Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

chủ nghĩa xã hội ra đời trên nền tảng của chủ nghĩa Mac_Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.65 KB, 9 trang )

Phải nói chủ nghĩa xã hội ra đời trên nền tảng của chủ nghĩa
Mac_Lênin. Sự có mặt của nó đại diện cho một xã hội tốt đẹp ,hay nói cụ thể
hơn là một xã hội nhân đạo, xã hội mà : “Mỗi người sinh ra đều có quyền
bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền mà không ai có thể xâm phạm được,
trong những quyền ấy có quyền được sống ,quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”. Đó là những lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong bản
tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945. Chính vì thế mà hơn 2/3 thế kỷ vừa qua,
đất nước Việt Nam đã và đang tiếp tục đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Đảng thành lập đánh dấu sự ra đời của phương pháp đấu tranh khoa học, lịch
sử đã chứng minh điều đó. Chúng ta đã đạt được những thành quả ngày hôm
nay là do công sức đấu tranh gian khổ của nhân dân cả nước dưới sự soi
đường chỉ lối của Đảng. Đặc biệt là cách mạng tháng Tám năm 1945 - một
trong những phong trào cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Cuộc cách
mạng tất yếu phải tiến hành nhưng điều cốt yếu là sớm hay muộn. Nhờ có sự
chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại nổ ra đúng thời cơ nên cách mạng tháng Tám
đã giành thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu. Chỉ trong vòng 15 ngày, cuộc tổng
khởi nghĩa đã thành công. Làn đầu tiên trong lịch sử, chính quyền cả nước về
tay nhân dân.
Cách mạng tháng Tám là kết quả và đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của
toàn dân ta dưói sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là phong trào giải phóng
dân tộc 1939-1945. Trong quá trình đó, Đảng đã xây dựng được một lực
lượng vũ trang nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng và đùm bọc, có chỗ
đứng chân ngày càng vững chắc trong căn cứ địa cách mạng, giữ vai trò nòng
cốt, xung kích, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính
quyền. Đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo cuộc cách mạng tháng Tám. Đảng
có đưòng lối cách mang đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, bắt rễ sâu
trong quần chúng, đoàn kết và quyết tâm tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cơ bản nhất, quyết định thắng lợi
của cuộc cách mạng. Đảng đặt quyền lợi của cách mạng, của nhân dân lên
trên hết. Đã biết bao nhiêu người đã đem xương máu của mình vun tưới cho
cây cách mạng, cho cây cách mạng ra hoa, kết trái tốt đẹp như ngày nay.


Cách mạng tháng Tám là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình
do Đảng cộng sản lãnh đạo, lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa.
Với thắng lợi này, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ
nghĩa đế quốc, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước do nhân
dân lao động làm chủ. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người
dân tự do, độc lập và làm chủ vận mệnh của mình. Nước ta từ một nước thuộc
địa trở thành một nước độc lập, tự chủ. Đảng cộng sản Việt Nam từ chỗ phải
hoạt động bí mật, không hợp pháp trở thành một Đảng cầm quyền và hoạt
động công khai. Với thắng lợi này, “chẳng những giai cấp lao động và nhân
dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà những dân tộc bị áp bức khác cũng có thể
tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc
thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
1
thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. Thắng lợi của cách mạng tháng
Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt trong lịch sử tiến hoá của dân tộc Việt
Nam, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc- kỷ nguyên của độc lập tự do
mà ở đó mà nhân đạo được đề cao hơn nhiều.
Về mặt quốc tế, cách mạng tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu
quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ
suy thoái và tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp phần
cống hiến lớn lao vào sự nghiệp giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân
tộc trên thế giới.
Ngoài ra cách mạng tháng Tám còn là thắng lợi của tư tưởng độc lập tự do
của Hồ Chí Minh và đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của
Đảng. Nó chứng tỏ rằng: ở thời đại chúng ta, một cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc do giai cấp công nhân lãnh đạo hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một
nước thuộc địa.

15 năm lớn lên và trưởng thành của Đảng cũng là 15 năm
đấu tranh gian khổ, quyết liệt để dẫn đến cách mạng tháng Tám thành công.

Chúng ta chia khoảng thời gian này thành 4 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất
1930-1931, giai đoạn thứ hai 1932-1935, giai đoạn thứ ba 1936-1939, và giai
đoạn 1939-1945. Trong mỗi giai đoạn đó, sự chuẩn bị của Đảng và Hồ Chủ
Tịch có những cách thức khác nhau nhưng sự chuẩn bị trực tiếp đẻ dẫn đến
thành công là giai đoạn thứ tư 1939-1945, tuy vậy, vai trò của 3 giai đoạn
trước cũng rất quan trọng.
Mấy chục năm đầu thế kỷ XX, các cuộc vận động chống Pháp cứu nước
của nhân dân liên tiếp bị dìm trong bể máu. Phong trào bế tắc chưa xác định
được đường lối đúng đắn. Giữa lúc đó, Nguyễn Tất Thành (Tức Hồ Chủ Tịch)
đã rời Tổ Quốc ra đi, bôn ba khắp năm châu bốn biển, xem xét tình hình,
nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm của cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp.
Người tham gia lao động và tham gia đấu tranh trong hàng ngũ giai cấp công
nhân và nhân dân lao động nhiều nước. Người đã nhận thức được rằng: chủ
nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên thế giới, là kẻ thù trực tiếp nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc
địa, để đánh bại chủ nghĩa thực dân chỉ có con đường duy nhất là bạo lực cách
mạng. Người chỉ ra rằng: cần phải có một tổ chức lãnh đạo đúng đắn và phải
có học thuyết cách mạng - học thuyết Mác Lênin, và phải biết vận dụng đúng
đắn học thuyết đó vào Việt Nam. Để chuẩn bị cho việc thành lập Đảng cộng
sản, Người đã chuẩn bị về mặt tư tưởng và chính trị. Người đã viết bài cho
các báo: “Người cùng khổ”, “Nhân đạo” và một số tạp chí thư tín của quốc tế
cộng sản. Về mặt tổ chức, Người đến Quảng Châu và tham gia thành lập Hội
liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, đẻ thống nhất hành động chống chủ
2
nghĩa thực dân. Tháng 6-1925, Người thành lập “Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội” với nòng cốt là Cộng sản đoàn, để trực tiếp truyền bá chủ
nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam, mở nhiều lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cách
mạng. Ở việt Nam lúc đó có 3 tổ chức Đảng được thành lập và hoạt động
riêng rẽ. Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị thành lập Đảng từ ngày 3 đến
ngày 7 tháng 2 năm 1930 tại Cửu Long (Hương Cảng) và thành lập Đảng

cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp thảo ra chính cương vắn tắt,
sách lược vắn tắt và điều lệ vắn tắt làm tiền đề cho hoạt động của Đảng. Nội
dung của cương lĩnh tóm tắt đường lối chiến lược của cách mạng trên cơ sở
phân tích tình hình kinh tế, giai cấp, xã hội nước ta. Nhiệm vụ của cách mạng
ở nước ta là đánh đuổi đế quốc Pháp xâm lược và đánh đổ bọn tay sai, làm
cho nước Việt Nam được độc lập… Lực lượng để đánh đổ đế quốc và phong
kiến trước hết là công – nông. Đồng thời “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản,
trí thức, trung nông… để kéo họ về phía giai cấp vô sản”. Cách mạng Việt
Nam là moọt bộ phận của cách mạng thế giới, phải đoàn kết với các dân tộc bị
áp bức và giai cấp vô sản quốc tế, nhất là giai cấp công nhân Pháp. Sự lãnh
đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng.
Từ khi thành lập Đảng, thời kỳ cách mạng ở trong tình trạng “đen tối
như không có đường ra” và thời kỳ bế tắc, và khủng hoảng về đườn lối cứu
nước đã chấm dứt.
Kể từ cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930), thực dân Pháp tiến hành
khủng bố khắp nơi, gây nên một không khí chính trị căng thẳng, mâu thuẫn
giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp và bè lũ tay sai trở nên gay gắt hơn. Điều đó
đẩy nhân dân ta tiến hành đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt hơn với kẻ thù. Giữa
lúc đó, Đảng đã xây dựng được hệ thống tổ chức thống nhất và cương lĩnh
chính trị đúng đắn, đảm nhiệm sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng. Đảng đã
nhanh chóng phát triển tổ chức cơ sở của mình trong nhiều nhà máy, xí
nghiệp, khu mỏ, đồn điền ở nông thôn và thành phố. Những tổ chức quần
chúng của Đảng như công hội, nông hội, đoàn thanh niên cộng sản, hội phụ
nữ, hội cứu tế được xây dựng ở nhiều nơi. Dưói sự thống nhất của Đảng,
phong trào đấu tranh của quần chúng đã phát triển và vùng lên mạnh mẽ khắp
3 miền. Hình thức đấu tranh ở giai đoạn 1930-1932 là truyền đơn, mít tinh,
bãi công, biểu tìn, tuần hành…
Đối với sự khủng bố của giặc, Trung ương Đảng chỉ thị cho các cấp bộ
Đảng phải dựa vào sức mạnh của quần chúng, đồng thời phải đẩy mạnh phát
triển các đội tự vệ để bảo vệ quần chúng đấu tranh. Đây là mầm mống của lực

lượng vũ trang nhân dân do Đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo. Cao trào
1930-1931 đã đạt được những thành công nhỏ, tuy bị đế quốc đàn áp và thất
bại nhưng nó là cuộc tổng diễn tập đầu tiên, chuẩn bị cho thắng lợi của cách
mạng tháng Tám năm 1945.

Giai đoạn 1932-1935, đứng trước cao trào cách mạng của nhân dân ta,
đế quốc Pháp và tay sai đã cấu kết với bọn phản động thẳng tay khủng bố
3
nhằm dập tắt phong trào và tiêu diệt Đảng cộng sản. Hàng nghìn chiến sĩ cộng
sản, hàng vạn người yêu nước bị bắt, bị giết hoặc bị tù đày. Các cơ quan lãnh
đạo của Đảng ở trung ương và địa phương lần lượt bị phá vỡ, toàn bộ ban
chấp hành trung ương bị bắt. Trước tình hình đó, Đảng đã kiên trì giữ vững
đường lối cách mạng và phương pháp chiến lược cách mạng. “Công nông
Đông Dương dưới sự chỉ đạo của Đảng cộng sản sẽ nổi lên vũ trang bạo động,
thi hành những nhiệm vụ sau này của cuộc cách mạng phản đế để đạt chủ
nghĩa xã hội”. Dựa theo chương trình hành động, các tổ chức cơ sở của Đảng
đã lợi dụng các hình thức hợp pháp như hội cày, cấy, gặt hái, hiếu hỉ…Phong
trào đấu tranh của quần chúng lao động dần dần được nhen nhóm lại. Năm
1932, ở Đông Dương có 230 vụ xung đột giữa nông nhân, năm 1933 có 552
vụ. Đáng chú ý là các cuộc bãi công của công nhân làm đường xe lửa, của
công nhân nhà máy in…

Giai đoạn 1936-1939 là giai đoạn mà Đảng lãnh đạo nhân dân đấu
tranh đòi dân chủ ,dân sinh.Do tình hình thế giới khủng hoảng thừa tư bản
mà đế quốc Pháp ra sưc khai thác bóc lột Việt Nam để bù lại sự khủng hoảng
đó.Trước tình hình đó , Đảng đã nắm được những yêu cầu để từng bước phát
động quần chúng đấu tranh tạo tiền đề đưa cách mạng lên cao hơn. Đảng đã
chỉ thị chuyển hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình thức tổ
chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm
làm cho Đảng mở rộng sự quan hệ với quần chúng , giáo dục tổ chức và lãnh

đạo quần chúng đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu thích hợp.Trong
khi tranh thủ mở rộng các hình thức tổ chức đấu tranh công khai và hợp
pháp ,tránh sa vào chủ nghĩa công khai , mà phải giữ vững nguyên tắc củng
cố và tăng cường tổ chức và hoạt động bí mật và công khai ,hợp pháp với
không hợp pháp và phải bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức Đảng bí mật đối với
những tổ chức và hoạt động công khai hợp pháp .
Cùng với việc đề ra chủ trương mới để lãnh đạo nhân dân thành lập
Mặt trận nhân dân rộng rãi , đấu tranh đòi các quyền dân chủ ,dân sinh.Ban
chấp hành trung ương Đảng đã đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, trong cách mạng ở Đông Dương. Trong văn
kiện xung quanh vấn đề mới công bố tháng 10-1936, Đảng nêu một quan
điểm mới: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải xiết chặt với cuộc
cách mạng thổ địa.Nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần
4
phải phát triển cách mạng thổ địa, muốn giải quyết vấn đề thuộc địa thì phải
đánh đổ đế quốc.Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng”.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ giữa năm 1936
trở đi khẳng định sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng đúng đắn. Song thực
tiễn cách mạng diễn ra phong phú hơn, sinh động hơn, đòi hỏi Đảng phải theo
dõi , bổ sung và hoàn chỉnh từng bước các chủ trương và biện pháp đấu
tranh.Trên tinh thần đó ,các hội nghị lần thứ ba(tháng 3-1937)và lần thứ tư
(tháng 9-1937) đã đi sâu hơn về công tác tổ chức của Đảng,quyết định phải
chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp được
đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa ,chống phát
xít, đòi tự do, cơm áo, hòa bình.
Cuối năm 1932 từ Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Quốc
.Người chú ý theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng Đông Dương .Người
nhắc nhở trung ương Đảng cần nắm vững nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng ở
Đông Dương lúc này là đấu tranh đòi thực hiện các quyền tự do, dân chủ và
cải thiện đời sống, đấu tranh để Đảng được hoạt động hợp pháp, không nên

đưa ra những khẩu hiệu quá cao như độc lập dân tộc để đề phòng âm mưa cuả
phát xít Nhật lợi dụng khẩu hiệu đó. Đảng phải tổ chức một mặt trận dân tộc
dân chủ rộng rãi, mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi, mặt trận ấy không phải
chỉ có nhân dân lao động tham gia mà còn phải lôi cuốn cả giai cấp tư sản dân
tộc, không phải chỉ có nguời Đông Dương mà còn có cả những người Pháp
tiến bộ ở Đông Dương nữa. Đảng không thể đòi hỏi mặt trận thừa nhận quyền
lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động
nhất và chân thực nhất.
Những cuộc bãi công trong những năm 1936 vẫn là hình thức bãi
công ,biểu tình ,bãi chợ … nhưng đã sự có mặt của đấu tranh, chỉ trong sáu
tháng cuối năm 1936 , đã có đến 242 cuộc đấu tranh của công nhân ,lôi kéo
hàng vạn người tham gia ,lớn nhất là cuộc tổng bãi công thắng lợi của công
nhân than Hồng Gai(tháng 11-1936). Năm 1937 là năm phong trào công nhân
cao nhất, có gần 400 cuộc bãi công,vang dội nhất là cuộc bãi công của công
nhân xe lửa Truờng Thi (tháng 7-1937), được công nhân xe lửa miền Nam
Đông Dương bãi công phối hợp. Năm 1938 có trên 130 cuộc bãi công vào 6
5

×