Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

NHO GIÁO TRUNG HOA - NỀN TẢNG CỦA VÀNH ĐAI VĂN HOÁ ĐÔNG BẮC Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.82 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU
Trên lãnh thổ châu Á rộng lớn, Đông Bắc Á là một khu vực địa - văn hoá,
địa - chính trị vốn có nhiều nét tương đồng trong lịch sử, văn hoá, cũng như
chính trị. Ở đây, khái niệm Đông Bắc Á được hiểu là một khu vực địa lí gồm
bốn quốc gia hạt nhân là: Trung Quốc, Triều Tiên
(1)
, Việt Nam và Nhật Bản; trên
nền tảng bốn quốc gia ấy khu vực Đông Bắc Á được mở rộng không gian tới các
quốc gia, các vùng lãnh thổ có quan hệ gắn bó lâu đời với các quốc gia hạt nhân.
Với cách hiểu Đông Bắc Á như vậy, có thể thấy rằng các quốc gia trong
khu vực (chủ yếu là Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam) có sự gần
gũi về biên giới địa lý, gần gũi về nguồn gốc nhân chủng (cùng một đại chủng
Mongoloit), có chung một cơ sở kinh tế (nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa
nước); điều đó làm nảy sinh những nét tương đồng về phong tục, tập quán, bản
sắc văn hoá, tâm lí ứng xử giữa con người với con người; giữa con người với tự
nhiên… Tất cả những điểm tương đồng ấy đã tạo cho các dân tộc trong khu vực
một sự đồng cảm, linh cảm hết sức tự nhiên; làm cho đời sống kinh tế - chính trị
- văn hoá - xã hội trở nên vô cùng gần gũi; làm cho quan hệ giao lưu văn hoá -
kinh tế diễn ra từ rất sớm cả chiều rộng lẫn chiều sâu, tạo nên những mạng lưới
giao lưu vùng và liên vùng. Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển, ngoài những
yếu tố đặc trưng của văn hoá khu vực, mỗi quốc gia dân tộc cũng có những giá
trị văn hoá, những sắc thái văn hoá - xã hội riêng biệt. Chính những nét tương
đồng và dị biệt giữa các quốc gia trong khu vực ấy lại cho chúng ta hiểu một
cách sâu sắc hơn bản sắc văn hoá khu vực ẩn chứa trong đời sống vật chất và
tinh thần của các quốc gia dân tộc trên miền đất rộng lớn này.
Một trong những đặc điểm nổi bật về văn hoá - xã hội - chính trị của khu
vực trong tiến trình lịch sử phát triển chính là sự ảnh hưởng của văn minh
Trung Hoa một cách liên tục và thường xuyên. Trong đó, điển hình nhất và cũng
lâu dài nhất là quá trình truyền bá và ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa vào
các quốc gia trong khu vực (Triều Tiên, Nhật bản, Việt Nam); tạo nên một
(


1)
Hiện nay được phân thành 2 quốc gia: Hàn Quốc và Triều Tiên.
1
“vành đai văn hoá Nho giáo”
(1)
. Thông qua việc tìm hiểu Nho giáo và sự ảnh
hưởng của nó trong khu vực, chúng ta sẽ thấy được nét tương đồng, mẫu số
chung giữa các quốc gia; đồng thời cũng làm rõ được những nét đặc trưng riêng
có của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ. Tuy nhiên vấn đề Nho giáo và sự ảnh
hưởng của nó trong khu vực Đông Bắc Á là một vấn đề hết sức rộng lớn và phức
tạp, cần có những công trình nghiên cứu công phu và quy mô. Chính vì vậy, ở
đây trên cơ sở trình bày khái quát sự ra đời, một số đặc điểm Nho giáo Trung
Hoa và sự truyền bá, ảnh hưởng của nó vào Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam;
chúng tôi sẽ nêu ra một số nét tương đồng và dị biệt giữa Nho giáo các nước bị
ảnh hưởng với cội nguồn của nó ở Trung Quốc, và giữa Nho giáo các nước bị
ảnh hưởng (Nho giáo Triều Tiên; Nho giáo Nhật Bản và Nho giáo Việt Nam).
I. NHO GIÁO TRUNG HOA - NỀN TẢNG CỦA VÀNH ĐAI VĂN
HOÁ ĐÔNG BẮC Á
Nho giáo hay còn gọi là Nho gia là một hệ thống tư tưởng bắt nguồn từ
thời Chu sơ với Kinh Thư và Kinh Dịch, nhưng chỉ trở thành một hệ thống hoàn
chỉnh ở thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Người đặt cơ sở đầu tiên cho Nho giáo là
Khổng Tử (551-479 TCN); người nước Lỗ thời Xuân Thu, nay thuộc tỉnh Sơn
Đông. Sang thời Chiến Quốc, học thuyết của Khổng Tử được Mạnh Tử phát
triển. Về sau mỗi thời đại của Trung Quốc lại bổ sung và phát triển Nho giáo ở
những mức độ và sắc thái khác nhau tạo ra các loại Nho khác nhau như Hán
Nho, Tống Nho, Minh Nho, Thanh Nho… và các giai đoạn sau thường phong
phú hơn các giai đoạn trước. Nho giáo không chỉ phát triển về bề sâu mà còn
phát triển về bề rộng; vượt biên giới Trung Hoa, nó được truyền bá sang Triều
Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Và ở nơi nó đến, Nho giáo có sự lệch pha không
chỉ lệch về thời gian mà cả về không gian.

Như vậy, có thể thấy rằng, ngay từ khi ra đời cũng như trong quá trình
phát triển và truyền bá của nó, Nho giáo cũng như nội hàm khái niệm Nho giáo
đã được mở rộng và phát triển gắn liền và bị chi phối bởi không gian địa lí cũng
(
1)
PGS.Phan Văn Các, Nghiên cứu Nho giáo Việt Nam trong bối cảnh khu vực và thời đại; Tạp chí
Triết học, số 3/1993, tr 41
2
như hoàn cảnh kinh tế - xã hội; nói cách khác, Nho giáo Trung Hoa luôn luôn
biến đổi qua các giai đoạn lịch sử, hoàn cảnh lịch sử và không gian địa lí khác
nhau. Hiểu một cách đơn giản là “không có một Nho giáo đồng nhất và thuần
tuý trong lịch sử Trung Quốc (cũng như không có một tôn giáo nào đồng nhất
trong không gian và thời gian)”
(1)
; và lại càng không có một Nho giáo thuần tuý
Nho giáo Triều Tiên, Nho giáo Nhật Bản, Nho giáo Việt Nam. Nói như PGS.
Phan Văn Các: “Một điều có tính phương pháp luận cần lưu ý trong khi nghiên
cứu Nho giáo là phạm vi của nó không có xác định, không thể tồn tại một đường
ranh giới rõ rệt đâu là Nho giáo, đâu không phải Nho giáo”
(2)
. Và mở rộng cách
hiểu ấy ra ta sẽ thấy rằng không có một ranh giới xác định đâu là Nho giáo
Trung Hoa, đâu là Nho giáo Triều Tiên, Nho giáo Nhật Bản, cũng như Nho giáo
Việt Nam.
Tuy nhiên, cho dù Nho giáo có sự tương đồng và dị biệt ở trong những
khoảng thời gian khác nhau cũng như ở từng không gian khác nhau; nhưng nói
chung vẫn có thể gọi tất cả đó là Nho giáo. Bởi vì dù là Nho giáo ở bất kì nước
nào, ở bất kì thời đại nào thì chắc chắn chúng phải dựa trên một nền tảng nhất
định, một hệ thống triết luận “bất di bất dịch” mà hễ nhắc tới chúng thì họ gọi
chúng là Nho giáo. Ở đây, nền tảng đó chính là Nho giáo Trung Hoa, bởi thật

đơn giản Nho giáo sinh ra và phát triển ở đây, sau đó mới lan truyền qua các
nước khác trong khu vực Đông Bắc Á. Vấn đề khó khăn là việc xác định trong
hệ thống Nho giáo Trung Hoa đa dạng và phong phú như vậy thì đâu là “cái
chung”, “cái gốc” của Nho giáo Trung Hoa cũng như của Nho giáo Triều Tiên,
Nho giáo Việt Nam, Nho giáo Nhật Bản. Theo chúng tôi có ba hệ thống tư
tưởng Nho giáo chung nhất, chi phối và phát triển ở cả bốn quốc gia ở khu vực
Đông Bắc Á đó là:
- Hệ thống tư tưởng Khổng - Mạnh.
- Hệ thống tư tưởng Hán Nho (với đại diện là Đổng Trọng Thư)
(
1)
Viện Triết học; Nho giáo tại Việt Nam; Nxb KHXH, 1994, tr 129
(
2)
Phan Văn Các; Nghiên cứu Nho giáo Việt Nam trong bối cảnh khu vực và thời đại; Tạp chí Triết
học, 1993, số 3, tr 41
3
- Hệ thống tư tưởng Tống Nho (với đại diện tiêu biểu là Trình Chu
(1)
)
Trong đó, hai hệ thống tư tưởng đầu tiên đại diện cho Nho giáo thời kì
đầu, hệ thống thứ ba đại diện cho Nho giáo thời kì sau còn gọi là Tân Khổng
giáo. Giữa chúng có sự kế thừa, tiếp thu và phát triển lẫn nhau.
1. Hệ thống tư tưởng Khổng - Mạnh
(2)
Hệ thống tư tưởng Khổng - Mạnh thể hiện trên 4 mặt là triết học, đạo đức,
chính trị và giáo dục.
Về triết học, Khổng Tử và Mạnh Tử ít quan tâm tới nguồn gốc vũ trụ và
đều tin vào thiên mệnh. Tuy nhiên, Khổng Tử có một thái độ không rõ ràng về
thiên mệnh. Một mặt ông thừa nhận có thiên mệnh, cho rằng “tử sinh hữu mệnh,

phú quý tại thiên”; thiên mệnh không thể biết, không thể kháng cự, có thể mang
đến hạnh phúc và bất hạnh. Mặt khác ông lại cho rằng; số mệnh không thể quyết
định tinh thần đạo đức của con người; con người tuy không thể quyết định số
mệnh của mình trong cuộc sống hiện thực, nhưng trong cuộc sống đạo đức, có
thể thông qua học tập và tu dưỡng để đạt tới giới hạn rất cao. Đến Mạnh Tử,
khác với tư tưởng thiên mệnh của Khổng Tử, ông cho rằng những bậc quân tử
nhờ tu dưỡng đã đạt đến mức cực thiện cực mỹ cũng có thể cảm hoá được ngoại
giới, đạt đến “thiên nhân hợp nhất” (trời người hợp nhất); “biết trời”… Thực
chất đây là tư tưởng duy tâm chủ quan. Tuy nhiên so với thời đại lúc bấy giờ,
đây là một tư tưởng tiến bộ vì nó đề cao con người trong thế giới tự nhiên.
Về đạo đức, Khổng Tử hết sức coi trọng đạo đức vì đó là những chuẩn
mực để duy trì trật tự xã hội theo đường lối đức trị mà chính ông đề ra. Nội dung
quan điểm đạo đức của Khổng Tử bao gồm nhiều mặt như nhân, lễ, nghĩa, trí,
tín, dũng… song tập trung chủ yếu vào chữ “nhân”. “Nhân” với Khổng Tử một
mặt là lòng thương người, mặt khác là phải “kiềm chế mình làm đúng theo lễ”
(Khắc kỷ phục lễ vi nhân - Luận ngữ, Nhan Uyên). Nhìn tổng thể, chữ “nhân”
của Khổng Tử là một phạm trù rộng lớn, hầu như đồng nghĩa với đạo đức.
Khổng Tử cũng chú trọng chữ “lễ”, nhưng hay đặt “lễ” trong mối quan hệ với
(
1)
Trình Hạo (1032 - 1085); Trình Di (1033 - 1107). Chu Hy (1130 - 1200).
(
2)
Khổng Tử (551-479 TCN), tư tưởng của ông thể hiện qua tác phẩm Luận ngữ; Mạnh Tử (371 - 289
TCN) là cháu nội Khổng Tử, tư tưởng của ông thể hiện qua tác phẩm Mạnh Tử.
4
“nhân”. Trong mối quan hệ đó, “nhân” là gốc, là cái bên trong, là đạo đức bên
trong trái tim con người, là nội dung; còn “lễ” là biểu hiện của “nhân”, là sự
biểu hiện hành vi bên ngoài; chúng có mối quan hệ tương hỗ và tác động lẫn
nhau, không thể đơn thuần hành lễ mà không chú ý tới nhân, cũng không thể

đơn thuần hành nhân mà không chú ý tới lễ… Còn Mạnh Tử cho rằng đạo đức
con người là một yếu tố bẩm sinh gọi là tính thiện; đồng thời trong bốn biểu
hiện đạo đức (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín), Mạnh Tử coi trọng nhất là chữ “nghĩa”.
Về chính trị, Khổng Tử chủ trương đường lối trị nước phải dựa vào đạo
đức, tức là đức trị. Nội dung của đức trị bao gồm ba nội dung: làm cho dân cư
đông đúc, kinh tế phát triển và nhân dân được học hành. Mạnh Tử nhấn mạnh
hai vấn đề là nhân chính và thống nhất. Nhân chính là dùng đạo đức để trị nước
và nhấn mạnh tư tưởng quý dân (dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh -
Mạnh Tử, Tâm tâm hạ - dân là quý, xã tắc là thứ yếu, nhà vua là không đáng
trọng); đồng thời dùng “nhân chính” để “thống nhất” thiên hạ.
Về giáo dục, Khổng Tử là người đầu tiên sáng lập nên chế độ giáo dục tư
thục ở Trung Quốc. Mục đích giáo dục là uốn nắn nhân cách, bồi dưỡng nhân
tài; vì vậy phương châm giáo dục là học lễ trước học văn sau; học đi đôi với
hành, học để vận dụng vào thực tế. Khổng Tử và Mạnh Tử cũng rất chú trọng
tới phương pháp giảng dạy.
2. Hệ thống tư tưởng Hán Nho
Vào giữa thời kì Tây Hán, hình thái tư tưởng thống trị Trung Quốc đã có
sự biến đổi. Năm 136 TCN, Hán Vũ đế đã ra lệnh: “bãi truất bách gia, độc tôn
Nho thuật”. Từ đây, Nho giáo bắt đầu trở thành hệ tư tưởng chính thống của xã
hội phong kiến Trung Quốc; đại diện tiêu biểu nhất của Hán Nho là Đổng Trọng
Thư.
Đổng Trọng Thư (179 - 104 TCN) là người Quảng Xuyên (nay là Tảo
Cường, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc), là bậc thầy học phái Công Dương, người
khai sáng kim văn kinh học. Đến Đổng Trọng Thư, Nho giáo được phát triển lên
một bước, nhất là về tư tưởng triết học và đạo đức. Về triết học, Đổng Trọng
Thư có hai điểm mới đó là thuyết “thiên nhân cảm ứng” tức là quan hệ tác động
5
qua lại giữa trời và người; đồng thời dùng âm dương ngũ hành để giải thích vũ
trụ và sự bật. Ông cũng phát triển thuyết âm dương ngũ hành lên một bước, nêu
ra quy luật đối với ngũ hành là liền thì sinh, cách nhau thì thắng nhau. Về đạo

đức, đóng góp quan trọng của Đổng Trọng Thư là việc nêu ra các phạm trù tam
cương (3 mối quan hệ: vua tôi, cha con, vợ chồng) và ngũ thường (nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín); lục kỉ (6 mối quan hệ: với những người ngang hàng với cha, với mẹ,
với anh em, họ hàng, thầy giáo và bạn bè). Tam cương ngũ thường do Đổng
Trọng Thư nêu ra đã trở thành những tiêu chuẩn đạo đức chủ yếu của Nho giáo,
đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ trật tự xã hội phong kiến Trung Quốc;
và còn ảnh hưởng vô cùng sâu sắc tới những xã hội mà Nho giáo ảnh hưởng tới
như Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam.
3. Hệ thống tư tưởng Tống Nho
Từ đời Hán về sau, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống của phong
kiến Trung Quốc. Nhưng cũng vào thời gian này, Phật giáo và Đạo giáo cũng
bắt đầu có ảnh hưởng ở Trung Quốc. Trước sự xâm nhập và ra đời của những
học thuyết mới này, các nhà Nho thấy rằng Nho giáo quá đơn giản, do đó họ đã
tiếp thu quan điểm triết học Phật giáo và vũ trụ quan của Đạo giáo để bổ sung
cho triết lí Nho giáo thêm phần sâu sắc. Đặc điểm chung của các nhà Nho đời
Tống là muốn giải thích nguồn gốc vũ trụ và giải thích mối quan hệ giữa tinh
thần và vật chất mà họ gọi là lí và khí. Nói chung họ đều cho rằng lí có trước
khí, vì vậy họ được gọi là phái lý học.
Nhân vật tiêu biểu của phái lý học là Chu Đôn Di, Thiện Ung, Trình Hạo,
Trình Di, Chu Hy… Người khai sáng lý học, đặt nền móng về mặt lý học duy
tâm chủ nghĩa là Chu Đôn Di (1017 - 1073). Nhưng nhân vật tiêu biểu đại diện
cho lý học Tống Nho phải nói tới anh em Trình Hạo (1032-1085); Trình Di
(1033-1107) và Chu Hy (1130 - 1200). Lý học Tống Nho đại diện cho Tân
Khổng giáo đã có ảnh hưởng lớn tới các nước Đông Bắc Á . Ngoài việc nghiên
cứu mối quan hệ lý và khí, Trình Di và Chu Hy còn nêu ra phương pháp nhận
thức “Cách vật trí tri” nghĩa là phải thông qua việc nghiên cứu các sự vật cụ thể
6
để hiểu được cái lí của sự vật, tức là cái khái niệm trừu tượng (còn được gọi là
Lí học duy tâm khách quan).
Trên đây là những khái quát chung của Nho giáo Trung Hoa trong lịch sử,

nhưng chúng được coi là nền tảng cơ bản của Nho giáo ở khu vực Đông Bắc Á.
Dù là phát triển ở quê hương của nó là Trung Hoa, hay phát triển ở những mảnh
đất xa lạ (Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam); Nho giáo vẫn mang trong mình
những nội dung cơ bản nêu trên mặc dù nội dung, hình thức có một số biến đổi.
Vì vậy dù là Nho giáo Trung Hoa, Nho giáo Triều Tiên, Nho giáo Nhật Bản hay
Nho giáo Việt Nam thì nó vẫn được gọi cái tên chung là Nho giáo. Và chỉ sau
khi đã nhận thức được “cơ sở chung”, “bất biến” của Nho giáo qua các nước và
các thời đại, chúng ta mới có điều kiện để nhận thức sự khác biệt giữa Nho giáo
các nước.
II. SỰ TRUYỀN BÁ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TỚI CÁC
NƯỚC ĐÔNG BẮC Á (TRIỀU TIÊN, NHẬT BẢN, VIỆT NAM)
Ra khỏi biên giới Trung Hoa, Nho giáo được truyền bá sang Triều Tiên,
Nhật Bản và Việt Nam tạo thành một “vành đai văn hoá Nho giáo” Đông Bắc
Á . Khác với sự trung thành khá tuyệt đối về mặt giáo lí của Cơ đốc giáo trong
quá trình truyền bá; Nho giáo trong quá trình truyền đã tiếp thu, kết hợp và hoà
nhập vào điều kiện địa - kinh tế, địa - chính trị, địa - văn hoá… của mỗi nước
mà nó truyền bá tới; đồng thời được lựa chọn và cải tạo qua cái nền của văn hoá
bản địa tạo thành Nho giáo Triều Tiên, Nho giáo Nhật Bản và Nho giáo Việt
Nam.
Vấn đề được đặt ra ở đây là con đường mà Nho giáo có thể truyền bá và
giữ ảnh hưởng sâu sắc tới vậy đối với các nước trong khu vực Đông Bắc Á.
Hiện nay, các giả thuyết đều cho rằng có ba con đường:
Con đường thứ nhất đó là sự ảnh hưởng tự nhiên của một hệ tư tưởng từ
bên ngoài do sự phát triển không đều của trình độ xã hội. Theo học giả Nguyễn
Đức Quỳ: “Tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài để làm lý luận hướng dẫn tư
duy và hành động cho dân tộc mình là một chân lý phổ biến, là một sự thực
7
khách quan của các thời đại, của các dân tộc”
(1)
. Theo tác giả, thực tế này có căn

cứ vững chắc từ sự phát triển không đồng đều giữa các dân tộc qua không gian
và thời gian. Ở cùng một thời đại, ta thường thấy ở một khu vực lãnh thổ, có một
dân tộc hoặc một vài dân tộc phát triển cao hơn, nhanh hơn, mạnh hơn các dân
tộc khác ở xung quanh. Lịch sử đã chứng minh rõ ràng thực tế ấy. Đối với các
nước ở trong khu vực Đông Bắc Á, vào thời điểm mà Nho giáo được truyền bá,
thì tình trạng phát triển xã hội của Trung Quốc cao hơn hẳn các nước láng giềng
xung quanh là Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản. Và “ta không hề thấy một dân
tộc nào cứ chịu lạc hậu, cứ chịu áp bức bóc lột nghèo nàn để chờ sự sáng tạo của
riêng mình, không chịu học tập những dân tộc tiến bộ hơn mình”
(2)
. Ở trong tình
trạng kém phát triển hơn ấy, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam khi gặp Nho
giáo Trung Quốc với toàn bộ kiến thức và quan niệm trình bày mạch lạc, có lập
luận có dẫn chứng và đặc biệt được ghi lại bằng hệ thống chữ viết văn tự, thì
nhân dân các nước này đã tự nguyện học tập và vận dụng sáng tạo nó.
Con đường thứ hai, cũng là con đường mang tính quy luật xã hội, khi mà
con người đã có sự phát triển dân số nhất định, đã có một trình độ thích ứng với
thiên nhiên nhất định do những điều kiện về tự nhiên, kinh tế, chính trị… đã
xuất hiện các chuyến di cư từ nơi này đến nơi khác, từ lãnh thổ vùng này sang
vùng khác, từ nước này sang nước khác, nhất là những nước ở gần nhau. Và
trong khi di chuyển sang các nước khác, các vùng lãnh thổ khác ấy, tuỳ vào
trình độ phát triển của quốc gia, dân tộc bản xử mà những nhóm người thiên di
ấy đã từng sống, họ sẽ hoặc là tiếp thu những giá trị văn hoá mới của khu vực
mà họ di cư đến hoặc là truyền bá những giá trị văn hoá của nơi họ đã từng sống
tới các vùng lãnh thổ mới; hoặc là cả hai thứ đó. Và thực tế cho thấy, rõ ràng đã
có những luồng di cư của người Trung Quốc sang Triều Tiên, Việt Nam và Nhật
Bản, và họ cũng mang Nho giáo truyền bá tới các nước này.
Con đường thứ ba thì lại mang tính cưỡng ép và “đồng hoá” nhiều hơn.
Các nền văn minh, các quốc gia khi đã phát triển tới đỉnh cao về kinh tế, xã hội,
(

1)
Nguyễn Đức Quỳ; Ảnh hưởng Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam; trong “Nho giáo tại Việt
Nam”, Nxb KHXH, 1994, tr 385.
(
2)
Nguyễn Đức Quỳ, Sđd, tr 386
8
chính trị, quân sự thường có ý muốn bành trướng thế lực, bành trướng lãnh thổ
của mình bằng các cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia láng giềng. Cùng với
quá trình xâm lược ấy là sự “đồng hoá” và cả “bị đồng hoá” về văn hoá. Đối với
khu vực Đông Bắc Á, ở thời điểm đó, nền văn minh Trung Hoa đã phát triển tới
đỉnh cao, hình thành một nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền với lực
lượng quân đội mạnh đã tiến hành xâm lược các quốc gia trong khu vực là Triều
Tiên và Việt Nam, đồng thời tiến hành “đồng hoá” về văn hoá các nước này.
Trong quá trình ấy, Nho giáo đã được truyền bá cưỡng ép vào các nước trong
khu vực.
Ba con đường trên có thể đúng với nước này, hoặc nước kia trong khu
vực Đông Bắc Á hoặc đồng thời hội tụ ở từng nước, nhưng chúng ta cần phải
thấy được và khẳng định khả năng thích ứng cao của Nho giáo. Nho giáo tự thân
nó đã là một hệ tư tưởng phong phú, đa dạng, có khả năng hoà nhập vào nền văn
hoá của các quốc gia trong khu vực hơn bất kì tôn giáo và hệ tư tưởng nào khác.
Sự du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo tới các nước cũng có sự khác
nhau, mà cách tốt nhất để tìm hiểu sự khác nhau này là hiểu về sự truyền bá và
ảnh hưởng ở từng nước. Hay nói cách khác là đặt chúng ở bên cạnh nhau có lẽ
chúng ta sẽ có thể rút ra những đặc điểm tương đồng và dị biệt.
1. Nho giáo truyền bá và ảnh hưởng ở Triều Tiên
Nho giáo được truyền bá vào Triều Tiên trải qua một quá trình lâu dài và
bằng cả ba con đường trên
(1)
. Cho đến nay vẫn chưa thể xác định chính xác thời

điểm Nho giáo được du nhập vào Triều Tiên. Theo một số ý kiến nghiên cứu
cho rằng Nho giáo đã ảnh hưởng và du nhập vào Triều Tiên từ rất sớm, có thể từ
trước thời kỳ Ba vương Quốc, tức là vào khoảng thời gian những năm cuối trước
công nguyên, khi Hàn Quốc chưa xuất hiện nhà nước phong kiến. Hay nói cách
khác “Nho giáo đã ảnh hưởng nhất định tới bán đảo Triều Tiên từ trước thời kỳ
Ba vương quốc”
(2)
. Một số ý kiến khác xác định khá cụ thể cho rằng Nho giáo
vào Triều Tiên vào khoảng các bộ lạc lớn ở bán đảo đã hợp nhất với nhau, tức là
(
1)

(2)
Xem thêm Lý Xuân Chung, Tìm hiểu vấn đề Nho giáo du nhập vào Hàn Quốc, Tạp chí Nghiên
cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 316-2001, tr 68-70.
(
9
vào khoảng năm 403-221 TCN
(3)
. Tuy nhiên tất cả đều thống nhất rằng Triều
Tiên là đất nước tiếp nhận Nho Giáo sớm nhất trong khu vực, có lẽ đơn giản vì
quốc gia có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, văn hoá-xã hội gần gũi với Trung
Hoa nhất.
Ảnh hưởng của Nho giáo chính thức ở Hàn Quốc từ thời kì Ba vương
quốc (Koguryo; Pec-chê, Silla) vào khoảng cuối thế kỷ IV. Nho giáo du nhập
vào ba vương quốc này vào những khoảng thời gian khác nhau. Trong đó sớm
nhất là vương quốc Koguryo do có đường biên giới tiếp giáp với Yên, Tề, Lỗ
(Trung Quốc xưa). Ngay từ buổi đầu dựng nước, quan lại Koguryo đã học sách
chữ Nho, sử dụng chữ Hán trong công việc hành chính. Trong cuốn “Tam quốc
sử ký” (Cuốn sử cổ nhất của Triều Tiên); tới năm 392, thời vua Sơ-su-rin, đời

vua thứ 17, nhà vua ra chỉ dụ “lập nhà Thái học, giáo dục đệ tử” bằng các sách
kinh điển Nho giáo (như Ngũ kinh, Tam sử (Sử ký, Hán thư và hậu Hán thư)
(1)
.
Cũng trong khoảng thời gian này, hoặc có thể muộn hơn một chút, Nho giáo đã
được du nhập vào hai vương quốc còn lại. Sau khi Silla thống nhất toàn bán đảo,
Nho giáo đã có những bước phát triển mới. Theo “Tam quốc sử ký”, vào khoảng
năm 682 trường Quốc học được thành lập, trực thuộc bộ Lễ. Tới năm 717, chân
dung Khổng Tử và 72 vị tiên hiền đã được rước từ nước Đường về đặt trong
viện Hàn lâm ở Silla. Năm 750 trường Quốc học được đổi tên thành trường Thái
học, quy mô đào tạo, chương trình giảng dạy, sách vở học tập được tổ chức chặt
chẽ hơn. Tuy nhiên có thể thấy rằng Nho giáo vào bán đảo Triều Tiên thời kì Ba
vương quốc chỉ chiếm vị trí khá khiêm tốn trong đời sống chính trị cũng như đời
sống tinh thần đối với quý tộc vương triều. Và cũng giống như Việt Nam và
Nhật Bản, thời kì đầu Nho giáo mới du nhập vào, “suốt trong thời đại Ba vương
quốc, Phật giáo và Nho giáo ở Hàn Quốc đã tồn tại sát cạnh bên nhau một cách
hài hoà
(2)
.
(
3)
Lê Quang Thiêm; Văn hoá, văn minh và yếu tố văn hoá truyền thống Hàn, Nxb Văn học, 1998, tr
295
(
1)
Trích theo Lý Xuân Chung, Sđd, tr 70
(
2)
Lê Quang Thiêm, Sđd, tr 298
10

Thời kỳ Koryo (918-1392), đây là thời kỳ Phật giáo phát triển tới đỉnh cao
ở Triều Tiên, còn Khổng giáo thì đã cung cấp cơ sở cho ý thức hệ chính trị chính
thức. Tuy nhiên Nho giáo thời kì này có xu hướng ảnh hưởng lấn át dần Phật
giáo. Thông qua chế độ giáo dục và khoa cử, Nho giáo đã dần dần chiếm vị trí
quan trọng trong xã hội Triều Tiên lúc bấy giờ. Đến cuối triều đại Koryo, Tân
Khổng giáo đã bắt đầu xuất hiện và truyền bá vào Triều Tiên. Trước sự rối ren
và đảo lộn về đạo lý và tinh thần ở Koryo lúc bấy giờ, Tân Khổng giáo đã nhanh
chóng được tiếp thu và có ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Koryo, và xã hội Triều
Tiên sau này.
Triều đại Koryo chấm dứt, tướng Yi-Song-kie (hay còn gọi là vua Tae-jo)
lên ngôi vua lập ra triều đại Cho-son (1392-1910). Suốt triều đại này, Khổng
giáo có sự phát triển thịnh hành nhất, ảnh hưởng lớn tới mọi mặt, mọi hoạt động
trong xã hội Cho-son. Triều Tiên khi ấy được xem như là một đất nước Nho
giáo tiêu biểu nhất trong vùng. Nho giáo không chỉ ảnh hưởng tới chính quyền
Trung ương mà còn ảnh hưởng tới từng gia đình, từng cá nhân. Nho giáo không
chỉ được tiếp nhận những giá trị bên ngoài mà còn được người Triều Tiên bổ
sung và phát triển sáng tạo, điển hình là sự ra đời của kiểu chữ viết riêng của
dân tộc Triều Tiên - chữ Hangul (1446). Nội dung Nho giáo ảnh hưởng thời
Cho-son là lấy Trung và Hiếu làm hệ thống trật tự, coi đạo đức chuẩn là Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín hay nói cách khác cuộc sống hàng ngày của người dân được
chỉ đạo bởi các nguyên tắc của Tân Khổng giáo. Có tới 200 học viện Khổng
giáo và nhà thờ Khổng giáo được xây dựng ở triều đại này. Trường học Khổng
giáo được trở thành kiểu trường học chính thống. Chế độ học và khoa cử Nho
giáo được tổ chức, sắp xếp đào tạo ở mức độ cao hơn. Cuối thời Cho-son, Tân
Khổng giáo ở Triều Tiên xuất hiện nhiều trường phái và phát triển theo nhiều
chiều hướng khác nhau. Đặc biệt là Nho giáo phải đối diện với những thách thức
đến từ bên ngoài: đó là cuộc xâm lược 7 năm (1592 - 1598) của Nhật Bản và
một số tác động của tôn giáo và khoa học phương Tây. Trước những thách thức
ấy, Nho giáo cũng được đổi mới cho phù hợp với sự thay đổi của thời đại. Tuy
nhiên, sau đó từ sự xâm chiếm của người Nhật năm 1910 trở về sau, hệ thống tư

11
tưởng Nho giáo đã dần mất đi vai trò là cơ sở của nhà nước cai trị. Nhưng chúng
ta vẫn phải thừa nhận rằng cho tới nay, xã hội Triều Tiên vẫn còn dấu ấn đậm
nét của tư tưởng Nho giáo.
2. Nho giáo truyền bá và ảnh hưởng tới Nhật Bản
Khác với Triều Tiên và Việt Nam, con đường mà Nho giáo truyền bá vào
Nhật Bản lại mang tính chủ động, “lựa chọn” tiếp thu hơn. Nguyên nhân của sự
khác biệt này có lẽ là do sự khu biệt về địa lí, sự thuần nhất về văn hoá của Nhật
Bản và đặc biệt là việc không bị nước ngoài (Trung Hoa) đô hộ. Tất cả những
điều kiện đó đã giúp Nhật Bản có thể duy trì sự ổn định, tính bền vững xã hội,
và chủ động tiếp thu những luồng tư tưởng từ bên ngoài vào.
Hiện nay, đa số các học giả đều cho rằng Khổng giáo được truyền bá vào
Nhật Bản qua Triều Tiên vào khoảng trước thế kỷ thứ V
(1)
thông qua con đường
giao thương buôn bán và qua những người Hàn Quốc di cư sang Nhật Bản.
Nhưng phải đến nửa đầu thế kỷ VI, giai cấp quý tộc Nhật Bản mới chính thức
chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo. Tư tưởng Nho giáo được thể hiện đầu
tiên trong “Luật 17 điều” công bố năm 604 của thái tử Sotoku Taishi (574 - 622)
đặt tư tưởng trung quân lên hàng đầu (“nước không thể có hai vua”). Và ngay từ
buổi đầu ấy, ở trong không gian của xã hội Nhật Bản và biệt lập, Nho giáo
Trung Hoa đã không thể lan truyền mà không bị biến tướng. Michio Morishima
đã nhận xét rất hình ảnh như sau: “ngay từ đầu người Nhật ở mức độ nào đấy đã
lĩnh hội các luận thuyết theo cách riêng của mình và vận dụng những luận giải
khác về chúng. Cuộc cách mạng tôn giáo đã diễn ra một cách mau chóng, và có
lẽ là vô ý thức, ngay trên boong của các con tàu đến từ Trung Quốc và Triều
Tiên hay trên các bãi tắm tại các bờ biển Nhật Bản”
(3)
. Nhưng không chỉ tiếp thu
Nho giáo từ Triều Tiên sang, Triều đình Nhật Bản còn cử các đoàn sứ giả sang

Trung Quốc để giao lưu và học tập và tiếp thu Nho giáo qua thế giới quan của
(
1)
Theo “Nhật Bản thư ký”: Năm 285 (tức năm Thái Khang thứ 6, Tấn Vũ Đế Trung Quốc và năm thứ
16 Thiên hoàng ứng thần Nhật Bản) Nho giáo truyền bá vào Nhật Bản. Trích theo Y Văn Thành, ảnh
hưởng của Nho học đối với Nhật Bản, Tạp chí Nghiên cứu Nhật bản số 5 (10/1998), tr 44
(
3)
Michio Morishima, Tại sao Nhật bản “thành công”: Công nghệ phương làng và tính cách Nhật Bản;
Nxb KHXH, 1991, tr 15
12

×