Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tiểu luận Chế độ tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu và những nhận xét, đánh giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.73 KB, 13 trang )

A -MỞ ĐẦU
Chế độ tài chính và quyền tự chủ về tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu đến
nay không còn là một đề tài mới song trên thực tế nó còn rất nhiều bất cập mà các nhà
làm luật cũng như các cơ quan quản lý có thẩm quyền nghiên cứu và tìm ra giải pháp
để làm sao pháp luật vừa thống nhất, đồng bộ, có tính khả thi cao, tạo một cơ sở pháp
lý vững chắc cho các đơn vị sự nghiệp nói chung và các đơn vị sự nghiệp có thu nói
riêng thực hiện tốt các quy định về tài chính. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này nhóm
chúng em đi tìm hiểu đề tài: “ Chế độ tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu và
những nhận xét, đánh giá”.


















B - NỘI DUNG
I. Khái quát chung về đơn vị sự nghiệp có thu và chế độ tài chính của đơn vị sự
nghiệp có thu
1. Khái niệm chung về đơn vị sự nghiệp có thu


1.1. Khái niệm về đơn vị sự nghiệp có thu
Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể về khái niệm đơn vị sự
nghiệp có thu. Tuy nhiên, có thể hiểu một cách chung nhất đơn vị sự nghiệp có thu là
một loại đơn vị sự nghiệp. Trên thực tế, có thể thấy “đơn vị sự nghiệp nói chung là
các cơ quan, tổ chức sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước”. ví dụ: các cơ quan có
nhiệm vụ thu, chi ngân sách các cấp, văn phòng Quốc hội, văn phòng Chính phủ, Tòa
án, Viện kiểm sát, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân.
Theo cơ chế quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp được chia làm ba loại:
- Đơn vị sự nghiệp thuần túy không thực hiện cơ chế khoán biên và kinh phí
- Đơn vị sự nghiệp hoạt động theo chế độ khoán biên và kinh phí
- Đơn vị sự nghiệp hoạt động theo cơ chế quản lý tài chính áp dụng cho đơn vị sự
nghiệp có thu. Ví dụ: trường học, bệnh viện.
Như vậy, đơn vị sự nghiệp có thu là một loại đơn vị sự nghiệp sử dụng kinh phí
ngân sách nhà nước, có nhiệm vụ thu - chi ngân sách và hoạt động theo cơ chế quản
lý tài chính riêng áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. Về hoạt động, đơn vị sự
nghiệp có thu là các đơn vị hành chính sự nghiệp có chức năng cung cấp các dịch vụ
công nhất định cho các tổ chức và công dân hay còn gọi là hoạt động sự nghiệp.
1.2. Đặc điểm đơn vị sự nghiệp có thu
Đơn vị sự nghiệp có thu là đơn vị do cơ quan nhà nước thành lập, có tư cách
pháp nhân độc lập. Nó có thể được coi là “ một đơn vị kinh tế có chức năng thực hiện
các dịch vụ công phục vụ cơ chế hoạt động và chế độ tài chính giống với cơ quan
hành chính nhà nước. Trong suốt thời gian dài tồn tại cơ chế bao cấp các đơn vị sự
nghiệp được cấp kinh phí hoạt động, số còn lại theo chế độ tự trang trải một phần kinh
phí theo ba hình thức : cấp phát theo hạn mức, cấp bù trừ chênh lệch và gán thu bù chi
nhưng hiện nay pháp luật đã quy định cho nó địa vị pháp lý rõ ràng và chế độ tài
chính cụ thể để phù hợp với những điều kiện mới của nền kinh tế thị trường. Hiện nay
các đơn vị này đã được trao quyền tự chủ tài chính và hoạt động theo chế độ tài chính
riêng. Tuy nhiên, nó không hoạt động theo luật doanh nghiệp mà chế độ tài chính nó
phải được thực thi theo luật ngân sách và các văn bản pháp luật có liên quan.
Các đặc trưng cơ bản của các đơn vị sự nghiệp có thu thể hiện ở những khía

cạnh sau đây:
Thứ nhất, những hoạt động của các đơn vị này có tổ chức xã hội, khác với
những loại hình dịch vụ thông thường nó phục vụ các lợi ích tối cần thiết của xã hội
để đảm bảo cho cuộc sống bình thường. Những loại dịch vụ thông thường được hiểu
là những hoạt động phục vụ không tạo ra sản phẩm mang hình thái hiện vật, còn dịch
vụ mà các đơn vị sự nghiệp cung cấp là là những hoạt động phục vụ các nhu cầu thiết
yếu của xã hội, bất kể các sản phẩm được tạo ra có hình thái hiện vật hay phi hiện vật.
Thứ hai, việc trao đổi dịch vụ công giữa các đơn vị sự nghiệp và các tổ chức ,
cá nhân không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ, nghĩa là nó không giống với họat
động kinh doanh của các doanh nghiệp. Có những dịch vụ mà người sử dụng chỉ phải
đóng phí hoặc lệ phí, có những dịch vụ thì phải trả một phần hoặc toàn bộ kinh phí.
Tuy nhiên, việc cung ứng dịch vụ này không nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Thứ ba, hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu không trực tiếp phục vụ cho
quản lý hành chính nhà nước, không mang tính quyền lực quản lý như hoạt động của
các cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ tư, các đơn vị sự nghiệp có thu có nguồn thu không thường xuyên từ hoạt
động sự nghiệp bởi vậy nó khác với các cơ quan quản lý hành chính ở chỗ mang lại
nguồn thu cho ngân sách nhà nước và được tự chủ về mặt tài chính, không phụ thuộc
vào cơ chế xin cho như trước.
1.3 . Phân loại đơn vị sự nghiệp có thu
Theo điều 9 Nghị định 43/2006/NĐ – CP Căn cứ vào nguồn thu sự nghiệp, đơn
vị sự nghiệp được phân loại để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính như sau:
“a) Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường
xuyên (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động);
b) Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường
xuyên, phần còn lại được ngân sách nhà nước cấp (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp tự bảo
đảm một phần chi phí hoạt động);
c) Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp, đơn vị sự nghiệp không có nguồn thu, kinh phí
hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ do ngân sách nhà nước bảo đảm

toàn bộ kinh phí hoạt động (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo
đảm toàn bộ chi phí hoạt động)”
Đối với các đơn vị sự nghiệp đặc thù trực thuộc Đài Tiếng nói Việt Nam,
Thông tấn xã Việt Nam, các đơn vị có quy trình hoạt động đặc thù theo quy định tại
khoản 2 Điều 1 Nghị định này, việc xác định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính của các đơn vị sự nghiệp thực hiện theo loại của đơn vị sự nghiệp cấp trên. Việc
phân loại đơn vị sự nghiệp theo quy định trên được ổn định trong thời gian 3 năm.
Sau thời hạn 3 năm sẽ xem xét phân loại lại cho phù hợp.
Việc phân loại đơn vị sự nghiệp có thu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác
định chế độ tài chính vì chế độ tài chính áp dụng cho mỗi đơn vị sự nghiệp có thu
khác nhau là khác nhau.
II- Nội dung quy định của pháp luật về chế độ tài chính của đơn vị sự nghiệp có
thu
1. Khái niệm về chế độ tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu
Các đơn vị sự nghiệp có thu được tự chủ tài chính, được chủ động bố trí kinh tế
để thực hiện nhiệm vụ của mình. Các đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo được một
phần chi phí thì sẽ được cấp ngân sách định kì 3 năm và hàng năm để ổn định kinh
phí hoạt động thường xuyên. Ngân sách cho đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo được
một phần chi phí được tăng thêm theo tỷ lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Các
đơn vị sự nghiệp có thu được vay tín dụng ngân hàng hoặc Quỹ hỗ trợ phát triểm mở
rộng nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức sản xuất cung ứng dịch vị và
tự chịu trách nhiệm trả nợ theo quy định của pháp luật. Đơn vị sự nghiệp có thu quản
lý, sử dụng tài sản Nhà nước theo quy định đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp.
Đơn vị sự nghiệp có thu được mở tài khoản Tiền gửi tại ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà
nước để phản ánh thu chi cho hoạt động của mình, đồng thời mở tài khoản Kho bạc
Nhà nước để phản ánh kinh phí thuộc ngân sách Nhà nước, nhằm quản lý nhà nước
được dễ dàng hơn.
2.Nội dung các quy định pháp luật về chế độ tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu
2.1.Các quy định về thu và tự chủ về nguồn thu
Các quy định về các khoản thu: Danh mục các khoản thu được liệt kê cụ thể tại

điều 14 Nghị định 43/2006/NĐ – CP và khoản 1 mục VIII thông tư số 71/2006/TT –
BTC như: “ Kinh phí do nhà nước cấp, nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp, nguồn viện
trợ tài trợ, quà biếu tặng…”, Ngoài ra đơn vị sự nghiệp được quyền huy động vốn từ
các tổ chức tín dụng, từ cán bộ viên chức trong đơn vị, sử dụng vốn liên doanh liên
kết các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Đây là
nguồn mà các cơ quan quản lý hành chính nhà nước không có quyền huy động và sử
dụng.
Các đơn vị sự nghiệp được tự chủ về các khoản thu, mức thu:Theo thông tư số
71/2006/ TT – BTC của Bộ tài chính, đơn vị sự nghiệp có thu được tự chủ trong việc
vay vốn và tự chịu trách nhiệm trả nợ vay. Và theo điều 16 Nghị định 43/2006/NĐ –
CP, đơn vị sự nghiệp “ có quyền quyết định một số mức thu cụ thể cho phù hợp với
từng loại hoạt động” nhưng vẫn phải tuân thủ nghiêm các quy định về phí, lệ phí, và
không được vượt quá khung thu mà Nhà nước đã quy định. Tính tự chủ còn thể hiện
trong quá trình thực hiện dịch vụ của đơn vị, tuy nhiên vẫn có sự phân biệt giữa việc
thực hiện dịch vụ cho nhà nước và cho tổ chức cá nhân khác.
2.2.Các quy định về chi và tự chủ về chi
Các đơn vị phải chấp hành các chế độ chi mà Nhà nước đã quy định như danh
mục các khoản chi ( được quy định tại Điều 15 Nghị định 43/2006/NĐ – CP và khoản
2 mục VIII thông tư 71/2006/TT – BTC). Theo điều 17 Nghị định 34/2006/NĐ- CP
đơn vị sự nghiệp có thu được quyền : “quyết định một số mức chi quản lý, chi hoạt
động nghiệp vụ cao hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định; quyết định phương thức khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc;
quyết định đầu tư xây dựng, mua sắm mới và sửa chữa lớn tài sản thực hiện theo quy
định của pháp luật và quy định tại Nghị định này” và những thẩm quyền này thuộc
về thủ trưởng đơn vị. Quy định này tạo nên sự chủ động của đơn vị đối với những yêu
cầu phát sinh ngoài dự đoán những quy định có sẵn, đảm bảo sự phù hợp với tình hình
thực tiễn để cuối cùng đơn vị đạt được những hiệu quả cao nhất trong hoạt động của
mình.
Để thực hiện quyền tự chủ về chi pháp luật quy định các đơn vị sự nghiệp có
thu phải xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ. Theo thông tư số 50/2003/TT- BTC ngày

22/5/2003 của Bộ tài chính hướng dẫn các đơn vị sự nghiệp có thu xây dựng quy chế
chi tiêu nội bộ thì quy chế này “ phải được thảo luận một cách rộng rãi, dân chủ,
công khai, có ý kiến tham gia của công đoàn cơ sở”. Đây chính là căn cứ để các cơ
quan cấp trên của đơn vị quản lý về mặt tài chính và Kho Bạc Nhà nước nơi đơn vị
mở tài khoản giao dịch thực hiện kiểm soát chi. Ngoài các khoản chi như kinh phí
thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, thực hiện các đề tài nghiên cứu cấp
Nhà nước, Bộ, nghành; tiêu chuẩn trụ sở nơi làm việc, chế độ công tác nước ngoài,
tiếp khách nước ngoài thì đơn vị có quyền chi mức cao hơn hoặc thấp hơn mức nhà
nước quy định như chi công tác phí trong nước, chi phí sử dụng điện thoại, chi hội
nghị, Sử dụng văn phòng phẩm điện chiếu sáng…
Về vấn đề chi cho tiền lương, tiền công và thu nhập tăng thêm cho người lao
động trong các đơn vị sự nghiệp có thu được quy định tại điều 18 Nghị định
43/2006/NĐ- CP của Chính phủ. Trong vấn đề chi trả thu nhập tăng thêm cho người
lao động, các đơn vị hoàn toàn có quyền chủ động phân phối phần chênh lệch thu –
chi nhằm tăng thu nhập cho các thành viên trong đơn vị sau khi đã thực hiện việc bổ
sung vào quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp tối thiểu 25% chênh lệch thu chi.
2.3. Các quy định về sử dụng và quản lý tài sản Nhà nước trong các đơn vị sự nghiệp
có thu
Theo điều 33 Luật quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước năm 2008: “Tiền thu
được từ hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ, liên doanh, liên kết phải được hạch
toán đầy đủ theo quy định của pháp luật về kế toán, thống kê và quản lý, sử dụng theo
cơ chế tài chính áp dụng đối với doanh nghiệp.Tiền thu được từ cho thuê tài sản, đơn
vị phải hạch toán riêng, sau khi trừ chi phí hợp lý liên quan, nộp thuế và thực hiện
nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà nước, đơn vị được sử dụng để phát triển hoạt
động sự nghiệp”.
Ngoài ra điều 12 Nghị định 43/2006/NĐ – CP còn quy định “ đối với tài sản cố
định sử dụng vào hoạt động dịch vụ phải thực hiện trích khấu hao thu hồi vốn theo
quy định áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước. Số tiền trích khấu hao tài sản cố
định và tiền thu từ thanh lý tài sản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước đơn vị được
để lại bổ sung Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp.Số tiền trích khấu hao, tiền thu

thanh lý tài sản thuộc nguồn vốn vay được dùng để trả nợ vay. Trường hợp đã trả đủ
nợ vay, đơn vị được để lại bổ sung Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp đối với số còn
lại (nếu có)”.
Bên cạnh đó theo số 115/2008/ QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày
27/8/2008: các đơn vị sự nghiệp có thu phải thực hiện công khai về quản lý và sử
dụng tài sản Nhà nước tại đơn vị mình. Về nguyên tắc, các đơn vị có trách nhiệm phải
cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin về quản lý, sử dụng tài sản công
khai qua các hình thức: Công bố trong các kỳ họp thường niên của đơn vị, phát hành
ấn phẩm, niêm yết công khai tại trụ sở làm việc, thông báo bằng văn bản đến các cơ
quan, tổ chức, cá nhân liên quan…
2.4. Các quy định về vấn đề trích lập các quỹ và thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với
Nhà nước
Điều 19 Nghị định 43/2006/NĐ-CP và khoản 4 mục VIII thông tư số
71/2006/TT-BTC đã quy định rõ trình tự ưu tiên thành lập các loại quỹ, mức trích lập
và mục đích sử dụng từng loại quỹ. Đó là:
Hàng năm sau khi trang trải các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp khác
theo quy định, phần chênh lệch thu lớn hơn chi (nếu có), đơn vị được sử dụng theo
trình tự như sau:
a) Đối với đơn vị tự bảo đảm chi phí hoạt động:
- Trích tối thiểu 25% để lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp;
- Trả thu nhập tăng thêm cho người lao động;
- Trích lập Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi, Quỹ dự phòng ổn định thu nhập.Đối với 2
Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi, mức trích tối đa không quá 3 tháng tiền lương, tiền
công và thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm.
Mức trả thu nhập tăng thêm, trích lập các quỹ do Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp quyết
định theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
b) Đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động:
- Trích tối thiểu 25% để lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp;
- Trả thu nhập tăng thêm cho người lao động theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều
18 Nghị định này;

- Trích lập Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi, Quỹ dự phòng ổn định thu nhập. Đối với
2 Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi mức trích tối đa không quá 3 tháng tiền lương,
tiền công và thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm;”
Trường hợp chênh lệch thu lớn hơn chi trong năm bằng hoặc nhỏ hơn một lần
quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ trong năm, đơn vị được sử dụng để trả thu nhập tăng
thêm cho người lao động, trích lập 4 quỹ: Quỹ dự phòng ổn định thu nhập, Quỹ khen
thưởng, Quỹ phúc lợi, Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, trong đó, đối với 2 Quỹ
khen thưởng và Quỹ phúc lợi mức trích tối đa không quá 3 tháng tiền lương, tiền công
và thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm. Mức trả thu nhập tăng thêm,
trích lập các quỹ do Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp quyết định theo quy chế chi tiêu nội
bộ của đơn vị.
Đơn vị sự nghiệp không được chi trả thu nhập tăng thêm và trích lập các quỹ từ
các nguồn kinh phí quy định tại các điểm c, d, e, g, h, i, k khoản 1 Điều 14 Nghị định
này và kinh phí của nhiệm vụ phải chuyển tiếp sang năm sau thực hiện”.Và điều 20
Nghị định này quy định về mục đích sử dụng từng loại quỹ: quỹ phát triển hoạt động
sự nghiệp dùng để đầu tư, phát triển nâng cao hoạt động sự nghiệp, bổ sung vốn đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất…; quỹ dự phòng ổn định thu nhập để đảm bảo thu nhập
cho người lao động; quỹ khen thưởng dùng để thưởng định kì, đột xuất cho tập thể, cá
nhân có thành tích ; quỹ phúc lợi dùng để xây dựng, sửa chữa các công trình phúc
lợi….
III- Nhận xét, đánh giá các quy định của pháp luật về chế độ tài chính của các dơn
vị sự nghiệp có thu
1. Nhận xét, đánh giá
Ưu điểm: Kể từ khi đổi mới cơ chế tài chính với việc trao quyền tự chủ cho các đơn vị
sự nghiệp có thu chúng ta đã đạt được nhiều thành quả tích cực:
- Việc cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính – ngân sách được đẩy mạnh.
Chính sách xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp đã bước đầu phát huy hiệu quả, đã huy
động được một bộ phận nguồn lực của xã hội để phát triển các sự nghiệp giáo dục, y
tế, văn hóa, thể dục – thể thao. Công tác kiểm soát chi ngân sách qua Kho bạc, hoạt
động thanh tra, kiểm tra tài chính đã được tăng cường, thực hiện công khai minh bạch

quyết toán và dự toán hằng năm.
- Việc thực hiện cơ chế tự chủ còn gián tiếp mang lại một thành công nữa là phân
biệt rõ chức năng nhiệm vụ của cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp, từ đó thay
đổi phương thức quản lý đối với đơn vị sự nghiệp.
- Việc trao ba quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, biên chế và tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị sự nghiệp không ngừng
tìm kiếm biện pháp mở rộng hoạt động dịch vụ, mở rộng nguồn thu, chi tiêu tiết kiệm
để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Hạn chế :
- Văn bản pháp lý chưa có sự đồng bộ, thiếu văn bản hướng dẫn, đồng thời nhiều
vấn đề pháp lý cần tiếp tục xây dựng hoàn thiện. ví dụ như khung giá viện phí để đảm
bảo cân đối thu chi, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh.
- Việc trao quyền tự chủ về tài chính cũng là bài toán tương đối nan giải đối với các
đơn vị sự nghiệp có htu trong điều kiện kinh tế thị trường luôn biến động. Nhiều đơn
vị còn lúng túng khi sử dụng quyền được trao vì vốn dĩ quen với cơ chế xin cho mà
không quen với việc tự ra quyết định. Thêm vào đó là việc xây dựng quy chế chi tiêu
nội bộ như thế nào là tiết kiệm chống lãng phí, căn cứ để xây dựng quy chế chi tiêu
nội bộ là tiêu chuẩn, định mức ban hành nhưng chưa đầy đủ.
- Đội ngũ cán bộ tài chính, kế toán của các đơn vị như “ một số thuộc nghành giáo
dục cán bộ tài chính, kế toán kiêm nhiệm nhiều (trên 40%), chưa qua trường lớp đào
tạo chuyên môn.
- Về vấn đề tiền lương, hiện nay, các đơn vị sự nghiệp có thu đang thực hiện tự chủ
tài chính theo nghị định 43 của chính phủ, khi mà Nghị định khống chế số lương cơ
bản thì việc tăng lương này cũng sẽ có nhiều khó khăn trong việc tìm nguồn chi bù.
- Nghị định 43/2006/NĐ-CP đã mở rộng phạm vi giao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính; thực hiện bao
trùm toàn bộ đơn vị sự nghiệp công lập. Nhưng các cơ quan vẫn đang vận hành theo
cơ chế cũ, trong khi “bầu sữa mẹ” từ ngân sách bị giảm, khung giá thu nhiều loại phí
quá thấp và lạc hậu (như viện phí, lệ phí ), giá thấp và lạc hậu là thách thức không
nhỏ đối với các đơn vị thực hiện hạch toán theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP.Làm thế

nào để vừa tăng thu, tiết kiệm chi tiêu và đảm bảo mức lương và thu nhập tăng thêm
hợp lý cho người lao động mà không vi phạm vào khung giá chung mà nhà nước đã
quy định là một vấn đề nan giải đối với các đơn vị sự nghiệp có thu.
- Mặt khác việc trao quyền tự chủ về tài chính cho các đơn vị sự nghiệp không quy
định chi tiết về việc trích lập quỹ đã khiến các đơn vị lúng túng trong việc trích lập
quỹ từ nguồn kinh phí được giữ lại, tạo khe hở cho lãnh đạo các đơn vị tham ô, lãng
phí.
- Ngoài ra, việc “ cào bằng” hoặc theo hệ số lương bậc trong tăng thu cho người lao
động đã không khuyến khích được người lao động thi đua, nhanh hoàn thành tốt
nhiệm vụ. Nhiều nơi chưa thực hiện tốt chế độ công tài chính, quản lý tài sản Nhà
nước trong đơn vị khiến người lao động bất bình, thậm chí dẫn đến tình trạng khiếu
nại, tố cáo.
- Thêm vào đó công tác tuyên truyền của Bộ tài chính và các bộ, nghành về nội
dung và tư tưởng đổi mới của Nghị định 43/2006/ NĐ-CP còn nhiều bất cập, nhiều tổ
chức cơ quan nhận thực chưa đúng và có tâm lý e ngại chờ đợi.
- Việc ban hành các văn bản hướng dẫn còn chậm và không đồng bộ. việc hỗ trợ,
hướng dẫn chậm ảnh hưởng đến quá trình thực hiện pháp luật. Quan hệ tài chính đối
với các hoạt động của đơn vị sự nghiệp có thu vẫn còn rập khuôn, cứng nhắc.
- Hiện nay việc xây dựng quy chế chi tiếu nội bộ của các đơn vị sự nghiệp có thu
vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Một mặt do cơ chế chính sách vận hành trong các ngành
giáo dục, y tế, văn hóa…còn nhiều bất cập vì thực tiễn luôn luôn biến động. Mặt khác,
các quy định pháp luật còn chưa chi tiết và chưa thực sự hoàn chỉnh.
2. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ tài chính của đơn vị
sự nghiệp có thu
Hoàn thiện các quy định về quyền tự chủ trên các lĩnh vực khác nhau của các đơn vị
sự nghiệp có thu: sự tự chủ phải đồng bộ các yếu tố có quan hệ hữu cơ với nhau trong
quá trình hoạt động của đơn vị. Nếu quyền tự chủ về tài chính không được giao đồng
bộ đối với các yếu tố quản lý nhân sự, tự chủ về biên chế, thực hiện nhiệm vụ, phạm
vi hoạt động…sẽ dẫn đến chỗ các quyền này hạn chế lẫn nhau và không phát huy tác
dụng.

Hoàn thiện các quy định về quyền sở hữu các nguồn lực tài chính của đơn vị sự
nghiệp có thu:
- Xác lập quyền sở hữu của đơn vị đối với các nguồn lực tài chính( ví dụ: tài sản
nào là hàng viện trợ, quà biếu tặng… cần xác định phần nào đơn vị có quyền sở hữu.
phần nào nộp lại cho Nhà nước).
- Xác lập cơ chế bảo đảm và hỗ trợ thực hiện quyền tự chủ tài chính của các cơ
quan cấp trên có quyền can thiệp đến đâu đối với hoạt động tài chính của đơn vị, khi
cần thiết các đơn vị sẽ được hỗ trợ như thế nào từ phía các cơ quan có thẩm quyền.
- Xác lập quyền chủ động sử dụng các nguồn lực tài chính của đơn vị.
Bổ sung sửa đổi các quy định về cơ sở thực hiện kiểm soát chi và thanh toán các
khoản chi: Quy chế chi tiêu nội bộ là cơ sở pháp lý để kho bạc nhà nước thực hiện
kiểm soát chi và thanh toán các khaonr chi cho các đơn vị, đồng thời còn là căn cứ để
thủ trưởng đơn vị thực hiện sự quản lý, điều hành đối với các khoản kinh phí.Căn cứ
xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ là chế độ, định mức, tiêu chuẩn của nhà nước. vì
vậy, khi chế độ, định mức, tiêu chuẩn của nhà nước thay đổi thì nhất thiết phải xây
dựng lại quy chế hoặc quy chế bổ sung theo trình tự, thủ tục sửa đổi bổ sung nhất
định. Các quy định của Luật hiện nay hướng dẫn xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ còn
chưa rõ ràng chi tiết bởi vậy rất cần sự sửa đổi để làm sao những quy định ấy trở nên
chặt chẽ và phù hợp với từng đơn vị cụ thể trong từng hoàn cảnh cụ thể. Từ khi đó
Kho bạc mới có cơ sở chính xác kiểm soát các khoản chi.
Sửa đổi, bổ sung các quy định về tiền lương và tiền thưởng trong đơn vị sự nghiệp có
thu: Đổi mới việc chi trả thu nhập cho người lao động trên cơ sở đánh giá đúng đắn sự
đóng góp của mỗi người. Tuy nhiên, hiện nay tai hầu hết các đơn vị sự nghiệp có thu
việc đánh giá vẫn mang nặng cảm tính và có phần cào bằng, việc xây dựng hệ thống
đánh giá công việc dựa trên kết quả thực thi đang là yêu cầu quan trọng đặt ra ở tất cả
các cơ quan, đơn vị. Qúa trình này đòi hỏi đơn vị phải xác định được các kết quả đầu
ra, đổi mới dựa trên kết quả thực thi và có phương pháp đo lường sự đóng góp của
mỗi người vào kết quả của bộ phận và của toàn đơn vị.
Từng bước hoàn thiện quá trình thực thi pháp luật về chế độ tài chính của các đơn vị
sự nghiệp có thu:

- Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp có thu và của người
đứng đầu đơn vị trong việc thực hiện chế độ tự chủ tài chính.
- Tăng cường sự quản lý của các cơ quan chủ quản và các cơ quan có thẩm quyền
khác
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ tự chủ tài
chính của các đơn vị sự nghiệp có thu.
- Tạo điều kiện để các thành viên tham gia nhiều hơn vào giải quyết các công việc
của đơn vị, xây dựng một không khí đoàn kết, thống nhất.
- Đưa tinh thần kinh doanh vào hoạt động sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp có
thu.
Tóm lại, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về chế độ tài chính của đơn vị sự
nghiệp có thu là một quá trình vừa phải đảm bảo theo trình tự, thủ tục vừa phải đáp
ứng được những đòi hỏi cấp thiết của thực tế. Việc tìm ra các giải pháp hoàn thiện đã
khó nhưng việc làm sao để hiện thực hóa các giải pháp ấy một cách có hiệu quả thì
còn khó hơn nhiều. Đây không chỉ là khó khăn trong việc hoàn thiện luật về chế độ tài
chính của đơn vị sự nghiệp có thu mà là khó khăn chung trong việc hoàn thiện tất cả
các mảng pháp luật khác. Vì vậy, nó đòi hỏi sự nỗ lực, kiên trì cũng như đóng góp
công sức của nhiều chủ thể trong đó có Nhà nước, các Bộ ngành, bản thân các đơn vị
sự nghiệp có thu và công dân.

C – KẾT LUẬN
Do những đặc điểm riêng về nguồn tài chính nên quá trình sử dụng kinh phí
của đơn vị sự nghiệp có thu được thực hiện chủ động hơn so với các cơ quan quản lý
hành chính nhà nứoc. Điều này không chỉ tạo điều kiện cho đơn vị sự nghiệp có thu
có thể chủ động trong việc chi tiêu tài chính khi thực hiện nhiệm vụ được giao cũng
như có thể chủ động tìm kiếm nguồn tìa chính, kể cả các nguồn vốn tín dụng, liên
doanh. liên kết, giúp cho đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động có hiệu quả và tiết kiệm
hơn. Việc quy định chế độ tài chính tự chủ cho đơn vị sự nghiệp có thu là hoàn toàn
phù hợp với những đặc thù cơ bản từ nguồn tài chính của các đơn vị này. Tuy nhiên,
để đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động thực sự có hiệu quả cao và sử dụng tiết kiệm cao

nhất nguồn kinh phí thì không chỉ đòi hỏi đơn vị sự nghiệp có thu có những kế hoạch
tự chủ tài chính cho phù hợp mà còn đòi hỏi trách nhiệm quản lý cao của người đứng
đầu các đơn vị sự nghiệp có thu này.

×