơ chế chính sách của Nhà nước: Hệ thống pháp luật, các chính sách quản lý
kinh tế ổn định, an ninh đảm bảo, chính sách cho vay thực thi tạo điều kiện để hộ yên
tâm sản xuất kinh doanh và kinh doanh có hiệu quả. Ngược lại, nó sẽ là nhân tố cản trở
hộ tiếp cận với nguồn vốn vay, với thị trường, từ đó làm giảm hiệu quả kinh doanh của
hộ.
II/ CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VỐN SẢN XUẤT CỦA HỘ NÔNG DÂN
2.1. Khái niệm vốn sản xuất
Vốn là nguồn lực hạn chế đối với các ngành kinh tế nói chung, nông nghiệp nói
riêng. Vốn sản xuất vận động không ngừng từ phạm vi sản xuất sang phạm vi lưu
thông
và trở về sản xuất. Hình thức của vốn sản xuất cũng thay đổi từ hình thức tiền tệ sang
hình thức tư liệu sản xuất và tiền lương cho nhân công đến sản phẩm hàng hóa và trở
lại hình thức tiền tệ…Như vậy, vốn sản xuất trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền
của tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp.
2.2. Vai trò và đặc điểm của vốn sản xuất với kinh tế hộ nông dân
Vốn có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế hộ. Vốn là yếu tố cơ bản
trong quá trình phát triển và lưu thông hàng hóa và là điều kiện để cho hộ nông dân
thực hiện tốt các khâu sản xuất, chế biến, marketing.
Do tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp, vốn sản xuất nông nghiệp có những
đặc điểm sau:
- Trong sự cấu thành vốn cố định, ngoài những tư liệu lao động có nguồn gốc
kỹ thuật còn bao gồm cả tư liệu lao động có nguồn gốc sinh học, như cây lâu năm, súc
vật làm việc, súc vật sinh sản. Trên cơ sở tính quy luật sinh học, các tư liệu lao động
này thay đổi giá trị sử dụng của mình khác với tư liệu lao động có nguồn gốc kỹ thuật.
- Sự tác động của vốn sản xuất vào quá trình sản xuất và hiệu quả kinh doanh
không phải bằng cách trực tiếp mà thông qua đất, cây trồng, vật nuôi. Cơ cấu và chất

lượng của vốn sản xuất phải phù hợp với yêu cầu của từng loại đất đai, từng đối tượng
sản xuất là sinh vật.
- Chu kỳ sản xuất dài và tính thời vụ trong nông nghiệp, một mặt làm cho sự
tuần hoàn và luân chuyển chậm chạp, kéo dài thời gian thu hồi vốn cố định, tạo ra sự
cần thiết phải dự trữ đáng kể trong thời gian tương đối dài của vốn lưu động và làm
99
cho vốn ứ đọng, mặt khác tạo ra sự cần thiết và khả năng tập trung hóa cao về phương
tiện kỹ thuật trên một lao động nông nghiệp so với công nghiệp.
- Sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc vào nhiều điều kiện tự nhiên nên việc sử
dụng vốn gặp nhiều rủi ro, làm tổn thất hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn.
- Một bộ phận sản xuất nông nghiệp không qua lĩnh vực lưu thông mà được
chuyển trực tiếp làm tư liệu sản xuất cho bản thân ngành nông nghiệp, do vậy vòng
tuần hoàn vốn sản xuất được chia thành vòng tuần hoàn đầy đủ và không đầy đủ. Vòng
tuần hoàn không đầy đủ là vòng tuần hoàn của một bộ phận vốn không được thực hiện
ở ngoài thị trường mà được tiêu dùng trong nội bộ nông nghiệp khi vốn lưu động được
khôi phục trong hình thái hiện vật của chúng. Vòng tuần hoàn đầy đủ yêu cầu vốn lưu
động phải trải qua tất cả các giai đoạn, trong đó có giai đoạn tiêu thụ sản phẩm.
2.3. Phân loại vốn sản xuất
2.3.1. Vốn cố định
Vốn cố định là số vốn ứng trước để mua sắm tư liệu lao động chủ yếu hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp. Phương thức luân chuyển và bù đắp giá trị của nó là
chuyển dần từng phần giá trị vào sản phẩm mới đến khi tư liệu lao động hết thời hạn
sử dụng thì vốn cố định kết thúc quá trình luân chuyển.
2.3.2. Vốn lưu động
Vốn lưu động là vốn bằng tiền ứng trước để dự trữ cho sản xuất, để mua sắm
vật rẻ tiền mau hỏng và hình thành vốn lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản
xuất và tiêu thụ hàng hóa diễn ra một cách bình thường. Theo tính chất tham gia của
các yếu tố vào quá trình sản xuất, vốn lưu động được chia thành 3 bộ phận, gồm: vốn
lưu động dự trữ cho quá trình sản xuất, vốn lưu động dùng trong quá trình sản xuất và
vốn lưu động trong quá trình lưu thông.

- Vốn lưu động dự trữ trong quá trình sản xuất: là biểu hiện bằng tiền toàn bộ
nguyên nhiên vật liệu, phân bón, thuốc trừ sâu, vật tư cho sản xuất phụ, phụ tùng dự
trữ, chuẩn bị cho vụ sản xuất sau và những vật tư bảo hiểm nhằm đảm bảo cho quá
trình sản xuất có thể tiến hành một cách liên tục.
- Vốn lưu động trong quá trình sản xuất: là biểu hiện bằng tiền của những sản
phẩm sản xuất dở dang, bán thành phẩm và những chi phí chờ phân bổ của ngành
trồng trọt, chăn nuôi và ngành nghề.
1010
- Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông gồm những khoản nông sản hàng
hóa, vốn bằng tiền và vốn trong thanh toán.
2.4. Hình thức huy động vốn sản xuất của hộ nông dân- cung vốn sản xuất của hộ
2.4.1. Vốn của hộ nông dân
Vốn dành cho sản xuất ở hộ nông dân được hình thành từ hai nguồn cơ bản:
- Một phần từ thu nhập thuần của hộ: thu nhập của hộ nông dân được hiểu là
phần giá trị sản xuất tăng thêm mà hộ được hưởng để bù đắp cho thù lao lao động của
gia đình, cho tích lũy và tái sản xuất mở rộng nếu có. Thu nhập của hộ phụ thuộc vào
kết quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh mà họ thực hiện. Thường thu nhập của
hộ nông dân có thể phân thành 2 loại:
Thu nhập từ nông nghiệp: bao gồm thu nhập từ các hoạt động sản xuất trong
nông nghiệp như: trồng trọt (lúa, màu, rau, quả, ), từ chăn nuôi (gia súc, gia cầm, ) và
nuôi trồng thủy sản (tôm, cá).
Thu nhập phi nông nghiệp: là thu nhập được tạo ra từ các hoạt động ngành nghề
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, bao gồm các ngành nghề chế biến, sản xuất vật
liệu xây dựng, gia công cơ khí, Ngoài ra thu nhập phi nông nghiệp còn được tạo ra từ
các hoạt động thương mại dịch vụ như buôn bán…
Thu nhập là hàm số theo quy mô sản xuất, chi phí dành cho sản xuất, tiết kiệm,
đầu tư mở rộng sản xuất, số người lao động trong gia đình, trình độ học vấn,…
- Một phần từ tiết kiệm của hộ: tiết kiệm của hộ được hiểu là phần thu nhập còn
lại sau khi đã trừ chi phí sản xuất, nộp thuế cho chính phủ, chi tiêu tiêu dùng, đầu tư
mở rộng sản xuất, tiền thuê đất,…Tiết kiệm thường được tích lũy dưới nhiều hình

thức: tiền mặt, vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ,…Trong những điều kiện nhất định, tiết
kiệm còn có thể xem như là khoản dự phòng khi có chuyện cần thiết lấy ra sử dụng
của hộ nông dân như: ốm đau, cưới xin, Tiết kiệm là khoản tiền nhàn rỗi của hộ nông
dân nếu khoản tiền đó không được đem đi đầu tư hoặc sử dụng thì nó được coi như
khoản tài chính chết, tài chính chết là khoản tài chính không đem lại giá trị gia tăng
cho người chủ sở hữu nó, nhưng nếu khoản tài chính đó được đem đi đầu tư, sử dụng
một cách hợp lý thì nó sẽ góp phần gia tăng thu nhập. Do đó những biến động trong tỷ
lệ tiết kiệm của hộ nông dân theo thời gian cũng được sử dụng để giải thích và dự báo
thái độ chi tiêu và đầu tư của hộ nông dân. Tiết kiệm là một hàm số theo thu nhập, lãi
1111
suất, chi phí dành cho sản xuất, tập quán sinh hoạt, đầu tư mở rộng sản xuất, lạm
phát…
2.4.2. Vốn vay
Vốn vay ở nông thôn hiện nay được huy động từ nhiều nguồn khác nhau:
- Nguồn chính thức: là hệ thống tín dụng thường thấy giữa các cá nhân và các
tổ chức tín dụng được pháp luật thừa nhận và hoạt động dưới sự quản lý của pháp luật.
- Nguồn phi chính thức: thường là các quan hệ tín dụng giữa các cá nhân và
không được qui định trong luật pháp. Những hình thức tín dụng trong hệ thống phi
chính thức không chịu sự quản lý của nhà nước, hoạt động trên cơ sở tin tưởng lẫn
nhau.
Đặc điểm của 2 nguồn tín dụng:
Nguồn chính thức:
- Có nguồn vốn lớn.
- Lãi suất thường được quy định bởi nhà
nước.
- Hoạt động trong phạm vi rộng với thời
gian dài.
- Hình thức thường thấy như tín dụng ngân
hàng, tín dụng nhà nước,…
Nguồn phi chính thức:

- Lượng vốn vay nhỏ, thời gian cho vay
ngắn.
- Lãi suất cao hay thấp tùy thuộc sự thỏa
thuận giữa các bên.
- Thủ tục đơn giản, tiện lợi, lúc nào cũng có
sẵn.
- Một số hình thức như vay lẫn nhau, mua
bán chịu,
• Các định chế tài chính tham gia cung cấp tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông
thôn tập trung chủ yếu vào các định chế sau:
- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NHNo&PTNT): được thành
lập năm 1988 và chính thức đi vào hoạt động vào tháng 12/1990, sau khi hai pháp lệnh
Ngân hàng có hiệu lực. Mạng lưới hoạt động của NHNo&PTNT ngày càng tăng, năm
2003 có 1726 chi nhánh, phòng giao dịch, đến nay, NHNo&PTNT có hơn 2000 chi
nhánh nằm rải rác khắp cả nước.
- Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH): được thành lập theo Quyết định số
131/2002/QĐ – TTg ngày 4/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ nhằm tách tín dụng
chính sách ra khỏi tín dụng thương mại trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ
người nghèo. Qua gần 6 năm hoạt động, NHCSXH là ngân hàng có mạng lưới lớn thứ
hai trong hệ thống ngân hàng Việt Nam với 65 chi nhánh cấp tỉnh và Sở giao dịch; 601
phòng giao dịch cấp huyện, 8.649 điểm giao dịch cấp xã và trên 180.000 tổ tiết kiệm
và vay vốn. Hoạt động của NHCSXH đang từng bước được xã hội hoá, ngân hàng
1212
luôn có sự phối hợp chặt chẽ với các hội, đoàn thể để thực hiện nghiệp vụ uỷ thác cho
vay vốn ưu đãi để thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo của Chính phủ.
- Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (QTDND): bắt đầu từ một chương trình thí
điểm chịu sự giám sát của NHNN vào tháng 7/1993, là hình thức hợp tác xã tiết kiệm
và tín dụng cấp xã xây dựng theo mô hình Caisse Populaire ở Quebec, Canada. Khi đó,
một trong những mục tiêu quan trọng của NHNN là khôi phục lòng tin của người dân
đối với hệ thống tín dụng nông thôn sau sự sụp đổ của hàng loạt hợp tác xã tín

dụng(1). QTDND là loại hình tín dụng hợp tác hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ – tín
dụng, dịch vụ ngân hàng chủ yếu ở nông thôn. Mục tiêu hoạt động là nhằm huy động
nguồn vốn tại chỗ để cho vay tại chỗ, tương trợ cộng đồng, vì sự phát triển bền vững
của các thành viên. Theo thống kê, hiện nay, cả nước có 989 QTDND hoạt động với
tổng nguồn vốn gần 14.000 tỷ đồng (chưa tính QTDND Trung ương và 24 chi nhánh),
tổng dư nợ hơn 12.000 tỷ đồng, thu hút gần 1,3 triệu thành viên là đại diện hộ gia đình.
Để hiểu rõ hơn về khả năng huy động vốn của hộ nông dân, ta cần hiểu rõ hơn
về cơ chế tín dụng đối với hộ nông dân.
2.5. Cơ chế tín dụng:
- Lãi suất: là giá cả của khoản cho vay, được biểu hiện bằng tỷ lệ % giữa giá trị
lãi của khoản vay và khoản vay trong một thời gian nhất định.
- Thủ tục cho vay: là một tập hợp các bước, các công việc cần thiết nhất định
phải tiến hành giữa người đi vay và người cho vay.
- Thời hạn cho vay: là 1 khoảng thời gian được tính từ khi người đi vay bắt đầu
nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi tiền vay đã được thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng giữa người đi vay và người cho vay. Thời hạn cho vay thường gồm:
+ Cho vay ngắn hạn: đối với người đi vay vay vốn ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu
cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống được xác định phù hợp với chu kỳ
sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của người đi vay tối đa đến 12 tháng.
+ Cho vay trung, dài hạn: đối với người đi vay vay vốn trung, dài hạn nhằm
thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống. Thời hạn
cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả
nợ của người đi vay và tính chất nguồn vốn cho vay của người cho vay (>12 tháng)
- Mức cho vay:
1313
+ Đối với hình thức cho vay có thế chấp, giá trị món vay luôn được xác định
trên cơ sở giá trị tài sản thế chấp.
+ Đối với hình thức cho vay theo tín chấp, mức cho vay là số tiền tối đa mà các
tổ chức tín dụng có thể cho người cần vốn vay.
- Thời gian thu hồi vốn vay: là thời gian bắt đầu từ khi người vay nhận được

khoản vay đến khi thực hiện trả lần đầu tiên về lãi hoặc nợ gốc.
2.6. Hình thức sử dụng vốn sản xuất của hộ nông dân- cầu vốn sản xuất của hộ:
Sử dụng vốn để sản xuất hay còn gọi là đầu tư, là việc hộ nông dân bỏ vốn,
nhân công lao động, quản lý vào quá trình canh tác, sản xuất kinh doanh trên cơ sở
tính toán kinh tế, xã hội. Hay nói cách khác, cầu vốn sản xuất của hộ chính là các
khoản chi phí mà hộ phải trang trải trong quá trình sản xuất như: chi phí mua giống,
phân bón, thức ăn, tiền thuê làm đất, làm cỏ,…
Một hộ nông dân có mức đầu tư hợp lý sẽ tiết kiệm chi phí sản xuất, gia tăng
thu nhập. Đầu tư là hàm theo quy mô sản xuất, thu nhập, tài sản dành cho sản xuất, tiết
kiệm, khấu hao, tập quán sinh hoạt, thuế, trình độ học vấn,…
(1a) (1b) (1c)
(2a) (2b)
(3a)
(3b)
(4) (5)
(1a), (1b), (1c): 1 phần thu nhập thuần được dùng để chi tiêu hàng ngày, 1 phần
thu nhập thuần để đầu tư sản xuất, phần thu nhập dư ra để tiết kiệm.
Thu nhập thuần
Chi tiêuTiết kiệmĐầu tư
Đi vay vốn
Cho vay vốn
1414
(2a), (2b): trong quá trình chi tiêu hoặc đầu tư, nếu thiếu tiền hộ nông dân có
thể lấy tiền tiết kiệm để tài trợ.
(3a), (3b): trong quá trình đầu tư sản xuất, nếu thừa tiền, một phần hộ nông dân
có thể bổ sung thêm nguồn tiết kiệm hoặc bổ sung thêm cho chi tiêu.
(4): trong quá trình đầu tư sản xuất, nếu thiếu tiền mà hộ nông dân không còn
tiền tiết kiệm để tài trợ, hộ sẽ dùng nguồn đi vay để tài trợ.
(5): trong quá trình đầu tư sản xuất, chi tiêu hàng ngày, nếu hộ dư thừa tiền tiết
kiệm, để kiếm thêm thu nhập, hộ có thể đi vay.

Như vậy, quá trình tạo ra thu nhập thuần và phân bổ thu nhập thuần cho mục
đích chi tiêu hàng ngày, đầu tư sản xuất và tiết kiệm của hộ nông dân sẽ phát sinh nhu
cầu cần vay vốn khi hộ bị thiếu vốn và hiện tượng dư thừa vốn khi hộ còn dư nguồn
tiết kiệm mà không phải phân bổ cho đầu tư hoặc chi tiêu. Khi dư thừa vốn, hộ có thể
gửi tiết kiệm ngân hàng, cho người thân vay (tạo thành nguồn tín dụng phi chính thức)
hoặc đầu tư vào các kênh khác. Khi thiếu vốn, hộ có thể vay các tổ chức tín dụng
(nguồn tín dụng chính thức) hoặc vay người thân. Tuy nhiên, khi vay các tổ chức tín
dụng, người nông dân bị gặp nhiều khó khăn như ràng buộc về tài sản đảm bảo, thủ
tục vay rườm rà, số vốn vay bị hạn chế, nên tình trạng các hộ nông dân tìm đến
nguồn tín dụng phi chính thức và phải chịu lãi suất cao đang là vấn đề nhức nhối ở
nhiều địa phương nước ta.
1515
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA HỘ NÔNG DÂN
XÃ AN PHỤ
I. Một số thông tin chung về hộ nông dân xã An Phụ
1.1. Một số thông tin chung về xã An Phụ
An Phụ là xã miền núi thuộc huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Tổng diện tích
tự nhiên 785,16 ha, gồm 5 thôn với 9150 nhân khẩu, 2544 hộ. Phía đông xã giáp xã
Hiệp An và xã Long Xuyên, phía nam giáp sông Vận và sông Phúc Thành, phía tây
giáp xã Thượng Quận, phía bắc giáp xã An Sinh và Hiệp Sơn. Ngăn cách giữa xã An
Phụ với xã Hiệp Sơn, xã An Sinh là cánh rừng phòng hộ có diện tích 124,8 ha.
Về địa hình : do An Phụ là xã miền núi nên địa hình không bằng phẳng, ruộng
đất khu cao, khu trũng đã gây nhiều khó khăn trong việc tưới tiêu. Mặt khác, đất đai
của xã kém mầu mỡ, năng suất cây trồng thấp. Muốn thâm canh đạt hiệu quả, khâu
quan trọng nhất là phải làm tốt công tác thủy lợi và cải tạo đồng ruộng. Thế mạnh của
xã là chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, 1 năm có 2 vụ lúa và 1 vụ màu.
Về hệ thống thủy lợi : dọc theo đường tỉnh lộ có hệ thống sông Phùng Khắc là
kênh lưu thoát nước cho đồng ruộng.
Về giao thông : có trục đường tỉnh lộ chạy từ đầu tới cuối xã tạo điều kiện giao

thông đi lại bằng đường bộ. Các tuyến đường liên thôn và đi vào ngõ xóm đều được bê
tông hóa.
Về đời sống nhân dân : ở mức ổn định, sản xuất lương thực là chính. 76% sản
xuất nông nghiệp còn lại là tiểu thủ công nghiệp, thương mại- dịch vụ.
1.2. Một số thông tin chung về 50 hộ điều tra
Cơ cấu kinh tế của 50 hộ điều tra :
Qua điều tra: số hộ nông dân sống bằng nghề trồng lúa chiếm đến 80%, trồng
rau màu 16 %, chăn nuôi 20%, nuôi trồng thủy sản 10%, buôn bán 22%, nghề phụ 6%,
làm thuê 34%, hoạt động tạo thu nhập khác 16% trên tổng số 50 hộ điều tra.
1616
Ta thấy sự phân công lao động xã An Phụ vẫn nặng về nông nghiệp và cụ thể là
trồng lúa. Riêng trong lĩnh vực chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản trong thời gian qua đã
phát triển đáng kể nhờ chuyển đổi những diện tích trồng lúa năng suất thấp và tận
dụng những phế phẩm từ trồng trọt và đời sống hàng ngày.
Bên cạnh đó hệ thống thủy điện, giao thông được phủ khắp xã tạo điều kiện
thuận lợi cho việc đi lại cũng như phát triển kinh tế nông thôn được dễ dàng. Đặc biệt
là người dân có điều kiện tiếp thu tiến bộ khoa học –kỹ thuật, những mô hình chăn
nuôi, trồng trọt đạt hiệu quả từ những hộ nông dân khác thông qua chương trình làm
bạn với nhà nông nhờ vậy mà sản xuất ngày càng đạt hiệu quả hơn góp phần gia tăng
thu nhập cho kinh tế hộ.
Chăn nuôi chủ yếu tập trung vào các loại gia súc và gia cầm phổ biến như: gà,
vịt, heo,…nhưng thời gian qua do dịch cúm gia cầm, những nhóm hộ nông dân có thu
nhập chủ yếu từ chăn nuôi bị ảnh hưởng đáng kể, làm cho thu nhập không những đã
thấp mà còn phải lâm vào cảnh nợ nần.
Buôn bán, nghề phụ (dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp ) tập trung ở những khu vực
đông dân cư, khu vực chợ phát triển mạnh vì đây là ngành mang lợi nhuận cao, do vậy
số lượng hộ nông dân tham gia không ngừng tăng lên.
Bên cạnh hộ có nguồn thu nhập từ trồng trọt, chăn nuôi, buôn bán… thì làm
thuê tập trung ở số hộ không có đất canh tác hoặc diện tích đất canh tác thấp (thu nhập
thấp thường tập trung vào nhóm hộ này), những hộ có máy móc phục vụ sản xuất nông

nghiệp: máy cày, máy tuốt lúa, máy bơm nước…. Ngoài ra một số hộ còn có nguồn
thu khác từ trợ cấp xã hội, làm công ăn lương.
II. Thực trạng sử dụng vốn sản xuất- cầu về vốn sản xuất của hộ nông dân
2.1. Thực trạng thu nhập của các hộ nông dân xã An Phụ :
2.1.1. Thực trạng thu nhập hộ nông dân phân theo hoạt động sản xuất :
Sắp xếp thu nhập của 50 hộ quan sát theo thứ tự từ thấp đến cao và phân thành
4 nhóm bằng nhau:
- Thu nhập nhóm cao nhất từ 3 triệu đồng/người/tháng trở lên.
- Thu nhập nhóm khá từ 1,5 triệu đồng/người/tháng- 3 triệu đồng/người/tháng.
- Thu nhập nhóm trung bình từ 700ngàn đồng/người/tháng- 1,5triệu
đồng/người/ tháng.
1717
- Thu nhập nhóm thấp nhất từ 700 ngàn đồng/người/tháng trở xuống.
Cuối cùng, trong khoảng hộ đều nhau đó tính thu nhập trung bình của mỗi
nhóm. Mục đích của việc phân nhóm hộ theo mức thu nhập này để xác định được các
yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập, chi tiêu, tiết kiệm, đầu tư của từng nhóm hộ sẽ như thế
nào.
Bảng : Thu nhập phân theo hoạt động sản xuất :
Hoạt động
sản xuất
Nhóm hộ thu nhập
cao
Nhóm hộ thu
nhập khá
Nhóm hộ thu nhập
trung bình
Nhóm hộ thu
nhập thấp
Nghìn
đồng

% Nghìn
đồng
% Nghìn
đồng
% Nghìn
đồng
%
Trồng lúa
3.711 71,9 1.128 59,1 711,5 65,7 211 43,8
Trồng rau màu
10 0,2 22 1,2 45,5 4,2 7 1,5
Chăn nuôi
263 5,1 450 23,5 90,9 8,4 53 11
Nuôi trồng
thủy sản
800 15,5 51 2,7 0 0 0 0
Buôn bán
237 4,6 165 8,6 63,9 5,9 44 9,1
Nghề phụ
0 0 23 1,2 89,9 8,3 0 0
Làm thuê
52 1 24 1,2 64,9 6 134 27,8
Khác
88 1,7 48 2,5 16,4 1,5 33 6,8
Tổng
5.162 100 1.911 100 1.083 100 482 100
Đại đa số các hộ nông dân xã An Phụ đều coi sản xuất nông nghiệp là hoạt
động đem lại thu nhập chính lâu dài. Bên cạnh đó nó còn đảm bảo nguồn lương thực
tại chỗ cho gia đình.
Kết quả khảo sát cho thấy:

- Nhóm hộ thu nhập cao có nguồn thu chính chủ yếu từ trồng lúa 3,711 triệu
đồng/người/tháng (chiếm 71,9%), nuôi trồng thủy sản là 800 triệu đồng/người/tháng
chiếm (15,5%).
- Nhóm hộ thu nhập khá có nguồn thu chủ yếu là từ trồng lúa 1,128 triệu
đồng/người/tháng (chiếm 59,1%), chăn nuôi 450 ngàn đồng/người/tháng (chiếm
23,5%), buôn bán 165 ngàn đồng/người/tháng (chiếm 8,6%).
- Nhóm hộ thu nhập trung bình có nguồn thu chủ yếu là từ trồng lúa 711,5 ngàn
đồng/người/tháng (chiếm 65,7%) chăn nuôi 90,9 ngàn đồng/người/tháng (chiếm
8,4%), nghề phụ (thủ công nghiệp, dịch vụ, ) 89,9 ngàn đồng/người/tháng (chiếm
8,3%).
1818
- Nhóm hộ thu nhập thấp nhất thì nguồn thu chủ yếu từ trồng lúa 211ngàn
đồng/người/tháng (chiếm 43,8%), làm thuê 134 ngàn đồng/người/tháng (chiếm
27,8%), chăn nuôi 53 ngàn đồng/người/tháng (chiếm 11%).
Hầu hết các nhóm hộ có mức thu nhập chênh lệch khác nhau khá xa, thu nhập
nhóm hộ cao nhất đạt 5,162 triệu đồng/người/tháng cao gấp 2,7 lần so với nhóm hộ
khá là 1,911 triệu đồng/người/tháng, gấp 4,8 lần so với nhóm hộ trung bình là 1,083
triệu đồng/người/tháng và gấp 10,7 lần so với nhóm hộ thu nhập thấp là 482 ngàn
đồng/người/tháng.
Trong thời gian qua nhờ việc áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất
nên năng suất lúa không ngừng tăng lên cùng với việc đa canh, đa dạng hóa hoạt động
sản xuất trong nông nghiệp được phát triển rộng khắp trong vài năm gần đây. Vì vậy
thu nhập hộ nông dân ngày càng tăng.
Trong lĩnh vực trồng lúa có sự chênh lệch đáng kể giữa các nhóm quan sát
trong đó:
- Thu nhập nhóm hộ cao nhất từ trồng lúa đạt 3,711 triệu đồng/người/tháng
- Thu nhập nhóm hộ khá đạt 1,128 triệu đồng/người/tháng.
- Thu nhập nhóm hộ trung bình từ trồng lúa đạt 711,5 ngàn đồng/người/tháng.
- Thu nhập nhóm hộ thấp nhất từ trồng lúa đạt 211 ngàn đồng/người/tháng.
Như vậy, nhóm hộ cao nhất có thu nhập từ trồng lúa cao gấp 3,3 lần nhóm hộ

thu nhập khá, cao gấp 5,2 lần so với nhóm hộ có thu nhập trung bình và cao gấp 17,6
lần so với nhóm hộ thấp nhất, sở dĩ có sự chênh lệch về thu nhập này là do sự cách biệt
về diện tích đất canh tác giữa các nhóm hộ:
- Nhóm có diện tích đất canh tác cao nhất đạt 1800 ha.
- Nhóm có diện tích đất canh tác thấp nhất là 15 ha.
Ngoài ra để bù đắp những thiếu hụt từ trồng lúa, nhiều hộ nông dân còn có
thêm thu nhập từ hoạt động sản xuất khác như: trồng rau màu, chăn nuôi, nuôi trồng
thủy sản, buôn bán, làm thuê, nghề phụ,…và xu hướng này ngày càng mở rộng. Tổng
giá trị nuôi trồng thủy sản của các nhóm là 851 triệu đồng/người/tháng trong đó:
- Nhóm thu nhập cao là 800 triệu đồng/người/tháng.
- Nhóm hộ khá là 51 ngàn đồng/người/tháng.
Sở dĩ nuôi trồng thủy sản chỉ tập trung ở nhóm hộ có thu nhập cao nhất là vì:
1919
- Đòi hỏi phải có nhiều vốn, trình độ hiểu biết, kỹ thuật nuôi trồng.
- Có khả năng gặp nhiều rủi ro vì chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: dịch
bệnh, chất lượng con giống, giá cả đầu ra…
Vì vậy, một số hộ từ con cá, tôm mà làm giàu thì cũng có một số hộ vì nó phải
phá sản lâm vào cảnh nợ nần từ hộ giàu trở thành hộ nghèo. Buôn bán tập trung những
khu vực đông dân cư, chợ thu nhập trung bình của từng nhóm quan sát cụ thể như sau:
- Nhóm thu nhập cao 237 ngàn đồng/người/tháng.
- Nhóm thu nhập khá 165 ngàn đồng/người/tháng.
- Nhóm thu nhập trung bình 63,9 ngàn đồng/người/tháng.
- Nhóm thu nhập thấp 44 ngàn đồng/người/tháng.
Buôn bán ở nhóm hộ thu nhập cao nhất và khá chủ yếu bán vật tư nông nghiệp,
tạp hóa, thuốc tây…còn nhóm hộ thu nhập trung bình và nhóm thấp nhất chủ yếu là
buôn bán nhỏ: bán bún, rau cải, bán cá… Chăn nuôi chủ yếu tập trung ở nhóm hộ khá
chiếm 23,5%, nhóm hộ trung bình chiếm 8,4% và nhóm hộ thấp nhất là 11%. Bên
cạnh các nhóm hộ có thu nhập chính từ trồng lúa, nuôi trồng thủy sản, buôn bán… thì
ở nhóm hộ thấp nhất có nguồn thu nhập chính khác cũng rất quan trọng đó là làm thuê
134 ngàn đồng/người/tháng. Đây là nhóm thường tập trung những hộ không có đất

canh tác hoặc có diện tích đất canh tác thấp, vì vậy làm thuê được coi như là hoạt động
chính nhằm mang lại nguồn thu nhập cho gia đình, tuy nhiên thu nhập của nhóm hộ
này thường không ổn định, bấp bênh vì chỉ mang tính thời vụ. Ngoài ra, các nhóm hộ
còn có nguồn thu khác từ hoa màu, nghề phụ, dịch vụ, phụ cấp… mặc dù đây là một
khoản thu không lớn chỉ tập trung ở một số hộ nhưng nó cũng rất quan trọng đối với
việc đầu tư nông nghiệp của hộ nông dân đặc biệt là nhóm hộ có thu nhập thấp, thường
thì nhóm hộ này chỉ cần 100 – 500 ngàn đồng là có thể đầu tư cho chăn nuôi, trồng trọt
góp phần gia tăng thu nhập. Nhìn chung, nguồn thu nhập chính của hộ nông dân xã An
Phụ chủ yếu từ các nguồn trồng lúa, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, buôn bán, làm
thuê. Ngoài ra một số hộ còn có nguồn thu từ trồng hoa màu, dịch vụ, tiểu thủ công
nghiệp, phụ cấp….Việc chênh lệch về diện tích đất canh tác, nuôi trồng càng tạo
khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm hộ ngày càng rõ rệt ảnh hưởng chung đến sự
phát triển kinh tế - xã hội của xã và việc giảm sự cách biệt về giàu nghèo ở nông thôn
ngày càng khó khăn.
2020
Bảng : Thu nhập phân theo hoạt động sản xuất của 50 hộ nông dân điều tra
năm 2011
Đơn vị : nghìn đồng
Hoạt động
sản xuất
Thu nhập
Trồng lúa
71397,5
Trồng rau màu
1257,5
Chăn nuôi
13258,5
Nuôi trồng thủy sản
9020
Buôn bán

6848,5
Nghề phụ
1808,5
Làm thuê
2643,5
Khác
2251
2.1.2. Những khó khăn gặp phải trong quá trình sản xuất làm ảnh hưởng tới thu nhập
của hộ nông dân :
Giống: Chất lượng giống cây trồng, vật nuôi kém gây ảnh hưởng rất nhiều đến
quá trình sản xuất cũng như sản lượng thu hoạch và quá trình tiêu thụ sản phẩm gặp
khó khăn. Từ đó làm giảm thu nhập với mức độ ảnh hưởng của từng nhóm cụ thể là:
- Nhóm thu nhập cao chiếm 44%.
- Nhóm thu nhập khá 32%.
- Nhóm thu nhập trung bình 24%.
- Nhóm thu nhập thấp 12%.
Vì vậy việc chất lượng giống tốt là nhân tố quan trọng trong quá trình sản xuất
góp phần gia tăng thu nhập giúp kinh tế hộ phát triển.
Giá cả vật tư nông nghiệp, thức ăn: Đây là một yếu tố có ảnh hưởng lớn đến
quá trình sản xuất và cũng như thu nhập của các nhóm hộ:
- Nhóm thu nhập cao chiếm 96%.
- Nhóm thu nhập khá 64%.
- Nhóm thu nhập trung bình 84%.
- Nhóm thu nhập thấp 64%.
Biến động tăng giá sẽ làm tăng chi phí sản xuất, tạo ra sức ép về vốn đối với
các hộ nông dân. Hệ quả là năng suất lao động nông nghiệp có thể giảm xuống và thu
2121
nhập của người nông dân cũng bị ảnh hưởng theo. Sản lượng cung cấp ra thị trường vì
thế cũng hạn chế. Từ đó có thể dẫn đến việc nông dân hạn chế đầu tư thâm canh hoặc
sẽ chuyển đổi hệ thống sản xuất, lựa chọn những cây trồng, vật nuôi ít chịu tác động

của giá cả vật tư nông nghiệp, thức ăn đồng thời áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ
thuật để tăng năng suất lao động, giảm thiểu chi phí sản xuất.
Vốn: Đây là yếu tố có tác động lớn nhất trong quá trình sản xuất, đặc biệt ở
nhóm các hộ nông dân có thu nhập thấp và trung bình thường gặp nhiều khó khăn
trong việc đầu tư vốn sản xuất cụ thể:
- Nhóm hộ có thu nhập cao chiếm 56%
- Nhóm thu nhập khá 60%
- Nhóm thu nhập trung bình 96%.
- Nhóm thu nhập thấp 100%.
Rõ ràng các nhóm hộ thu nhập cao, thu nhập khá cũng chịu tác động lớn từ
nguồn vốn để mở rộng sản xuất. Đối với nhóm thu nhập trung bình và thấp thì bên
cạnh việc thiếu vốn trong quá trình sản xuất còn thiếu tiền trong chi tiêu hằng ngày.
Nhân công lao động: Do sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ nên chỉ khi
nào đến mùa vụ thì những người làm thuê mới có thu nhập còn vào những thời gian
khác lao động nhàn rỗi, vì vậy để có được thu nhập ổn định hơn lực lượng lao động
chủ yếu ở nông thôn tập trung về các thành phố, các nhà máy chế biến thủy sản hoặc
vào khu công nghiệp nên bắt đầu mùa vụ sản xuất, thu hoạch lực lượng lao động trở
nên khan hiếm. Điều đó gây khó khăn cho các nông hộ, phải thuê mướn lao động với
giá cao làm chi phí sản xuất tăng lên. Tác động cụ thể trên từng nhóm như sau:
- Nhóm hộ thu nhập cao thuờng xuyên gặp khó khăn nhất vì quy mô sản xuất
lớn chiếm 52%.
- Nhóm hộ thu nhập khá 40%.
- Nhóm hộ thu nhập trung bình 20%.
- Còn đối với nhóm hộ có thu nhập thấp thì hoàn toàn không ảnh hưởng là do
thu nhập chủ yếu của nhóm hộ này chủ yếu từ làm thuê.
Máy móc phục vụ sản xuất: Máy cày, máy tuốt lúa, máy bơm nước, máy sấy
lúa… cũng làm cho hộ nông dân gặp không ích khó khăn khi đến mùa vụ sản xuất:
- Nhóm thu nhập cao là 40%
2222
- Nhóm hộ thu nhập khá 32%.

- Nhóm hộ thu nhập trung bình 12%.
- Nhóm hộ thu nhập thấp 8%.
Những số liệu trên cho thấy yếu tố máy móc tác động phần lớn lên các nhóm hộ
có thu nhập cao, khá do quy mô và diện tích canh tác lớn, còn đối với các nhóm hộ có
thu nhập trung bình, thấp thì diện tích đất canh tác nông nghiệp ít nên các yếu tố máy
móc không có tác động lớn đến nhóm hộ này.
Thời tiết: Bất lợi gây khó khăn trong quá trình hoạt động sản xuất đặc biệt chịu
ảnh hưởng nhiều nhất có thể nói đến là trồng lúa, nuôi trồng thủy sản…. Việc thời tiết
thất thường khi nóng quá, khi mưa nhiều đã làm giảm sản lượng thu hoạch và sự tác
động này thường gây ảnh hưởng lớn nhất đối với nhóm hộ có thu nhập cao chiếm 60%
vì quy mô sản xuất nhóm hộ này tương đối lớn và đa dạng.
Dịch bệnh: Ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình sản xuất như: dịch ốc bưu
vàng, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá trên lúa, dịch cúm trên gia cầm, lở mồm long móng
trên gia súc, bệnh đốm trắng trên cá… gây thiệt hại nặng đến cây trồng, vật nuôi. Do
đó, việc hiểu biết và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào việc phòng và trị dịch
bệnh là yếu tố rất cần thiết để tăng năng suất cải thiện thu nhập.
Kỹ thuật canh tác, nuôi trồng: Bón phân khi nào, hàm lượng thuốc trừ sâu
bao nhiêu là đủ và an toàn, áp dụng máy móc vào trong quá trình sản xuất, đối với
từng loại bệnh trên cây trồng, vật nuôi thì phải biết sử dụng loại thuốc nào cho phù
hợp. Vì vậy kỹ thuật canh tác nuôi trồng là khâu quyết định đến năng suất, chất lượng
hàng nông sản cung cấp ra thị trường.
Ngoài ra còn có các yếu tố khác như: trình độ quản lý, tay nghề lao động…
cũng gây khó khăn đến quá trình sản xuất.
2323
2.1.3. Nguyên nhân dẫn tới thu nhập thấp của hộ nông dân và hệ quả đối với từng
nhóm hộ :
Nguyên nhân dẫn đến thu nhập
thấp
Hệ quả
Nhóm hộ

nông dân thu
nhập thấp,
thu nhập
trung bình.
Thiếu diện tích đất canh tác Không mở rộng được sản xuất
Thiếu vốn Không có điều kiện để đầu tư
sản xuất
Trình độ học vấn thấp Khó khăn trong việc học tập và
ứng dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật
Khả năng tiếp cận thị trường thấp Không nắm bắt được giá cả và
nhu cầu thị trường nên bị
thương buôn ép giá dẫn đến lợi
nhuận thu được thấp
Trình độ canh tác thấp Năng suất thấp
Nhóm hộ
nông dân thu
nhập cao, thu
nhập khá
Hệ thống giao thông chưa đảm bảo Quy mô sản xuất còn hạn chế
Phụ thuộc vào lúa Khó phát triển kinh tế
Khó tìm ngành nghề đầu tư mới do
thiếu trình độ chuyên môn
Vẫn duy trì ngành nghề sản xuất

Giống cây trồng, vật nuôi không
đảm bảo chất lượng
Năng suất thấp, thu nhập giảm
Thiếu lao động Khó khăn trong quá trình sản
xuất

Thiếu vốn Gây khó khăn cho mở rộng sản
xuất
2.2. Thực trạng đầu tư của hộ nông dân xã An Phụ :
2.2.1. Các hình thức đầu tư của hộ nông dân xã An Phụ :
Từ các nguồn thu nhập của hộ nông dân, có thể chia ra 2 hình thức đầu tư là:
Đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp (lúa, rau màu, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản) chiếm
86% và đầu tư vào lĩnh vực phi nông nghiệp (buôn bán, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ,
làm thuê…) chiếm 34%. Đa số hộ nông dân đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp (chiếm
86%) vì:
- Đây được coi là lĩnh vực dễ đầu tư.
- Mang lại nguồn thu nhập tương đối ổn định.
2424
- Đây còn là ngành nghề truyền thống của gia đình.
- Không đòi hỏi trình độ cao và hơn thế nữa những hộ nông dân không tìm
được ngành nghề mới để thay thế.
Một số hộ nông dân đầu tư vào lĩnh vực phi nông nghiệp chiếm 34% là do:
- Không có đất canh tác, nuôi trồng.
- Ngành nghề hiện tại không đem lại lợi nhuận, ngành nghề mới phát triển đem
lại lợi nhuận cao.
- Bên cạnh thu nhập từ nông nghiệp họ muốn đầu tư thêm lĩnh vực khác để gia
tăng thu nhập cho gia đình.
2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư của hộ nông dân xã An Phụ :
Vốn: Trong tất cả các nhóm hộ từ nhóm có thu nhập thấp đến nhóm có thu
nhập cao thì nguồn vốn luôn là vấn đề quan tâm nhất khi quyết định đầu tư:
- Nhóm thu nhập cao 92%.
- Nhóm thu nhập khá 92%.
- Nhóm thu nhập trung bình 96%.
- Nhóm thu nhập thấp 100%.
Trong quá trình sản xuất quy mô được mở rộng hơn hay thu hẹp lại là phụ
thuộc vào nguồn vốn mà hộ nông dân nắm trong tay, nhóm hộ có nguồn lực về vốn dồi

dào thì quy mô sản xuất sẽ không ngừng được mở rộng, còn nhóm hộ không có nguồn
lực vốn thì quy mô sản xuất không những không tăng lên thậm chí còn thu hẹp lại. Vì
vậy, vốn đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất, đặc biệt là ở nhóm thu
nhập thấp.
Lợi nhuận: Mặc dù vốn là vấn đề mà các nhóm hộ cho là rất ảnh hưởng khi
quyết định đầu tư nhưng một yếu tố khác cũng rất quan trọng đó là lợi nhuận:
- Nhóm thu nhập cao 72%.
- Nhóm thu nhập khá 84%.
- Nhóm thu nhập trung bình 84%.
- Nhóm thu nhập thấp 76%.
Trong quá trình hoạt động sản xuất phải có lợi nhuận nếu sản xuất mà không
tạo ra lợi nhuận thì hộ nông dân sẽ không sản xuất nữa.
2525

×