Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Logistics

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.9 KB, 35 trang )

Chương 2
Logistics
Logistics trong kinh doanh chiếm tỉ trọng lớn và rất quan trọng.
Xác nhận giá trị logistics
Những lợi ích dịch vụ
Tối thiểu hóa chi phí
Giá trị logistics
Chức năng của logistics
Qui trình đặt hàng
Hàng tồn kho
Vận chuyển
Kho hàng, quản lý nguyên vật liệu, và đóng gói
Thiết kế hệ thống giúp thuận lợi hóa công việc
Các hoạt động logistics
Dòng hàng tồn kho
Dòng thông tin
Khâu tổ chức vận hành logistics
Hệ thống dạng bậc thang
Hệ thống trực tiếp
Hệ thống kết hợp
Cơ cấu linh hoạt
Đồng bộ hoá chuỗi cung ứng
Cấu trúc chu trình thực hiện
Tính không chắc chắn của chu trình thực hiện
Tóm tắt
Hoạt động Logistics rất phức tạp và liên quan đến việc mở rộng địa lý. Khắp nơi
trên thế giới, 24 giờ mỗi ngày, 7 ngày 1 tuần, suốt 52 tuần trong năm, logistics có liên
quan đến sản phẩm và dịch vụ ở một thời điểm xác định. Không thể tưởng tượng nổi
làm sao chúng ta có thể thực hiện bất cứ sự tiếp thị, sự sản xuất, hoặc thương mại quốc
tế nếu thiếu logistics. Hầu hết người tiêu dùng ở các nước công nghiệp phát triển, chấp
nhận chi trả 1 mức cao trong thu nhập cho logistics. Khi họ mua hàng hoá tại một cửa


hàng bán lẻ, qua điện thoại hoặc qua internet- họ mong đợi sẽ được giao hàng đúng hẹn.
Mặc dù logistics được hình thành từ khi bắt đầu nền văn minh, nhưng đến thế kỉ
21 các hoạt động logistics thực tiễn mới thể hiện đây là một trong những lĩnh vực lý thú
và đầy thách thức của quản trị chuỗi cung ứng. Bởi vì logistics vừa cũ nhưng cũng vừa
mới, chúng ta sẽ tiếp cận logistics theo khái niệm mới.
Logistics có liên quan đến quản lí qui trình đặt hàng, hàng tồn kho, vận chuyển, sự
kết hợp kho hàng, quản lý nguyên vật liệu, và đóng gói, tất cả được tích hợp trong một
hệ thống giúp thuận lợi hóa công việc. Mục tiêu của logistics là hỗ trợ quá trình thu
mua, sản xuất, và phục vụ khách hàng. Trong một công ty, thách thức là làm sao phối
hợp các hoạt động riêng lẻ thành một hệ thống tích hợp để phục vụ khách hàng tốt nhất.
1
Trong bối cảnh chuỗi cung ứng ngày càng mở rộng, đồng bộ hoá hoạt động rất quan
trọng với khách hàng cũng như người cung cấp nguyên liệu và dịch vụ để liên kết các
hoạt động bên trong và bên ngoài tạo thành một chu trình tích hợp.
Logistics liên quan đến trách nhiệm thiết kế và quản lí các hệ thống để kiểm soát
sự di chuyển và vị trí địa lí của nguyên liệu thô, qui trình hoạt động, và hàng tồn kho
với tổng chi phí thấp nhất. Để đạt được tổng chi phí thấp nhất nghĩa là tài sản tài chính
và con người phải được giữ ở mức thấp nhất. Ngoài ra, cần phải giữ chi phí hoạt động
thấp nhất có thể. Sự kết hợp các nguồn tài nguyên, các kĩ năng và các hệ thống để đạt
chuỗi logistics tinh giảm là một thách thức, nhưng một khi đạt được rất khó để các đối
thủ bắt chước.
Chương này nghiên cứu sự góp phần của logistics vào quản trị chuỗi cung ứng tích
hợp. Đầu tiên, chúng ta sẽ nhấn mạnh chi phí và dịch vụ. Tiếp theo, chúng ta sẽ xác
định giá trị logistics. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét các hoạt động kinh doanh truyền
thống kết hợp với nhau để tạo nên một qui trình logistics. Cuối cùng, chúng ta sẽ nhấn
mạnh tầm quan trọng của sự đồng bộ hoá logistics đối với chuỗi cung ứng tích hợp
thông qua cấu trúc chu trình thực hiện và tính không chắc chắn của chu trình thực hiện.
LOGISTICS TRONG KINH DOANH CHIẾM TỈ TRỌNG LỚN VÀ VÔ
CÙNG QUAN TRỌNG
Trong suốt quá trình logistics dòng nguyên vật liệu được đưa vào sản xuất và sản

phẩm hoàn thành được phân phối đến khách hàng. Sự phát triển gần đây trong thương
mại toàn cầu đã mở rộng quy mô và sự phức tạp của hoạt động logistics.
Logistics làm tăng giá trị cho chuỗi cung ứng khi hàng tồn kho được xác định một
cách chiến lược để đạt được doanh số. Dù khó khăn để đo lường, hầu hết các chuyên
gia đồng ý rằng chi tiêu hàng năm để thực hiện logistics ở Mĩ năm 2004 xấp xỉ 8,6%
của 11,74 tỉ đô la GNP, tương đương 1.015 tỉ đô la. Chi tiêu cho vận chuyển năm 2004
là 644 tỉ đô la, chiếm 63,3% tổng chi phí logistics. Theo như minh hoạ ở bảng 2.1,
logistics trong kinh doanh thực sự là một lĩnh vực kinh doanh rộng lớn.
Mặc dù quy mô tương đối của chi phí logistics có giảm, sự hứng thú đối với
logistics không hề suy giảm. Sự kích thích sinh ra từ việc hiểu được các công ty sử
dụng năng lực logistics để đạt được lợi thế cạnh tranh. Các công ty có năng lực logistics
tầm cỡ thế giới có thể cung cấp cho những khách hàng quan trọng nhất của họ dịch vụ
tốt nhất. Các công ty dẫn đầu điển hình tận dụng nguồn lực công nghệ thông tin để điều
khiển hoạt động logistics toàn cầu trên cơ sở đúng thời gian. Trong nhiều trường hợp,
hoạt động đúng thời gian không thể thực hiện, khách hàng sẽ được thông báo trước về
sự cố, vì vậy họ sẽ không ngạc nhiên khi sự cố xảy ra. Trong nhiều trường hợp, bằng
việc hợp tác với khách hàng và nhà cung cấp, hoạt động đúng thời gian được sử dụng
để ngăn chặn sự thất bại của dịch vụ khách hàng đáng giá. Bằng việc thực hiện các hoạt
động trên cùng với sự sẵn sàng của hàng tồn kho, giao hàng đúng tốc độ và đảm bảo,
hoạt động có hiệu quả, các công ty có thể trở thành các đối tác lý tưởng trong chuỗi
cung ứng.
Bảng 2.1 Chi phí logistics ở Mỹ, 1980- 2004 ( tỉ đô la ngoại trừ GDP)
Nguồn: sửa lại từ Rosalyn Wilson, “Báo cáo tình hình logistics” hàng năm lần thứ
16, hội đồng các chuyên gia về quản trị chuỗi cung ứng, Oak Brook , IL, 2005
2
GIÁ TRỊ LOGISTICS
Đến nay, logistics được quản trị như là một nỗ lực kết hợp nhằm mục tiêu thỏa
mãn nhu cầu khách hàng với chi phí thấp nhất. Logistics được xem xét với khía cạnh
tạo ra giá trị. Ở phần này, chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích những yếu tố giá trị - dịch
vụ và giảm thiểu chi phí.

Lợi ích dịch vụ
Hầu hết bất kỳ một dịch vụ logistics nào cũng sẽ dễ thực hiện hơn nếu một doanh
nghiệp sẵn sàng cam kết với những nguồn lực cần có. Trong môi trường kinh doanh
hiện nay, điều hạn chế là thực trạng nền kinh tế, chứ không phải là công nghệ. Ví dụ
như, một lượng tồn kho hợp lý có thể được duy trì trong những khu vực lân cận với một
lượng khách hàng chủ yếu. Ta có thể tổ chức một đội xe chuyên chở hàng để sẵn sàng
nhanh chóng vận chuyển trong những khu vực gần nhau. Để tạo điều kiện thuận tiện
cho quá trình đặt hàng, ta nên duy trì việc kết nối, mối liên hệ giữa khách hàng và nhà
cung cấp dịch vụ logistics. Hướng đến sự nhanh chóng của chuỗi hoạt động logistics,
một sản phẩm hoặc bộ phận sản phẩm sẽ được đưa đến tay khách hàng nhanh nhất với
yêu cầu của họ. Ích lợi này sẽ càng hiệu quả hơn khi một nhà cung cấp đồng ý ký gửi
một lượng hàng tồn kho tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, rút ra yêu cầu cần có
hoạt động logistics khi cung cấp sản phẩm. Logistics sẽ giúp quá trình chuyển hàng từ
nhà cung cấp được hoàn thành một cách tốt nhất khi có nhu cầu của khách hàng. Tuy
nhiên, phát triển tốt nhất dịch vụ này có lẽ là giấc mơ của những nhà quản lý, vì nó khá
tốn chi phí và đặc trưng cao, khó có thể theo đuổi hầu hết kỳ vọng của mọi khách hàng
và hoạt động sản xuất.
Chiến lược chủ yếu là làm cách nào thực hiện tốt hơn đối thủ cạnh tranh về mặt
chi phí. Một loại nguyên vật liệu riêng biệt, cần cho sản xuất nhưng lại không có sẵn.
Điều này sẽ làm cho hoạt động của nhà máy ngưng trệ, dẫn đến tăng chi phí đáng kể,
mất đi lượng doanh thu tiềm năng, và thậm chí là ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh
doanh. Ta có thể dễ dàng nhìn thấy tác động đến lợi nhuận một cách đáng kể. Ngược
lại, ảnh hưởng đến lợi nhuận trong 1 đến 2 ngày trì hoãn sản xuất sẽ được giảm đến
mức thấp nhất hay thậm chí là không đáng kể trên toàn bộ hoạt động sản xuất, khi ta có
3
đưa sản phẩm bổ sung đến những nhà kho. Trong hầu hết mọi trường hợp, ảnh hưởng
về chi phí cũng như lợi nhuận của việc thất bại trong chuỗi hoạt động logistics, liên
quan trực tiếp đến tầm quan trọng của dịch vụ khách hàng. Hoạt động kinh doanh càng
thất bại đáng kể, trước tiên là do việc thực hiện chuỗi cung ứng - hoạt động logistics
còn nhiều bất cập, sai sót.

Chuỗi cung ứng cơ bản và sáng tạo được đo lường dựa trên sự sẵn sàng, hoạt động
điều hành, và đảm bảo dịch vụ. Chuỗi hoạt động logistics cơ bản được mô tả với một
doanh nghiệp cung cấp cho tất cả khách hàng thiết lập.
Sự sẵn sàng, hiểu là có lượng hàng tồn kho phù hợp với nguyên liệu của khách
hàng cũng như yêu cầu của sản phẩm. Mô hình truyền thống này càng giúp cắt giảm chi
phí tồn kho khi sự sẵn có hàng là hợp lý. Công nghệ thông tin tạo điều kiện thuận lợi
cho sự linh hoạt của hệ thống, cung cấp một cách thức mới hướng đến nguồn hàng dự
trữ sẵn, mà không cần một lượng vốn đầu tư cao vào dự trữ tồn kho. Quản lý lượng
hàng tồn kho hợp lý, là điều then chốt, quyết định tính hiệu quả của hoạt động logistics.
Hoạt động điều hành quản lý, trực tiếp giải quyết thời gian giao nhận cho 1 đơn
đặt hàng, liên quan đến tốc độ giao nhận và tính đảm bảo. Một cách dễ hiểu, hầu hết
khách hàng đều muốn vận chuyển nhanh. Tuy nhiên, giao nhận nhanh chóng lại có
điểm hạn chế là không có tính đảm bảo cao cho hàng hóa. Một thực tế, nhà cung cấp
hứa hẹn giao hàng vào ngày mai, nhưng lại thường giao trễ hơn. Đề đạt đến sự trôi chảy
trong quản lý điều hành, trước hết các doanh nghiệp cần chú ý tập trung vào tính hiệu
quả cao của giao nhận, và sau đó dần dần cải thiện tốc độ giao nhận. Một khía cạnh
khác của quản lý, điều hành cũng rất quan trọng: hoạt động quản lý cũng được nhìn
nhận dưới sự linh hoạt giải quyết, cung cấp những đơn đặt hàng bất ngờ, không mong
đợi. Mặt khác, những trục trặc, sự cố xảy ra thường xuyên, ta sẽ đánh giá thời gian khắc
phục những sự cố ấy. Một vài doanh nghiệp có thể thực hiện hoàn hảo tất cả những yếu
tố trên trong mọi lúc. Đánh giá những sai sót là một việc rất quan trọng. Sự cố, điều này
liên hệ với khả năng thất bại trong hoạt động logistics, như là những sản phẩm gây hại,
phân loại sai sót, hoặc là những tài liệu không phù hợp. Khi những sự cố như vậy xảy
ra, năng lực của một doanh nghiệp về logistics được đánh giá dưới khía cạnh thời gian
khắc phục sự cố. Hoạt động quản lý, đó là cách một doanh nghiệp xử lý tất cả những
đơn đặt hàng, gồm cả những sai sót trong dịch vụ, trên cơ sở ngày làm việc và cả những
ngày nghỉ.
Sự đảm bảo của dịch vụ liên quan với chất lượng của logistics. Chìa khóa của
chất lượng chính là việc đo lường chính xác tính có sẵn cũng như hoạt động quản lý,
điều hành. Việc đo lường này hoàn toàn có thể thực hiện nếu tổng thể hoạt động

logistics đều hướng đến những mục tiêu dịch vụ mong muốn. Nhằm đạt được sự đảm
bảo, điều thiết yếu là xác định và thực hiện đầy đủ sự đo lường nguồn hàng tồn kho sẵn
có và hoạt động quản lý. Để hoạt động logistics liên tục đáp ứng nhu cầu của khách
hàng, điều thiết yếu là việc quản lý cần phải có những cải tiến. Chất lượng logistics
không phải là điều dễ dàng, cần có kế hoạch sản xuất sản phẩm tốt hơn, bằng cách huấn
luyện, đào tạo nhân viên, tinh thần làm việc hết mình, sự đo lường một cách toàn diện,
và những cải tiến liên tục. Để cải tiến dịch vụ, những mục tiêu cần được thiết lập trên
cơ sở chọn lọc. Một vài sản phẩm sẽ bị chỉ trích, chê bai nhiều hơn cái khác, vì sự quan
trọng của nó đối với khách hàng và lợi nhuận đóng góp.
Dịch vụ logistics cơ bản cần thực tế với nhu cầu, đòi hỏi của khách hàng. Hầu hết
trường hợp, các doanh nghiệp phải đương đầu với tình huống khách hàng tiềm năng
khác biệt đáng kể. Vài khách hàng đòi hỏi những dịch vụ cộng thêm độc nhất hay là đặc
biệt. Vì vậy, người quản lý phải nhận thấy khách hàng là khác biệt, và những dịch vụ
4
cung cấp phải phù hợp để đáp ứng những yêu cầu độc nhất và tiềm năng khách hàng.
Nhìn chung, doanh nghiệp có xu hướng khá là tích cực đối với những dịch vụ cơ bản.
Không cần phải có khả năng đáp ứng những mục tiêu dịch vụ cao, không thực tế, có thể
dẫn đến những vấn đề, sự cố trong quan hệ khách hàng, quản lý điều hành hơn là có ít
mục tiêu tham vọng từ lúc bắt đầu. Những cam kết dịch vụ toàn diện, trên mọi lĩnh vực
là không thực tế, có thể làm giảm bớt năng lực của doanh nghiệp để thỏa mãn những
yêu cầu đặc biệt của những khách hàng tiềm năng cao.
Tối thiểu hóa chi phí
Trọng điểm của hoạt động logistics được chỉ ra từ những nghiên cứu gần đây về lý
thuyết tổng chi phí và từ thực tiễn. Năm 1956, một công trình nghiên cứu về cước phí
hàng không đã cho thấy triển vọng phát triển mới về chi phí logistics. Trong nỗ lực
chứng minh rằng vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không với mức chi phí khá
cao là hướng phát triển hợp lý, Lewis, Culliton, và Steele đã dựa trên các khái niệm
tổng chi phí logistics hiện đại. Tổng chi phí được xác định bao gồm tất cả phí tổn,
lượng chi tiêu cần thiết mà mọi hoạt động logistics đòi hỏi. Tác giả đã minh họa bằng
chiến lược phân phối một bộ phận điện tử khi mà giá vận chuyển hàng không trực

tiếp từ nhà máy đến khách hàng được bù đắp nhiều hơn bằng sự cắt giảm tồn kho và
vài chi phí dự trữ. Họ xác định rằng cách để chi phí logistics thấp nhất với việc cung
cấp dịch vụ khách hàng tốt nhất là tập trung quản lý hàng tồn kho ở một nhà kho và vận
chuyển bằng đường hàng không.
Quan niệm về tổng chi phí trước đó chưa được áp dụng trong hoạt động logistics.
Có lẽ bởi vì xu hướng kinh tế của thời đại và hướng phát triển cơ bản trong thực tiễn
truyền thống, vấn đề tổng chi phí vẫn đang trong sự tranh cãi. Thực tiễn phổ biến trong
hoạt động quản lý, được củng cố thêm từ quản trị tài chính và kế toán, chú trọng tập
trung vào việc đạt được chi phí thấp nhất có thể cho mỗi chức năng riêng biệt của hoạt
động logistics, cân bằng các yếu tố khác nhau về chi phí để đạt được sự kết hợp tốt
nhất. Những nhà quản lý truyền thống thường tập trung vào cắt giảm chi phí chức năng,
như là vận chuyển, với mong muốn rằng những nỗ lực này sẽ đạt được những mức chi
phí kết hợp thấp nhất. Những hướng phát triển mới trong khái niệm tổng chi phí đã mở
ra một cánh cửa mới, chỉ ra các chi phí chức năng có quan hệ chặt chẽ với nhau như thế
nào và tác động lẫn nhau. Những sự cải tiến tiếp theo đã cung cấp kiến thức hiểu biết
toàn diện hơn về những bộ phận cấu thành chi phí logistics và xác định nhu cầu then
chốt trong phân tích phát triển chi phí chức năng và chi phí dựa trên hoạt động. Tuy
nhiên, những yếu tố cho quá trình logistics hiệu quả vẫn đang ở thời cơ thế kỷ 21.
Nhiều thực tiễn hiện nay trong kế toán, tài chính, vẫn đang là rào cản đối với giải quyết
việc thực hiện tổng chi phí logistics.
Giá trị Logistics
Chìa khóa để đạt được vị trí dẫn đầu về Logistics là nắm vững năng lực điều hành
và cam kết trong việc đáp ứng sự mong đợi cũng như những yêu cầu của khách hàng
mục tiêu. Trong khuôn khổ chi phí cho phép, sự cam kết này chính là lời xác nhận về
giá trị Logistics. Đây là một cam kết duy nhất của một công ty đối với một cá nhân hoặc
một nhóm khách hàng được chọn
Các doanh nghiệp tiêu biểu tìm cách phát triển và thực hiện đúng năng lực
logistics tổng thể nhằm đáp ứng được sự mong đợi của khách hàng tại một mức phí tổn
5
chung thực tế. Rất hiếm khi với tổng chi phí thấp nhất mà dịch vụ khách hàng có thể đạt

được tốt nhất lại có thể cùng nhau tạo nên chiến lược Logistic như mong đợi .Tương tự
như vậy, sự kết hợp thích hợp sẽ khác nhau cho các khách hàng khác nhau. Một nỗ lực
Logistics được thiết kế tốt phải có tác động cao đến khách hàng trong hoạt động kiểm
soát đúng và cam kết giảm thiểu hàng tồn kho. Và, hơn tất cả, nó phải thích hợp cho các
khách hàng cụ thể.
Đã có sự tiến bộ đáng kể để phát triển các công cụ hỗ trợ quản lý trong việc đo
lường sự cân đối chi phí / dịch vụ. Xây dựng một chiến lược đòi hỏi một khả năng để
ước tính chi phí hoạt động cần thiết để đạt được mức độ dịch vụ thay thế. Tương tự như
vậy, các cấp thay thế hiệu suất của hệ thống là vô nghĩa, trừ khi xem xét trong điều kiện
chỗ ở của khách hàng kinh doanh tổng thể của đơn vị, sản xuất, mua sắm và chiến lược.
Việc thiết kế dây chuyền cung ứng là nội dung chính của phần ba.
Các công ty hàng đầu nhận ra rằng một hệ thống Logistics được thiết kế tốt và vận
hành tốt có thể giúp đạt được lợi thế cạnh tranh. Trong thực tế, cũng như là một quy
luật chung, các công ty đã xác định được bản chất của các đối thủ cạnh tranh trong
ngành công nghiệp của họ do có được một lợi thế chiến lược dựa trên năng lực
Logistics
CHỨC NĂNG CỦA LOGISTICS
Trong bối cảnh quản lý dây chuyền cung ứng, Logistics tồn tại để di chuyển
hàng tồn kho trong thời gian, địa điểm mong muốn, và các lợi ích sở hữu với tổng chi
phí thấp nhất. Hàng tồn kho có giá trị giới hạn cho đến khi nó được định vị vào đúng
thời điểm và đúng vị trí để hỗ trợ chuyển giao quyền sở hữu hoặc giá trị gia tăng được
tạo ra. Nếu một công ty không đáp ứng yêu cầu thời gian và địa điểm một cách đồng
bộ, nó không có gì để bán. Đối với một chuỗi cung ứng, để nhận ra những lợi ích tối đa
từ chiến lược Logistics, mọi chức năng của công việc phải được tích hợp. Các quyết
định trong lĩnh vực này sẽ tác động đến chi phí của tất cả những lĩnh vực khác. Đó là sự
quan hệ qua lại giữa các chức năng. Nó thách thức sự thành công của quản lý đó có
được một lợi thế chiến lược dựa trên năng lực Logistics tích hợp. Hình 2.1 cung cấp
một cái nhìn trực quan về bản chất tương quan trong năm lĩnh vực của công việc đó có
được một lợi thế chiến lược dựa trên năng lực Logistics: (1) qui trình đặt hàng; (2) hàng
tồn kho; (3) vận chuyển; (4) kho hàng, quản lý nguyên vật liệu, đóng gói; và (5) hệ

thống giúp thuận lợi hóa công việc. Tích hợp công việc liên quan đến các khu vực chức
năng này tạo ra các khả năng cần thiết để đạt được những giá trị Logistics.
Hình 2.1: Logistics hợp nhất
6
Qui trình đặt hàng
Trước đây, thông tin chính xác để thực hiện tốt hoạt động Logistics chưa được
quan tâm nhiều. Đối với hoạt động Logistic, thì việc xử lý đơn đặt hàng là quan trọng
bậc nhất. Không hoàn toàn thấu hiểu tầm quan trọng này dẫn đến kết quả không hoàn
toàn hiểu biết các biến dạng và các thất bại trong xử lý việc đặt hàng ảnh hưởng đến
hoạt động Logistics. Hiện nay công nghệ thông tin có khả năng xử lý các yêu cầu của
khách hàng khó tính nhất. Khi bạn muốn, thông tin đặt hàng có thể được trao đổi giữa
các đối tác kinh doanh.
Lợi ích của các luồng thông tin nhanh có liên quan trực tiếp đến cân bằng công
việc. Điều đó có thể được hiểu với một công ty khi tích lũy đơn đặt hàng tại một văn
phòng bán hàng địa phương trong một tuần, gửi chúng đến một văn phòng khu vực,
xử lý các đơn đặt hàng trong một đợt, giao cho một nhà kho phân phối, và sau đó gửi
chúng qua đường hàng không để được giao hàng nhanh . Ngược lại, giao tiếp mạng
Internet của đơn đặt hàng trực tiếp từ khách hàng sẽ tiết kiệm được thời gian và chi
phí, cùng với giao thông vận tải chậm, như vậy ít tốn kém và vẫn có thể đạt được
dịch vụ vận chuyển nhanh hơn với tổng chi phí thấp hơn. Mục tiêu chính là để cân
bằng các thành phần của hệ thống Logistics.
Dự báo và truyền đạt các yêu cầu của khách hàng là hai lĩnh vực của hoạt động
Logistics được điều chỉnh bởi thông tin. Tầm quan trọng tương đối trong từng khía
cạnh của thông tin là hoạt động liên quan trực tiếp đến mức độ mà các dây chuyền cung
ứng được định vị đối với chức năng trên cơ sở đáp ứng hoặc dự phòng. Những phản
ứng của các chuỗi cung ứng càng nhanh thì tầm quan trọng của thông tin chính xác và
kịp thời liên quan đến hành vi mua hàng của khách hàng càng lớn. Như được thảo luận
trong chương 1, chuỗi cung ứng đang ngày càng phản ánh một sự pha trộn giữa việc
phản ứng nhanh và thực hiện trước kì hạn.
Trong hầu hết các chuỗi cung ứng, các yêu cầu của khách hàng được truyền đi ở

dạng đơn đặt hàng. Việc xử lý các đơn đặt hàng liên quan đến tất cả các khía cạnh của
việc quản lý các yêu cầu của khách hàng, kể cả khi nhận lệnh đầu tiên, giao hàng, lập
hoá đơn, và gom hàng. Khả năng Logistics của một công ty chỉ có thể tốt như năng lực
qui trình đặt hàng.
Hệ thống
Kho hàng, quản lý
vật liệu, đóng gói
Quản trị
Logistics tích
hợp
Qui trình
đặt hàng
Hàng tồn khoGiao thông vận
tải
7
Xử lý đơn hàng của Amazon.com
Kênh kinh doanh của Amazon.com là một website mở ra lối vào, như là điểm
chính, trung tâm trong hoạt động kinh doanh. Khách hàng vào website của
Amazon.com, xem hàng và đặt hàng. Amazon.com chịu trách nhiệm cho mối quan hệ
khách hàng vào web và những hoạt động logistics. Một khi đơn hàng được đặt,
Amazon.com sẽ quyết định những trung tâm phân phối của nó hay là những nhà vận
chuyển nên chịu trách nhiệm giao nhận đơn hàng đến khách hàng. Amazon.com sau đó
sẽ chịu trách nhiệm sắp xếp, phối hợp việc thực hiện đơn hàng. Khi sản phẩm quyết
định lấy từ những trung tâm phân phối của nó, Amazon.com sẽ lấy ra, đóng gói và giao
hàng. Khi sản phẩm được lấy từ những nơi khác, ví dụ như 1 nhà xuất bản, thì nhà xuất
bản đó sẽ đóng gói sản phẩm trong bao bì của Amazon.com và giao hàng. Mô hình này
đòi hỏi Amazon.com duy trì hoặc là mua tồn kho cho những đơn đặt hàng nhanh. Với
mô hình này, Amazon.com có được mối quan hệ khách hàng, cung cấp công nghệ, sở
hữu hoặc mua tồn kho và thực hiện chuỗi logistics cho mỗi đơn hàng.
Qui trình đáp ứng đơn hàng

 Bước 1: Máy tính kiểm tra vị trí của hàng hóa sau khi khách hàng đặt hàng. Nó
xác định đơn hàng do Amazon thực hiện hay đối tác của nó. Nếu do Amazon
thực hiện, đơn hàng được truyền tự động tới các trạm phân phối thông tin tương
ứng
 Bước 2: Một bộ phận (flowmeister) tại trạm phân phối nhận tất cả các đơn hàng
và phân chia chúng tự động cho những nhân viên cụ thể xác định thông qua
mạng không dây.
 Bước 3: Nhân viên nhặt hàng đi dọc theo các khoang chứa hàng, nhặt các đồ vật
trong khoang đó cho đến khi đèn đỏ không báo nữa
 Bước 4: Các hàng hóa nhặt ra được đặt vào thùng, sau đó chuyển vào băng tải
dài hơn 10 dặm chạy quanh nhà kho. Trên băng tải có khoảng 15 điểm đọc mã
hàng hóa, theo dõi hàng hóa để giảm sai sót
 Bước 5: Tất cả các thùng chạy trên băng tải tập trung vào 1 vị trí, ở đó những mã
hàng hóa được sắp xếp phù hợp với số đơn hàng. Các hàng hóa được chuyển từ
các thùng đến các máng trượt, trượt xuống vào các thùng cacton.
 Bước 6: Nếu như hàng hóa nào cần thiết phải được gói bọc thì công nhân sẽ nhặt
ra và gói thủ công.
 Bước 7: Các thùng cacton được đóng lại, dán băng dính, cân đo, dán nhãn mác
và chuyển đến 1 trong 40 thùng xe tải trong nhà kho. Các xe tải này chở đến
hãng vận chuyển UPS hoặc USPS. Các hàng hóa lại tiếp tục cuộc hành trình.
Hàng tồn kho
Yêu cầu về hàng tồn kho của doanh nghiệp có mối liên hệ trực tiếp đến hệ thống
giúp thuận lợi hóa công việc và mức độ đáp ứng nhu cầu khách hàng. Trên lý thuyết,
8
một doanh nghiệp có thể dự trữ mỗi danh mục hàng trong mỗi cơ sở dành riêng để
phục vụ từng đối tượng khách hàng. Thực tế, rất ít hoạt động kinh doanh có đủ khả
năng cho chiến lược “hàng tồn kho sang trọng” như vậy bởi vì rủi ro và chi phí quá lớn.
Mục tiêu của chiến lược hàng tồn kho là để đạt được mong muốn phục vụ khách hàng
với hàng tồn kho ở mức tối thiểu. Hàng tồn kho quá nhiều có thể bù đắp cho thiếu sót
trong việc thiết kế cơ bản của một hệ thống logistic, nhưng cuối cùng sẽ dẫn đến kết

quả chi phí cao hơn tổng chi phí cần thiết.
Chiến lược cung ứng nên được thiết kế sao cho việc đầu tư tài chính cho tồn kho là
thấp nhất có thể. Mục tiêu cơ bản là đạt được vòng quay hàng tồn kho tối đa trong khi
vẫn thỏa mãn được những cam kết dịch vụ. Chiến lược tồn kho được dựa trên sự kết
hợp 5 yếu tố của việc triển khai có chọn lọc đó là: (1) phân khúc khách hàng mục
tiêu, (2) lợi nhuận từ sản phẩm, (3) vận chuyển hợp nhất, (4) quản lý dựa trên thời
gian, (5) khả năng cạnh tranh.
Mỗi doanh nghiệp phục vụ nhiều đối tượng khách hàng khác nhau luôn phải đối
mặt với nhu cầu thay đổi không ngừng. Một số khách hàng là siêu lợi nhuận và có tiềm
năng tăng trưởng vượt trội, số khác thì không. Lợi nhuận của một doanh nghiệp phụ
thuộc vào những sản phẩm được mua, số lượng, giá cả, những dịch vụ giá trị tăng được
yêu cầu và những hoạt động phụ thêm cần thiết để phát triển và duy trì mối quan hệ
hiện hành. Vì những khách hàng siêu lợi nhuận cấu thành thị trường mục tiêu của doanh
nghiệp, nên chiến lược hàng tồn kho cần tập trung vào họ. Chìa khóa để phân khúc
logistic hiệu quả là dựa vào những ưu tiên tồn kho nhằm phục vụ khách hàng mục tiêu.
Nếu không đặt ra giới hạn, một công ty có thể thấy rằng ít hơn 20 phần trăm của
tất cả các sản phẩm trên thị trường chiếm hơn 80 phần trăm tổng lợi nhuận. Trong khi
quy tắc 80/20 hoặc nguyên lý Pareto nói rằng quản lý phải tránh những kết quả như vậy,
bằng việc thực hiện các chiến lược hàng tồn kho dựa trên phân loại dòng sản phẩm.
Việc đánh giá chính xác giá trị tăng thêm khi dự trữ sản phẩm ít lợi nhuận hoặc lượng
cầu ít là cần thiết, để tránh tồn kho dư thừa. Với những lý do hiển nhiên, một doanh
nghiệp luôn mong muốn cung cấp những sản phẩm sinh lợi nhiều nhất với mức độ sẵn
sàng cao và sự giao hàng đảm bảo. Tuy nhiên, cung cấp những sản phẩm ít lợi nhuận có
thể cần để đáp ứng dịch vụ trọn gói cho khách hàng mục tiêu.
Kế hoạch dự trữ sản phẩm ở những trung tâm riêng biệt có ảnh hưởng trực tiếp
đến thực hiện vận chuyển. Hầu hết vận chuyển đều dựa trên số lượng và kích cỡ hàng
gửi. Vì thế, chiến lược dự trữ một số lượng hàng phù hợp và đủ để có thể sắp xếp vận
chuyển hợp nhất. Sự tiết kiệm tương xứng trong vận chuyển có thể bù lại những chi
phí tăng thêm của việc tồn kho.
Mức độ cam kết của doanh nghiệp về cung cấp các sản phẩm nhanh chóng để đáp

ứng yêu cầu tồn kho của khách hàng là yếu tố cạnh tranh chính. Nếu sản phẩm và
nguyên liệu được giao một cách nhanh chóng thì doanh nghiệp không cần phải dự trữ
lượng tồn kho lớn. Tương tự, những cửa hàng bán lẻ được bổ sung hàng hóa nhanh
chóng sẽ bớt lượng tồn kho. Khi có sự thay đổi trong kho dự trữ và lượng dự trữ an
toàn, hàng tồn kho sẽ được bổ sung chính xác và kịp thời. Trong khi việc thực hiện dựa
trên thời gian làm giảm tồn kho cho khách hàng đến mức tối thiểu, thì việc tiết kiệm sẽ
cân đối cho những chi phí khác trong chuỗi cung ứng như là kết quả của tiến trình thời
gian linh động.
Cuối cùng, chiến lược hàng tồn kho không thể hình thành trong môi trường không
cạnh tranh. Một doanh nghiệp luôn muốn kinh doanh vượt hơn đối thủ cạnh tranh nếu
như nó có thể cam kết và thực hiện giao hàng nhanh chóng và sự đảm bảo. Vì vậy, có
thể cần đặt tồn kho trong một nhà kho chuyên biệt để tạo lợi thế cạnh tranh, thậm chí
9
khi việc cam kết đó làm tăng tổng chi phí. Chính sách triển khai tồn kho có chọn lọc cần
thiết để chiếm được lợi thế dịch vụ khách hàng hoặc giảm đi thế mạnh mà đối thủ hiện
đang nắm giữ.
Có nhiều lý do để tồn kho nguyên liệu và bán thành phẩm trong hệ thống
logistics hơn là tồn kho những thành phẩm. Mỗi loại hàng tồn kho và mức độ cam kết
phải được xem xét từ tổng chi phí dự tính. Hiếu được mối quan hệ giữa quá trình đặt
hàng, tồn kho, vận chuyển và quyết định về những yếu tố thuận lợi cho việc thực hiện là
điều căn bản để sự đảm bảo chuỗi logistic.
Phân chia hàng tồn kho trong hệ thống Amazon.com
Amazon.com đã cạnh tranh với các nhà bán lẻ truyền thống từ lúc khởi đầu.
Amazon.com đã tung ra trên 20 triệu sản phẩm qua website. Để giảm chi phí tồn kho,
Amazon.com đã sử dụng hệ thống tồn kho đa bậc. Sau đây là mô tả về 3 bên trong hệ
thống tồn kho của Amazon.com.
Website www.amazon.com để giữ mối quan hệ với khách hàng. Bên đầu tiên
trong chuỗi cung ứng là hệ thống trung tâm phân phối của Amazon.com. Hàng tồn kho
được tập hợp trong các trung tâm phân phối, nhưng Amazon.com lưu trữ hàng tồn kho
ít hơn các nhà bán lẻ truyển thống. Việc lưu trữ hàng tồn kho giúp đáp ứng sự thay đổi

thất thường trong nhu cầu.
Bên thứ hai trong hệ thống tồn kho bao gồm các trung tâm phân phối của các nhà
bán sỉ và các đối tác. Bên này bao gồm các bên giao hàng qua trung gian như nhà phân
phối sách Ingram, Baker và Taylor, và các nhà phân phối sách khác. Ngoài ra, các nhà
phân phối CD và các đối tác khác được sử dụng để thực hiện các đơn hàng của
Amazon.com cũng được coi là bên thứ hai. Nếu Amazon.com không thể thực hiện đơn
hàng từ trung tâm phân phối của nó, hệ thống thông tin của Amazon.com sẽ kiểm tra
hàng tồn kho của đối tác để quyết định bên nào thực hiện đơn hàng. Khách hàng sẽ
không biết được sản phẩm họ mua của Amazon.com nhưng thực tế không có trong kho
hàng của Amazon.com. Điều này còn giúp Amazon.com bán sản phẩm mà không bán
trực tiếp từ kho hàng của nó.
Các nhà xuất bản, các nhà sản xuất, những người bán hàng nhỏ lẻ và bên bán
hàng thứ ba là bên thứ ba trong hệ thống tồn kho đa bậc của Amazon.com. Bên này
giúp Amazon.com đa dạng hóa sản phẩm hơn, tránh được việc định giá cao của nhà
phân phối, giảm sự phụ thuộc vào nhà phân phối và tăng lợi nhuận.
Sơ đồ dưới đây thể hiện hệ thống hàng tồn kho 3 bên của Amazon.com.
10
Trong hệ thống hàng tồn kho này, hệ thống thông tin của Amazon.com chuyển thông tin
đến các bên trong chuỗi cung ứng. Dòng sản phẩm sẽ chạy từ các bên đến khách hàng.
Hơn nữa, bên thứ hai và bên thứ ba còn giúp cấp đầy trung tâm phân phối của
Amazon.com bằng kho hàng của họ.
Vận chuyển
Vận chuyển là một hoạt động chức năng của chuỗi logistics liên quan đến việc di
chuyển về mặt địa lý và vị trí đặt tồn kho. Do chi phí trong vận chuyển nhìn thấy được
và cũng là yếu tố chính yếu nên vận chuyển luôn nhận được sự quan tâm đáng kể. Hầu
hết các doanh nghiệp, dù lớn hay nhỏ, đều có người quản lý phụ trách chuyên về vận
chuyển.
Yêu cầu về vận chuyển có thể được đáp ứng bằng ba cách. Thứ nhất, trang bị đội
tàu riêng để hoạt động. Thứ hai, những hợp đồng được sắp xếp cho những chuyên gia
vận chuyển -> qua fowarding. Thứ ba, doanh nghiệp có thể thuê dịch vụ của người

chuyên chở . Từ quan điểm của hệ thống logistic, ba yếu tố chủ yếu của hoạt động vận
chuyển đó là: (1) chi phí, (2) tốc độ, (3) sự đảm bảo.
Chi phí vận chuyển là khoản phải trả cho việc di chuyển giữa hai địa điểm về
mặt địa lý và những chi phí có liên quan đến hàng tồn kho đang chuyển đi. Hệ thống
logistic cần lợi dụng vận chuyển để làm giảm thiểu tổng chi phí. Điều này nghĩa là
phương pháp vận chuyển ít tốn kém nhất không phải sẽ luôn làm cho tổng chi phí của
hệ thống logistic thấp nhất.
Tốc độ vận chuyển là khoảng thời gian cần thiết để hoàn thành việc vận chuyển.
Tốc độ và chi phí vận chuyển có mối liên hệ hai chiều. Thứ nhất, dịch vụ vận chuyển
nhanh thường tính phí cao. Thứ hai, vận chuyển càng nhanh thì khoảng thời gian hàng
tồn kho dự trữ càng ngắn. Do đó, điều quan trọng trong việc lựa chọn chiến lược vận
chuyển là phải cân bằng giữa tốc độ và chi phí dịch vụ.
11
Sự đảm bảo trong vận chuyển dẫn đến sự khác nhau về thời gian yêu cầu để thực
hiện một lần di chuyển cụ thể trên một số lượng vận chuyển. Sự đảm bảo phản ánh sự
lệ thuộc của vận chuyển. Những nhà quản lý về vận chuyển đã nhận ra sự đảm bảo
chính là thuộc tính quan trọng của chất lượng vận chuyển. Nếu vận chuyển giữa hai địa
điểm là ba ngày một lần, lần tiếp theo là 6 ngày, sự khác nhau không mong đợi này dẫn
đến những vấn đề nghiêm trọng trong chuỗi logistic. Khi vận chuyển thiếu sự đảm bảo,
lượng tồn kho an toàn được yêu cầu để bảo đảm dịch vụ không bị phá vỡ, ảnh hưởng
đến cam kết giữa người bán và người mua. Sự phát triển của công nghệ thông tin làm
cho việc kiểm soát và báo cáo tình trạng vận chuyển dễ dàng hơn, nhà quản trị logistics
đã tìm được cách vận chuyển nhanh hơn trong khi vẫn giữ được sự sự đảm bảo. Tốc độ
và chi phí kết hợp với nhau tạo nên chất lượng của vận chuyển.
Thiết kế một chuỗi logistics phải giữ sự cân bằng giữa chi phí vận chuyển và
chất lượng dịch vụ. Trong nhiều trường hợp, chi phí thấp, vận chuyển chậm có thể đáp
ứng được. Nhưng trong hoàn cảnh khác, lại cần dịch vụ nhanh chóng để đạt được mục
tiêu kinh doanh. Tìm kiếm và quản lý vận chuyển trong chuỗi cung ứng là trách nhiệm
cơ bản của logistics.
Vận chuyển của Amazon.com

Do đặc điểm các đơn đặt hàng của mình, Amazon.com phải phụ thuộc nhiều vào
các đối tác chuyên chở các bưu kiện nhỏ để giao hàng cho khách. Trong môi trường
bán lẻ truyền thống, những nhà bán lẻ lớn như Wal-Mart tận dụng lợi thế về quy mô
thông qua các đơn hàng cấp đầy đến các cửa hàng bằng những đoàn xe tải riêng của họ.
Đối với các mô hình bán lẻ qua mạng , rất khó đạt được hiệu quả chuyên chở do lượng
khách hàng lớn, phân bố rộng khắp và số lượng đơn vị trong mỗi đơn hàng ít. Mặc dù
vậy, Amazon.com đã tìm ra phương pháp cải tiến để tiết kiệm chi phí chuyên chở bằng
cách tập trung vào quy mô và các cửa sổ dịch vụ (service window). Amazon.com có
nhiều đầu mối chuyên chở (transportation hub) đặt khắp nước Mỹ, được gọi là các
điểm bơm hàng (injection points).
Amazon.com không công khai vị trí chính xác của các đầu mối này nhưng có thể
hiểu rằng chúng được đặt gần các khu vực tập trung đông khách hàng. Các trung tâm
này hoạt động như những cơ sở crossdocking để chuyển hàng từ các nhà chuyên chở
đường dài với chi phí thấp đến đối tác chuyên chở cuối cùng nhằm tiết kiệm tổng chi
phí vận chuyển.
Quy trình bắt đầu ở các trung tâm phân phối, nơi các đơn hàng được cung ứng tùy
theo khoảng cách đến vị trí của khách hàng để tiết kiệm chi phí chuyên chở. Để đạt
được hiệu quả trong quá trình phân phối đầu ra nội bộ, các đơn hàng được gom lại và
giao theo từng đợt. Như đã đề cập trước đó, Amazon.com rất khó đạt điều kiện về quy
mô mà các nhà chuyên chở LTL và TL đưa ra nếu chỉ dựa trên việc gửi đi từng đơn
hàng riêng lẻ. Bằng cách tập hợp các đơn hàng phải giao đến một khu vực khách hàng
cụ thể, Amazon.com có thể ký hợp đồng với các nhà chuyên chở LTL và TL để cung
cấp dịch vụ vận chuyển đường dài từ các trung tâm phân phối đến các đầu mối chuyên
chở. Khi nhà chuyên chở đường dài đến đầu mối vận chuyển, các gói hàng sẽ được đưa
vào xe hàng thích hợp để giao đến nơi cuối cùng. Trước đây, với 1000 đơn hàng đến
khu vực vịnh San Francisco có thể cần tới 1000 lần giao hàng đường dài của UPS hay
các hãng vận chuyển bưu kiện khác. Bây giờ, chỉ cần đến 1 lần giao hàng đường dài và
1000 lần giao hàng chặng cuối (last-mile delivery). Hệ thống chuyên chở kiểu này giúp
tiết kiệm chi phí thông qua việc nhảy vùng (zone skipping). UPS phân chia cả nước
12

thành nhiều vùng chuyên chở (delivery zone). Mức giá tăng phụ thuộc vào số vùng mà
1 gói hàng phải đi qua. Các đầu mối chuyên chở giúp Amazon.com bỏ qua một số vùng
bằng cách sử dịch vụ chuyên chở đường dài để đưa gói hàng vào hệ thống của UPS khi
họ đến vùng chuyên chở, nhờ đó mà tránh được phí tăng lên theo vùng.
Để thành công với chiến lược này, Amazon.com cần một quy mô khách hàng đủ
lớn trong một khu vực và một ngày dịch vụ (service window) để tập hợp yêu cầu của
khách hàng. Ngày dịch vụ (service window) là số ngày trong đó Amazon.com hứa sẽ
giao hàng. Amazon.com cung cấp cho khách hàng nhiều phương thức vận chuyển với
những mức giá khác nhau trên website của công ty cũng như vận chuyển miễn phí cho
những đơn đặt hàng trên $25. Bằng cách này, họ đã dành cho khách hàng sự ưu đãi để
làm tăng service window. Cả việc tập hợp đơn đặt hàng tại DC và phương tiện vận tải
đường dài đều phụ thuộc vào một service window nhất định để đạt được quy mô cần
thiết cho các các trung tâm vận tải hoạt động thành công.
Các địa điểm giao hàng qua trung gian
Amazon.com tận dụng chuỗi cung ứng của các đối tác để giao hàng trực tiếp đến
khách hàng. Việc giao hàng này không thông qua hệ thống trung tâm phân phối của
Amazon.com. Ví dụ: một đơn đặt hàng một sản phẩm mà Amazon.com không có trong
kho ở các trung tâm phân phối, nhưng nhà phân phối sách Ingram lại có sản phẩm đó
trong kho. Amazon.com sẽ chuyển đơn đặt hàng này đến Ingram, Ingram nhận đơn
hàng đó, đóng gói sản phẩm trong hộp của Amazon.com và giao đến khách hàng.
Ingram chỉ là một ví dụ. Ngoài ra còn có các nhà phân phối sách khác, các nhà phân
phối CD, các nhà bán sĩ, các nhà xuất bản và các nhà sản xuất hỗ trợ Amazon.com giao
hàng đến khách hàng. Bên thứ ba bán sản phẩm của họ thông qua Amazon.com được
xem là bên giao hàng qua trung gian.
Hình bên dưới thể hiện cấu trúc chuỗi cung ứng ở Mỹ của Amazon.com. Ta nhận thấy
chỉ có một trung tâm vận chuyển được được thể hiện trên sơ đồ. Amazon.com không hé
lộ địa điểm các trung tâm vận chuyển, mặc dù các chuyên gia trong ngành xác nhận có
các trung tâm vận chuyển ở San Francisco. Và ta cũng nhận thấy chỉ có 4 địa điểm giao
hàng qua trung gian. Đây là các trung tâm phân phối mà Ingram hoạt động ở Mỹ và họ
đã tận dụng các địa điểm này để giao hàng đến khách hàng của Amazon.com. Các địa

điểm giao hàng qua trung gian khác bao gồm các đối tác khác của Amazon.com hỗ trợ
Amazon.com bán hàng như là bên bán hàng thứ ba.
13
Quản lý kho hàng, nguyên vật liệu, đóng gói
Ba chức năng đầu tiên của Logistics - xử lý đơn đặt hàng, quản lý hàng tồn kho và
vận chuyển - đã có những đóng góp nhất định giúp cải thiện dịch vụ khách hàng. Tóm
lại, các chức năng này kết hợp với nhau tạo thành hệ thống Logistics thống nhất. Chức
năng thứ tư của Logistics - quản lý kho hàng, nguyên vật liệu, đóng gói - cũng là một
phần được tích hợp trong hệ thống Logistics. Tuy nhiên, các chức năng thứ tư này
không độc lập với các chức năng trước. Quản lý kho hàng, nguyên vật liệu, đóng gói là
một mắt xích của chuỗi cung ứng. Ví dụ, hàng tồn kho cần được xếp vào kho tại những
thời điểm nhất định trong suốt quá trình Logistics. Cần quản lý tốt nguyên vật liệu
nhằm kiểm soát việc bốc dỡ hàng để vận chuyển cho hiệu quả. Cuối cùng, các sản phẩm
riêng lẻ được quản lý hiệu quả nhất khi chúng được đóng gói cùng với nhau trong
những chiếc thùng lớn hoặc trong các vật chuyên chở lớn.
Khi sự phân công được đưa vào hệ thống Logistics, một công ty có thể chọn các
dịch vụ thuê ngoài của một chuyên gia hoặc tự tổ chức thực hiện. Công ty thường quyết
định thuê ngoài dịch vụ lưu kho, bởi vì nhiều hoạt động tạo giá trị được thực hiện trong
suốt thời gian sản phẩm được lưu kho. Một số ví dụ về các hoạt động đó là phân loại,
sắp xếp, lựa chọn đơn đặt hàng, giao nhận vận tải, và trong vài trường hợp là sửa đổi
sản phẩm và lắp ráp sản phẩm.
Quản lý kho hàng, nguyên vật liệu là hoạt động quan trọng. Sản phẩm phải được
nhận, chuyển đi, lưu kho, phân loại và lắp ráp để đáp ứng yêu cầu đơn đặt hàng của
khách. Lao động trực tiếp và tiền vốn đầu tư vào thiết bị quản lý nguyên vật liệu là
thành phần quan trọng trong tổng chi phí Logistics. Khi thực hiện không tốt việc quản
lý nguyên vật liệu sẽ dẫn đến việc tạo ra những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn. Có thể
nói rằng càng dành nhiều thời gian cho việc quản lý nguyên vật liệu càng ít sản phẩm
không đạt chất lượng được tạo ra. Nhiều thiết bị cơ giới hóa và tự động hóa được sử
dụng để trợ giúp việc quản lý nguyên vật liệu. Tóm lại, quản lý kho hàng và nguyên
vật liệu là một mắt xích trong toàn bộ quá trình Logistics.

14

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×