Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

luận văn quản trị kinh doanh NGUYÊN PHỤ LIỆU CHO NGÀNH DỆT MAY, THỰC TRẠNG- GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.53 KB, 28 trang )

Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
Mục lục.
Lời mở đầu. 3
Phần 1: Lý luận chung. 3
1.1 Khái niệm về NVL. 3
1.2 Vai trò của hoạt động cung ứng NVL trong hoạt động SX - KD. 4
1.2.1 Vai trò của NVL đối với hoạt động SX - KD nói chung. 4
1.2.2 Vai trò của nguyên phụ liệu trong ngành Dệt may. 4
1.3 Sự cần thiết phải làm tốt công tác quản trị nguyên phụ
liệu cho ngành Dệt may Việt Nam. 5
1.3.1 Mục tiêu và nội dung của hoạt động cung ứng NVL nói chung.5
1.3.2 Sự cần thiết phải làm tốt công tác cung ứng, phát triển
nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may. 5
1.3.2.1 Vai trò của ngành Dệt may Việt Nam.6
1.3.2.2 Đặc điểm nguyên phụ liệu của ngành Dệt may Việt Nam
hầu hết là nhập khẩu. 7
1.4 Xác định cầu và lượng đặt hàng. 8
1.4.1 Những vấn đề lý luận cần quan tâm. 8
1.4.2 Ảnh hưởng của việc xác định dự báo cầu không chính xác
tới hoạt động SX - KD của ngành Dệt may. 10
1.5 Xác định người cung ứng cho ngành Dệt may. 10
1.5.1 Sự cần thiết. 10
1.5.2 Quan điểm và nhân tố ảnh hưởng. 10
Phần 2: Thực trạng. 11
2.1 Thực trạng của ngành Dệt may Việt Nam. 11
2.1.1 Những nét khái quát. 11
2.1.2 Những vấn đề cần quan tâm. 12
2.1.2.1 Hầu hết nguyên phụ liệu phải nhập khẩu. 12
2.1.2.2 Chưa có thương hiệu thực sự nổi tiếng trong khu
vực và quốc tế. 13
2.1.2.3 Thiết kế vải và quần áo còn rất yếu. 14


2.1.2.4 Khả năng cạnh tranh kém. 14
2.1.2.5 Đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật còn thiếu và yếu ở
những khâu then chốt. 15
2.2 Thực trạng nguyên phụ liệu ngành Dệt may. 15
2.2.1 Việc xác định, dự báo nhu cầu cho toàn ngành còn yếu,
chưa chính xác. 15
2.2.2 Hầu hết nguyên phụ liệu phải nhập khẩu. 16
2.2.3 Phụ thuộc quá nhiều vào nguyên phụ liệu của một số nước
là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của ngành Dệt may Việt Nam. 17
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
1
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
2.2.4 Công tác định hướng và quản lý còn yếu kém. 18
2.2.5 Công nghệ lạc hậu-tiêu tốn nhiều nguyên liệu. 18
2.2.6 Chất lượng của nguyên phụ liệu thấp. 18
2.2.7 Chưa tập trung vào phát triển nguồn nhân lực đặc biệt
là nguồn lao động cao cấp. 19
Phần 3: Định hướng và giải pháp. 19
3.1 Định hướng. 19
3.1.1 Định hướng chung toàn ngành đến năm 2010. 19
3.1.2 Định hướng phát triển chủ yếu ngành Dệt may của Chính
phủ. 20
3.1.2.1 Chuyển từ hướng sản xuất gia công sang FBO để tăng
giá trị gia tăng. 20
3.1.2.2 Chủ động tự sản xuất, cung ứng về nguyên phụ liệu.
Từng bước đáp ứng nhu cầu về NVL trong nước. 21
3.2 Giải pháp phát triển nguồn nguyên phụ liệu cho ngành Dệt
may. 22
3.2.1 Cần làm tốt công tác định hướng phát triển cho ngành
Dệt may nói chung và vấn đề nguyên phụ liệu cho ngành nói riêng.22

3.2.2 Đào tạo phát triển nguồn nhân lực nói chung đặc biệt là
đội ngũ lao động quản lý, kỹ thuật và thiết kế cao cấp. 22
3.2.3 Đổi mới công nghệ phù hợp, đảm bảo tính hiện đại, kinh tế
và phù hợp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giảm hao
phí nguyên phụ liệu đầu vào. 23
3.2.4 Tìm kiếm các nguồn cung ứng nguyên phụ liệu mới phù hợp
nhằm giảm sự phụ thuộc vào một số nước và giảm giá thành. 24
3.2.5 Tập trung, kêu gọi đầu tư vào ngành nhuộm, công nghiệp
phụ trợ để chủ động sản xuất vải, giảm tỷ lệ nhập khẩu, tăng
tỉ lệ nội địa hóa trong một đơn vị sản phẩm. 24
3.2.6 Thành lập các trung tâm nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may.25
Lời kết thúc. 26
Danh mục tài liệu tham khảo. 28
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
2
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
Lời mở đầu.
Là một trong các yếu tố sản xuất cơ bản, chỉ tham gia một lần vào quá
trình sản xuất sản phẩm nhưng nguyên vật liệu lại đóng một vai trò rất quan
trọng. Việc cung ứng nguyên vật liệu đảm bảo cung cấp thường xuyên nguyên
vật liệu cho quá trình sản xuất, là tiền đề đảm bảo quá trình sản xuất được diễn
ra một cách liên tục với hiệu quả cao. Chính vì vậy mà các hoạt động liên
quan tới nguyên vật liệu ngày càng được quan tâm ở cả tầm vi mô và vĩ mô.
Cùng với đó là sự ra đời của một loạt các lý thuyết liên quan đến quá trình
quản trị cung ứng nguyên vật liệu như: JIT, …nhằm giúp cho quá trình quản
trị, cung ứng nguyên vật liệu được diễn ra một cách liên tuc, đảm bảo yêu cầu
của quá trình sản xuất được diễn ra một cách hiệu quả.
Với vị trí là một ngành mũi nhọn, liên tục là ngành xuất khẩu chủ lực và
hiện tại (năm 2007) lại là ngành dẫn đầu về giá trị xuất khẩu (7.8 tỷ USD) thì
vấn đề nguyên phụ liệu của ngành dệt may lại càng trở nên quan trọng và cần

được sự quan tâm đúng mức của các doanh nghiệp, của nhà nước và của toàn
xã hội. Đặc biệt trong chuyến đi xa của ngành dệt may vào thị trường thế giới
kể từ khi đất nước chính thức hội nhập và trở thành một thành viên chính thức
của nền kinh tế toàn cầu. Bởi theo cam kết với tổ chức Thương mại thế giới
thì chúng ta phải chấp nhận sự cạnh tranh của ngành Dệt may ngay khi chúng
ta trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Theo cam kết thì chúng ta
phải cắt giảm thuế nhập khẩu đối với hàng Dệt may ngay khi chúng ta trở
thành thành viên chính thức của WTO. Cụ thể: nhóm hàng xơ, sợi giảm thuế
nhập khẩu từ 20% xuống còn 5%, nhóm hàng vải giảm từ 40% xuống còn
12%; quần áo, đồ may sẵn phải giảm từ 50% xuống 20%.
Vậy thì thực trạng của ngành Dệt may và vấn đề nguyên phụ liệu của
ngành ra sao? chiến lược, định hướng phát triển của ngành như thế nào? Và
liệu chúng ta có thể hiện đại hóa, gia tăng giá trị được cho ngành và đảm bảo
có thể hội nhập thành công được hay không? Các câu hỏi này sẽ lần lượt được
làm sáng tỏ khi chúng ta đi sâu vào nghiên cứu và giải quyết từng vấn đề trong
các phần sau.
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
3
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
Phần 1: Lý luận chung.
1.1 Khái niệm về NVL.
Nguyên vật liệu là phạm trù mô tả các loại đối tượng lao động được tác
động vào để biến nó thành sản phẩm (dịch vụ). Nó bao gồm tất cả các nguyên
liệu mới được khai thác hoặc là nông, lâm, hải sản… chưa được chế biến; vật
liệu là những đối tượng đã được chế biến và được tiếp tục sử dụng vào quá
trình chế biến sản phẩm khác; nhiên liệu là những đối tượng lao động được sử
dụng để tạo ra nguồn năng lượng phục vụ quá trình sản xuất.
Mặc dù mỗi loại nguyên vật liệu cụ thể có những đặc tính tự nhiên rất
khác nhau, song đặc điểm chung nhất là mọi loại nguyên vật liệu đều chỉ tham
gia một lần vào quá trình sản xuất sản phẩm (dịch vụ). Sự tham gia này có thể

dẫn đến quá trình biến dạng của nguyên vật liệu theo ý muốn của con người.
Song toàn bộ giá trị của nguyên vật liệu không mất đi mà kết tinh vào giá trị
sản phẩm (dịch vụ) được tạo ra từ nguyên vật liệu đưa vào sản xuất.
1.2 Vai trò của hoạt động cung ứng NVL trong hoạt động SX - KD.
1.2.1 Vai trò của NVL đối với hoạt động SX - KD nói chung.
Nguyên vật liệu là một trong các yếu tố sản xuất cơ bản. Việc cung ứng
nguyên vật liệu, đảm bảo cung cấp thường xuyên nguyên vật liệu cho sản xuất
nên là một trong các điều kiện tiền đề nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất
có hiệu quả. Ở nhiều doanh nghiệp giá trị của nguyên vật liệu chiếm tỉ trọng
lớn trong giá thành thì hoạt động cung ứng nguyên vật liệu có hiệu quả sẽ
càng góp phần rất quan trọng vào tăng hiệu quả kinh doanh. Đối với các
doanh nghiệp thương mại cung ứng hàng hóa đầu vào là điều kiện tiền đề để
tiêu thụ chúng: mua sắm đúng, dự trữ đúng sẽ tiêu thụ tốt với hiệu quả cao;
ngược lại, mua sắm không đúng, dự trữ không phù hợp vừa gây khó khăn,
gián đoạn cho hoạt động tiêu thụ, vừa làm giảm hiệu quả của tiêu thụ hàng
hóa. Như vậy, nguyên phụ liệu là một trong các yếu tố cơ bản đầu tiên đảm
bảo cho sự thành công trong hoạt động sản xuất
Giảm chi phí kinh doanh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Kinh doanh
càng phát triển, phạm vi hoạt động càng rộng lớn, thị trường không phải chỉ
trong phạm vi một tỉnh, một vùng mà mở rộng ra phạm vi cả nước, khu vực và
quốc tế thì hoạt động cung ứng nguyên vật liệu càng trở nên rất quan trọng.
Khi lượng dự trữ lớn, nhu cầu về năng lực kho tàng và vận chuyển tăng lên thì
việc tính toán lượng mua, thời điểm mua, lượng đặt hàng, thời điểm đặt hàng
chính xác phù hợp sẽ giúp chúng ta có thể tiết kiệm được chi phí, giá thành
sản phẩm. Và hoạt động cung ứng phát triển thành phạm trù hậu cần kinh
doanh.
1.2.2 Vai trò của nguyên phụ liệu trong ngành Dệt may.
Trong tất cả các loại đầu vào cho quá trình sản xuất thì NVL là một yếu
tố cơ bản quan trọng. Đặc biệt hơn, với ngành Dệt may thì nguyên phụ liệu lại
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A

4
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
là một yếu trong những yếu tố quan trọng hàng đầu. Bởi trong cơ cấu giá trị
sản phẩm của ngành, giá trị của nguyên phụ liệu chiếm từ 40-70%, thậm chí
nó còn chiếm tỷ lệ cao hơn trong giá trị của sản phẩm. Hơn nữa, dệt may lại là
một ngành mũi nhọn, ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước. Do đó để gia
tăng giá trị sản phẩm, tăng tỉ lệ nội địa hóa thì vai trò của công tác nguyên phụ
liệu được coi là điểm mấu chốt quan trọng.
Xác định được vai trò, cũng như tầm quan trọng của nguyên phụ liệu
đối với toàn ngành, Chính phủ đã có những quyết sách quan trọng nhằm từng
bước cải thiện, đáp ứng nhu cầu cả về số lượng cũng như chất lượng nguyên
phụ liệu đáp ứng cho ngành. Chúng ta tin tưởng với quyết tâm của chính phủ,
sự cố gắng của ngành, những mục tiêu và định hướng phát triển của ngành sẽ
đạt được theo đúng kế hoạch.
1.3 Sự cần thiết phải làm tốt công tác quản trị nguyên phụ liệu cho ngành
Dệt may Việt Nam.
1.3.1 Mục tiêu và nội dung của hoạt động cung ứng NVL nói chung.
 Mục tiêu của quản trị cung ứng NVL.
Luôn luôn đảm bảo cung ứng đầy đủ, đúng chủng loại, số lượng và chất
lượng các loại nguyên vật liệu (hàng hóa) cần thiết cho quá trình sản xuất (tiêu
thụ) với chi phí kinh doanh tối thiểu.
 Nội dung của hoạt động cung ứng NVL.
Thứ nhất, trên cơ sở chiến lược phát triển xây dựng chính sách mua
sắm, vận chuyển và dự trữ hợp lí.
Thứ hai, tính toán và xác định chính xác số lượng, chất lượng mỗi loại
nguyên vật liệu cần mua sắm và dự trữ trong từng thời kì kế hoạch.
Thứ ba, xây dựng các phương án và quyết định phương án mua sắm,
bố trí kho tàng, đường vận chuyển và sự kết hợp vận chuyển tối ưu.
Thứ tư, tổ chức mua sắm bao gồm việc xác định và lựa chọn bạn hàng,
tổ chức nghiệp vụ đặt hàng, lựa chọn phương thức giao nhận, kiểm kê, thanh

toán…
Thứ năm, tổ chức vận chuyển hàng hóa bao gồm việc lựa chọn tự vận
chuyển hay thuê ngoài, quyết định lựa chọn phương án vận chuyển, quyết
định người vận chuyển và quyết định phương án vận chuyển nội bộ.
Thứ sáu, quản trị kho tàng và cấp phát kịp thời theo yêu cầu sản xuất.
1.3.2 Sự cần thiết phải làm tốt công tác cung ứng, phát triển nguyên phụ
liệu cho ngành Dệt may.
Một đặc thù của ngành Dệt may đó là giá trị của nguyên phụ liệu chiếm
một tỷ lệ rất lớn trong giá thành của sản phẩm. Trong khi đó trình độ phát
triển của ngành Dệt may Việt Nam đang ở dưới mức trung bình so với mặt
bằng chung của thế giới, năng suất lao động của nhiều doanh nghiệp Dệt may
nước ta vẫn còn thấp hơn 30% - 50% so với mức bình quân của doanh nghiệp
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
5
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
các nước trong khu vực, 90% số doanh nghiệp trong ngành dệt may vẫn còn
xa lạ với ba chữ ERP (hệ thống quản lý tích hợp nguồn lực)
Hơn nữa, ngành Dệt may Việt Nam lại chủ yếu mang tinh chất của một
ngành công nghiệp gia công. Bởi thực tế hiện nay hầu hết các nguyên phụ liệu
chúng ta phục vụ cho ngành xuất khẩu chủ lực này phải nhập khẩu : 95% nhu
cầu xơ bông, 70% nhu cầu sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và
60% vải dệt thoi của cả một ngành công nghiệp hoàn toàn phải phụ thuộc vào
nhập khẩu.
Nguồn nhập chủ yếu lại chính từ những quốc gia là đối thủ trực tiếp của
Dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới như: Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan,

Trong khi đó, dệt may lại là một ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước
với kim ngạch xuất khẩu năm 2007 ước đạt 7.5 tỷ USD. Vậy để gia tăng được
số lượng cũng như chất lượng về xuất khẩu, cũng như làm tăng giá trị gia tăng
cho ngành chúng ta cần phải có những định hướng giải pháp, cũng như những

việc làm cụ thể để thực hiện tốt công tác nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may.
Để Dệt may Việt Nam không chỉ là một ngành công nghiệp gia công mà thực
sự trở thành một ngành công nghiệp hiện đại, đủ sức cạnh tranh và khẳng định
được thương hiệu Dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới.
1.3.2.1 Vai trò của ngành Dệt may Việt Nam.
 Là ngành xuất khẩu chủ lực.
Chúng ta có thể khẳng định một điều rằng, đã có rất nhiều nước phát
triển hiện nay đã đi lên từ việc phát triển ngành Dệt may. Nhìn lại lịch sử và
sự đóng góp của Dệt may trong suốt chặng đường phát triển của nền kinh tế
của đất nước chúng ta cũng có thể thấy rõ vai trò của ngành đối với đất nước.
Tính đến hết năm 2006, dệt may là ngành xuất khẩu lớn thứ hai của
Việt Nam, kim ngạch trung bình tăng hằng năm khoảng 20% từ 2,7 tỷ USD
năm 2002 lên đến 5,8 tỷ năm 2006. Cả nước có khoảng 2.000 DN dệt may và
đang sử dụng khoảng 2 triệu lao động, sản xuất 1,8 tỷ sản phẩm dệt may, với
65% dành cho xuất khẩu. Trong đó, các DN tập trung chủ yếu ở TP. Hồ Chí
Minh với 1.400 DN, Hà Nội và vùng phụ cận 300 DN. Toàn ngành hiện có
năng lực sản xuất khoảng 10.000 tấn xơ bông, đáp ứng khoảng 5% nhu cầu;
50 ngàn tấn xơ sợi tổng hợp, đáp ứng 30% nhu cầu; 260 ngàn tấn xơ sợi ngắn
đáp ứng 60% nhu cầu. Về dệt, sản xuất được 150 ngàn tấn vải dệt kim đáp
ứng 60% nhu cầu; vải dệt thoi 680 triệu m2, đáp ứng 60% nhu cầu.
Trong các thị trường xuất khẩu của dệt may Việt Nam, đứng đầu là thị
trường Mỹ với kim ngạch hơn 3 tỷ USD chiếm 55% thị phần, EU đứng thứ 2
với 1,2 tỷ USD chiếm 20% thị phần, tiếp theo là các thị trường Nhật Bản,
ASEAN, Canada và Nga Hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng
may mặc chiếm trên 90%, còn lại là hàng vải và bông sợi.
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
6
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
Tiêu thụ nội địa tuy chưa có số liệu chính thức nhưng ước tính tiêu thụ
nội địa hiện chiếm 7% tổng mức bán lẻ cả nước. Năm 2006, ước tính mức bán

lẻ dệt may trên thị trường nội địa đạt 28.800 tỷ đồng tương đương khoảng 1,8
tỷ USD.
Đặc biệt, tính đến tháng 8 năm 2007 lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu
dệt may đã vượt qua dầu khí để chiếm lĩnh vị trí số một về giá trị xuất khẩu
đạt; 5,1 tỷ USD tăng 30% so với cùng kỳ năm trước. Và tới ngày 11/10/2007
Việt Nam chính thức lọt vào top 10 quốc gia và vùng lãnh thổ có kim ngạch
xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Kết thúc năm 2007, kim ngạch xuất khẩu
của ngành ước tính khoảng 7.5 tỷ USD.
Cứ với tốc độ này thì mục tiêu đạt 10-12 tỷ USD giá trị xuất khẩu của
toàn ngành vào năm 2010 của toàn ngành sẽ hoàn thành trước kế hoạch.
Như vậy mặc dù phải đối mặt với một loạt các khó khăn như: phải chịu
áp lực cạnh tranh ngay sau khi là thành viên chính thức của WTO; hệ thống
phân phối lạc hậu; nguyên phụ liệu hầu hết phải nhập khẩu; lạc hậu về thiết bị
công nghệ; yếu kém trong thiết kế mẫu; … nhưng ngành Dệt may đã tận dụng
được các cơ hội do hội nhập mang lại để tiếp tục khẳng định vai trò và vị trí
của mình - ngành xuất khẩu chủ lực, mang lại nguồn ngoại tệ quí giá về cho
quốc gia; đóng góp lớn vào sự phát triển chung của đất nước.
 Giải quyết việc làm cho nhiều lao động.
Có lẽ chẳng một ngành công nghiệp nào có một lực lượng lao động
đông đảo và nhiều lao động nữ như ngành Dệt may. Không chỉ ở Việt Nam
mà đây là một đặc điểm chung của tất cả những nước có nền công nghiệp Dệt
may lớn. Chính đặc điểm này mà vai trò của Dệt may lại càng trở nên quan
trọng. Theo thống kê chỉ trong 4 năm từ 2001 đến 2005, số lao động mà ngành
thu dụng đã lên tới 500,000 người, đưa số lao động toàn ngành năm 2005 lên
khoảng 2 triệu lao động. Và theo con số thống kê mới nhất năm 2007, số lao
động làm việc trong ngành đã lên tới gần 3 triệu người. Đặc biệt trong xu thế
vốn đầu tư đang đổ vào ngành này như hiện nay thì dự đoán số lao động sẽ
làm việc trong ngành Dệt may vào năm 2010 sẽ lên tới con số 4 triệu lao
động. Đây quả thực là một con số mà chúng ta cần quan tâm. Bởi với số lao
động nhiều như vậy thì ngành cũng cần phải có những chính sách lao động

phù hợp đảm bảo đời sống và sinh hoạt của người lao động. Chỉ khi người lao
động cảm giác được sự đảm bảo này, họ mới yên tâm lao động và chỉ có như
vậy ngành Dệt may của chúng ta mới có thể thực hiện được những định hướng
phát triển của mình, góp phần xứng đáng vào sự phát triển của đất nước.
1.3.2.2 Đặc điểm nguyên phụ liệu của ngành Dệt may Việt Nam_hầu hết
là nhập khẩu.
Có thể thấy lâu nay, ngành dệt may đang "đi trên đôi chân của người
khác". Bởi lẽ, 95% nhu cầu xơ bông, 70% nhu cầu sợi tổng hợp, 40% nhu cầu
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
7
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
sợi xơ ngắn, 40% nhu cầu vài dệt kim và 60% nhu cầu vải dệt thoi cho cả một
ngành công nghiệp hoàn toàn phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Theo thống kê, trong tháng 7, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt
may gồm bông, sợi, xơ đã tăng 32% so với cùng kỳ năm 2006, đạt trên 200
triệu USD. Tháng 6 đạt 250 triệu USD, tăng 42,9% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 7 tháng đầu năm, nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may đạt khoảng
1,3 tỉ USD, tăng khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2006.
Qua đó, có thể thấy rằng cả một ngành công nghiệp dệt may gần như
hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy để sản xuất ổn định, hầu như các
công ty ngành dệt may đều phải chấp nhận gia công cho đối tác nước ngoài,
dù lợi nhuận thấp. Bởi khi gia công, đối tác sẽ cung ứng kịp thời, đầy đủ
nguyên phụ liệu. Đây là một thực trạng đáng buồn với một ngành xuất khẩu
được coi là chủ lực. Vậy liệu chúng ta đã có những định hướng, giải pháp gì
cho vấn đề này và chúng ta liệu có đủ khả năng và tiềm lực để biến các định
hướng và giải pháp này thành hiện thực hay không? Câu hỏi này sẽ được phân
tích và làm rõ hơn ở những phần sau.
1.4 Xác định cầu và lượng đặt hàng.
1.4.1 Những vấn đề lý luận cần quan tâm.
Có thể khẳng định một điều rằng, vấn đề xác định nhu cầu và lượng đặt

hàng NVL đảm bảo hoạt động sản xuất trong kỳ kế hoạch được diễn ra một
cách bình thường là một vấn đề không đơn giản. Nó chịu ảnh hưởng của rất
nhiều nhân tố khác nhau như: kế hoạch sản xuất (tiêu thụ) sản phẩm (dịch vụ)
trên cơ sở cầu thị trường và các nhân tố khác; định mức tiêu dùng (bán hàng);
tình hình giá cả và các yếu tố cạnh tranh trên thị trường NVL (hàng hóa); tình
hình tài chính của doanh nghiệp… Trong thực tế, các doanh nghiệp có thể sử
dụng các tài liệu dưới đây để xác định cầu về NVL cho thời kỳ kế hoạch:
1. Các báo cáo về tình hình thị trường có chú ý đến việc đánh giá khả
năng phấy triển kinh tế trong kỳ kế hoạch.
2. Các thống kê của các cơ quan thống kê, các phân tích và dự báo thị
trường của các cơ quan nghiên cứu, các số liệu thu thập dược từ các hội chợ
triển lãm…
3. Thống kê về tiêu thụ sản phẩm ở các thời kỳ trước đó và các nhân tố
ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ sản phẩm trong kỳ kế hoạch.
4. Các định mức tiêu hao nguyên vật liệu hoặc phân tích số liệu tiêu hao
NVL của các thời kỳ trước đó.
5. Thẻ (sổ) kho theo dõi NVL theo từng nhóm loại cụ thể để biết được
các thông tin về lưu kho mỗi loại.
6. Thẻ (sổ) theo dõi lượng đặt hàng từ nhiều người cấp hàng khác nhau
vào các thời điểm khác nhau…
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
8
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
Đồng thời, việc xác định cầu về NVL trong từng thời kỳ còn là kết quả
của sự thỏa hiệp giữa nhiều bộ phận quản trị khác nhau trong doanh nghiệp:
1. Bộ phận tiêu thụ mong muốn có dự trữ thành phẩm nhiều nhằm luôn
luôn thỏa mãn các yêu cầu của khách hàng trong mọi tình huống.
2. Các bộ phận sản xuất muốn có dự trữ NVL, sản phẩm dở dang cũng
như bán thành phẩm nhiều nhằm đảm bảo có quá trình sản xuất diễn ra liên
tục.

3. Bộ phận tài chính muốn giảm thiểu dự trữ.
4. Bộ phận quản trị chung không muốn có dự trữ lớn vì như thế không
đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Dựa trên cơ sở phân tích và dự báo các nhân tố ảnh hưởng đến cầu NVL
cũng như sự thỏa hiệp của các bộ phận mà chúng ta có thể xác định được nhu
cầu về NVL. Tuy nhiên để giải quyết được vấn đề này và xác định được một
cách chính xác nhu cầu về NVL và lượng đặt hàng lại là một điều không hề
đơn giản. Để có thể làm tốt công tác này cần phải có những cán bộ phụ trách
vấn đề NVL giỏi, có khả năng giải quyết hài hòa yêu cầu của các bộ phận. Về
cơ bản việc xác định cầu về NVL bao gồm các nội dung cụ thể là: Xác định số
lượng NVL cần thiết cho thời kỳ kế hoạch và thời điểm đặt hàng; xác định
người cung ứng cũng như giá cả nguyên vật liệu trong từng thời điểm mua
sắm. Tuy nhiên, trong phần này chúng ta chỉ đi sâu vào nghiên cứu việc xác
định số lượng NVL (hàng hóa) cần thiết cho một thời kỳ kế hoạch, cũng như
từng thời điểm mua sắm với số lượng mua sắm cụ thể.
Nguyên tắc chung về cầu NVL của một thời kỳ không được đáp ứng
một lần mà được chia nhỏ và cung ứng làm nhiều lần khác nhau.
Một điều cần chú ý nữa là việc mua sắm với số lượng nào tùy thuộc vào
nhiều nhân tố như tình hình biến động của thị trường cung ứng, dự báo thay
đổi giá cả trên thị trường, khả năng tài chính của doanh nghiệp, khả năng kho
tàng cũng như chi phí kinh doanh lưu kho, nhịp độ sản xuất (bán hàng)…
Với mỗi loại NVL (hàng hóa) cầu mua sắm trong thời kỳ kế hoạch
thường bao gồm 2 bộ phận: cầu NVL (hàng hóa) cho sản xuất (tiêu thụ) và
cầu dự trữ có tính chất đầu cơ.
Bộ phận thứ nhất thường chiếm tỉ trọng chủ yếu được xác định theo
công thức:
Q
D
i
= ΣQ

ĐM
ij
xQ
SP
Với :
Q
Đ
i
– Cầu loại nguyên vật liệu (hàng hóa) thứ i trong kì kế hoạch.
Q
ĐM
ij
– Định mức tiêu dùng loại nguyên vật liệu i để sản xuất sản phẩm
thứ j.
Q
SP
j
- Sản lượng kế hoạch sản phẩm j sẽ được sản xuất trong kì kế
hoạch.
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
9
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
Bộ phận dự trữ đầu cơ cho từng loại NVL (hàng hóa) hoàn toàn phụ
thuộc vào tính chất của loại NVL (hàng hóa) sẽ dự trữ, các kết quả dự báo
thay đổi cung ứng cũng như giá cả của thị trường NVL (hàng hóa); lãi suất
tiền gửi; khả năng tài chính của doanh nghiệp; năng lực kho tàng và chi phí
liên quan đến mở rộng kho tàng…
1.4.2 Ảnh hưởng của việc xác định dự báo cầu không chính xác tới hoạt
động SX - KD của ngành Dệt may.
Là một ngành sản xuất mũi nhọn, ngành xuất khẩu chủ lực và hiện đang

giữ vị trí số một về giá trị xuất khẩu, nên vấn đề dự báo về nhu cầu nguyên
phụ liệu cho toàn ngành, cũng như cho từng đơn vị doanh nghiệp là một vấn
đề hết sức cần thiết và quan trọng. Việc dự báo này càng quan trọng hơn khi
có tới 70% nguyên phụ liệu của toàn ngành phải nhập khẩu từ nước khác.
Hơn thế nữa, nguồn nhập chính về nguyên phụ liệu của ngành lại hầu
hết phụ thuộc vào một số nước là đối thủ cạnh tranh chính và trực tiếp của
nước ta trên thị trường dệt may thế giới. Chính vì các đặc điểm đó mà việc dự
báo không chính xác nhu cầu nguyên phụ liệu sẽ gây ảnh hưởng và xáo trộn
rất lớn tới hoạt động sản xuất của từng doanh nghiệp cũng như kế hoạch xuất
khẩu chung của toàn ngành. Như vậy, để có thể chủ động hơn trong kế họach
sản xuất cũng như xuất khẩu chúng ta cần phải có những dự báo chính xác, từ
đó có những kế hoạch nhập khẩu đáp ứng nhu cầu đó một cách tốt nhất.
1.5 Xác định người cung ứng cho ngành Dệt may.
1.5.1 Sự cần thiết.
Việc xác định người cung ứng NVL trong hoạt động sản xuất kinh
doanh là một điều cần thiết vì nó liên quan đến chất lượng, thời gian, chi phí
kinh doanh mua sắm và vận chuyển Điều này càng quan trọng hơn đối với
ngành Dệt may khi mà hầu hết nguồn nguyên phụ liệu của chúng ta phải nhập
khẩu từ nước ngoài, hơn nữa người cung ứng cũng chính là những đối thủ trực
tiếp của nước ta trên thị trường Dệt may thế giới. Do tầm quan trọng cao của
nó đòi hỏi chúng ta phải có những định hướng chung để đảm bảo lợi thế cạnh
tranh của ngành Dệt may Việt Nam trong bước đường hội nhập.
1.5.2 Quan điểm và nhân tố ảnh hưởng.
Trong quan điểm chung về lý thuyết khi lựa chọn nhà cung ứng nguyên
vật liệu cho từng doanh nghiệp đơn lẻ, chúng ta cần phải tiến hành đánh giá và
lựa chọn người cung cấp một cách thận trọng. Sau khi lựa chọn được nhà cung
ứng thì chúng ta cố gắng thiết lập mối quan hệ bền chặt bằng các giải pháp
thích hợp, tiến hành marketting với người cung cấp nhằm làm cho họ thường
xuyên cung cấp hàng hóa cho mình với độ tin cậy cao, chất lượng đảm bảo và
giá thành hợp lý. Còn ở góc độ lựa chọn người cung ứng cho cả một ngành

công nghiệp của một đất nước quan điểm đó sẽ như thế nào?
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
10
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
Để trả lời câu hỏi này chúng ta phải xét những nhân tố ảnh hưởng tới
việc lựa chọn nguồn cung ứng vật liệu cho ngành Dệt may Việt Nam: thứ
nhất, hầu hết nguyên phụ liệu cung cấp cho ngành phải nhập khẩu từ nước
ngoài; thứ hai, chất lượng nguồn nguyên phụ liệu tại mỗi nước cung ứng là
khác nhau; thứ ba, khoảng cách từ các nước cung cấp tới nước ta khác nhau do
đó chi phí vận chuyển nguyên phụ liệu về nước là khác nhau; thứ tư, giá bán
của mỗi nước là khác nhau; thứ năm, mỗi nước cung cấp có các chính sách
xuất khẩu nguyên phụ liệu khác nhau; ngoài ra nó còn liên quan tới một số các
yếu tố khác như tính thuận tiện của quá trình phát triển, liên quan đến biểu
thuế nhập khẩu của nước ta với nước xuất khẩu nguyên phụ liệu, rồi vấn đề
chính trị
Dựa trên các yếu tố đó, quan điểm chung của ngành là đa dạng hóa
nguồn cung ứng, tránh phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung của một số nước
là đối thủ trực tiếp của dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới.
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
11
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
Phần 2: Thực trạng.
2.1 Thực trạng của ngành Dệt may Việt Nam.
2.1.1 Những nét khái quát.
Ngành Dệt - May VN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Ngành cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho xã hội, giải quyết việc làm cho
một lực lượng lớn lao động, đồng thời đã mang lại nguồn ngoại tệ lớn từ xuất
khẩu và đóng góp một nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Giá trị sản xuất
công nghiệp của Ngành chiếm bình quân trên 9% toàn ngành công nghiệp,
kim ngạch xuất khẩu chiếm 14,6% so với tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước

và đã tạo việc làm cho gần một triệu lao động công nghiệp.
Đặc biệt hơn khi vừa qua (11-10-2007), giá trị xuất khẩu của ngành Dệt
- May lần đầu tiên vượt qua dầu thô, để đứng đầu trong danh mục các mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của VN, với kim ngạch đạt trên 5.8 tỉ USD trong 9
tháng qua, tăng 31% so với cùng kỳ năm ngoái. Và Việt Nam đã lọt vào top
10 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Có thể nói đây
là một tin rất đáng mừng đối với ngành Dệt may VN và nó thể hiện chủ trương
đúng đắn của Đảng và Nhà nước khi tích cực đưa đất nước hội nhập đầy đủ
hơn với nền kinh tế thế giới.
Cứ với đà tăng trưởng này thì mục tiêu đạt giá trị xuất khẩu của ngành
Dệt may đạt 10 - 12 tỉ USD vào năm 2010 của ngành Dệt may hoàn toàn có
thể thực hiện được.
Thành tích này của ngành Dệt may thực sự là một tấm gương để các
ngành khác kính nể và học tập. Bởi trong thực tế, ngành Dệt may là ngành
phải đối mặt với nhiều thách thức nhất khi VN chính thức trở thành thành viên
chính thức của tổ chức Thương mại Thế giới. Vì theo cam kết, chúng ta phải
cắt giảm thuế nhập khẩu đối với hàng Dệt may ngay khi chúng ta trở thành
thành viên chính thức của WTO. Cụ thể: nhóm hàng xơ, sợi giảm thuế nhập
khẩu từ 20% xuống còn 5%, nhóm hàng vải giảm từ 40% xuống còn 12%;
quần áo, đồ may sẵn phải giảm từ 50% xuống 20%.
Trong khi các ngành khác đều có lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo
lộ trình thì ngành Dệt may lại phải chấp nhận cuộc cạnh tranh khốc liệt ngay
lập tức trên sân nhà mà không có thời gian chuẩn bị. Mặc dù việc cắt giảm này
được coi là để đánh đổi việc bãi bỏ quota, tức là mở ra cơ hội thị trường lớn
đặc biệt là Mỹ cho ngành Dệt may, điều mà những ngành được ân hạn lộ trình
khác không có.
Tuy nhiên, ngay khi được bãi bỏ quota ở thị trường Mỹ thì Dệt may VN
lại bị một cơ chế giám sát đặc biệt khi vào thị trường này, điều này đã buộc
chúng ta phải kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường
này để tránh bị áp thuế cao.

Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
12
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
Ngoài ra, năng suất lao động của nhiều doanh nghiệp vẫn còn thấp hơn
30% - 50% so với mức bình quân của doanh nghiệp các nước trong khu vực,
90% số doanh nghiệp trong ngành dệt may vẫn còn xa lạ với ba chữ ERP (hệ
thống quản lý tích hợp nguồn lực)
Khó khăn không chỉ dừng lại ở đó, chúng ta còn đang phải đối mặt với
hàng loạt vụ kiện chống bán phá giá có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Ngoài ra,
còn một điều đáng chú ý đó là ngành dệt may Trung Quốc đang đi vào chiến
lược nâng cao đẳng cấp chất lượng, hơn thế Trung Quốc lại sắp được “cởi
trói” hạn ngạch vào đầu năm 2008 tại châu Âu và đầu năm 2009 tại Mỹ.
Pakistan, Ấn Độ, Bangladesh, Sri Lanka và Campuchia cũng đang tăng tốc với
tham vọng nhân đôi kim ngạch xuất khẩu trong 4 năm 2006 - 2010.
Với những khó khăn nêu trên, ngành Dệt may đã và đang bước vào một
cuộc cạnh tranh thực sự cả trên thị trường trong nước và quốc tế. Vậy chúng ta
có những định hướng gì, những cơ hội nào mà ngành đang có và những thách
thức nào mà ngành đang thực sự phải đối mặt, những giải pháp được đưa ra
liệu có thể giúp ngành vượt qua được các thách thức đó không, chúng ta sẽ
tiếp tục xem xét một cách chi tiết hơn ở các phần sau.
2.1.2 Những vấn đề cần quan tâm
2.1.2.1 Hầu hết nguyên phụ liệu phải nhập khẩu.
Qua những phần trình bày trên ta cũng có thể thấy nguyên phụ liệu
chính là một khâu yếu của ngành Dệt may Việt Nam. Trong khi hầu hết nguồn
nguyên phụ liệu đáp ứng cho ngành phụ thuộc vào nước ngoài (70%) thì
chúng ta cũng không tạo ra được một kênh phân phối, thu mua thuận tiện và
có lợi cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may trong nước. Hầu hết các
doanh nghiệp đều phải tự tìm đối tác, tự tìm nguồn cung ứng theo kiểu làm ăn
lâu ngày sẽ thành quen. Đây là lối làm việc hết sức không hiệu quả và bấp
bênh. Thực tế đã cho thấy, vì không chủ động được nguồn nguyên phụ liệu, đã

có rất nhiều doanh nghiệp sản xuất cầm chừng hoặc phải dừng sản xuất để chờ
nguyên phụ liệu.
Để giải quyết vấn đề này, ý tưởng hình thành các Trung tâm nguyên
phụ liệu cho ngành Dệt may đã được triển khai. Một tin vui đối với các doanh
nghiệp trong ngành Dệt may khi tháng 5-2007 dự án đầu tiên đã được thực
hiện, hi vọng với hướng đi này cùng với những chiến lược chủ động nội địa
hóa nguồn nguyên phụ liệu trong nước chúng ta sẽ không phải chứng kiến
cảnh các doanh nghiệp phải tự mò mẫm tìm đối tác cung ứng và việc phải
ngừng sản xuất giữa chừng do thiếu nguyên phụ liệu nữa.
2.1.2.2 Chưa có thương hiệu thực sự nổi tiếng trong khu vực và quốc tế.
Không có thương hiệu, hay thương hiệu không mạnh đó chính là hậu
quả của một ngành công nghiệp gia công. Phải chăng thực lực của ngành Dệt
may là không có? Sản phẩm dệt may Việt Nam là không có chất lượng? Hoàn
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
13
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
toàn không chính xác. Chúng ta đã ì ạch đi trên con đường gia công thuê cho
nước ngoài quá lâu, để rồi cái giá trị, cái lợi ích và rồi cả thương hiệu chúng ta
mang về cho đất nước là quá ít ỏi và nhỏ bé. Bước đi chung của các nước, của
các ngành công nghiệp khi mới tham gia vào thị trường thế giới đều là gia
công. Tuy nhiên, ngay sau đó nước đó, ngành công nghiệp đó phải đi bằng
chính đôi chân của mình. Với Dệt may Việt Nam thì lại không hoàn toàn như
vậy. Chúng ta đã đi quá lâu trên đôi chân của người khác, cho đến khi chúng
ta cảm nhận rằng việc đó là không thể nữa. Bởi ngay khi là thành viên chính
thức của WTO chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh ngay lập tức. Vậy thì với
một cái thương hiệu không “to” liệu chúng ta có đủ sức cạnh tranh với các nền
Dệt may khác hay không.
Tuy nhiên, nói như vậy không phải là Dệt may Việt Nam hoàn toàn
không có những thương hiệu mạnh, chúng ta vẫn có những doanh nghiệp có
khả năng cạnh tranh tốt như: Việt Tiến, May 10, May nhà bè, Phương Đông,

Thái Tuấn, Tuy nhiên, số lượng các thương hiệu này là quá ít ỏi. Điều chúng
ta cần làm bây giờ, chính là gây dựng được một thương hiệu thực sự mạnh, đủ
sức cạnh tranh cho Dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới cũng như ở thị
trường nội địa. Hi vọng rằng, với những cố gắng của Chính phủ và của các
doanh nghiệp, chẳng bao lâu nữa Dệt may Việt Nam sẽ thực sự là một thương
hiệu được nhắc đến khi người tiêu dùng trên thế giới có nhu cầu về hàng may
mặc, cũng như các sản phẩm khác của ngành dệt may.
2.1.2.3 Thiết kế vải và quần áo còn rất yếu.
Không có sự sáng tạo, mẫu mã đơn giản và nghèo nàn đó là những nhận
định chung về khâu thiết kế của Dệt may Việt Nam. Có thể nói rằng, khâu
thiết kế, tạo mẫu là một trong những khâu tạo ra nhiều giá trị nhất cho sản
phẩm của ngành Dệt may. Tuy nhiên, Dệt may Việt Nam vẫn còn yếu trong
khâu này. Điểm yếu này xuất phát ngay từ cách suy nghĩ nhìn nhận trước đây,
khi mà số lượng các trường đào tạo về thiết kế và tạo mẫu cũng không thực sự
nhiều và mạnh. Nói như vậy hoàn toàn không phải là chúng ta không có
những tiến bộ trong khía cạnh này. Trong những năm gần đây, đặc biệt khi
thời điểm gia nhập WTO càng gần chúng ta đã chú trọng và quan tâm hơn tới
vấn đề thiết kế vải, quần áo. Và thực sự chúng ta đã đạt được những thành
công nhất định ở khía cạnh này. Tuy nhiên, thành công đó mới chỉ dừng lại ở
một số các doanh nghiệp lớn và một số nhà thiết kế tạo mẫu như: Thái Tuấn,
Phương Đông, Nhà Bè, Còn lại hầu hết chúng ta vẫn phải nhập khẩu mẫu
mã, cũng như thiết kế của nước ngoài. Để có thể tạo ra nhiều giá trị gia tăng
hơn cho đất nước, cũng như cho doanh nghiệp, nhà nước nên có những chính
sách hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển hoạt động thiết kế, đồng thời các
doanh nghiệp cũng cần đổi mới tư duy, coi hoạt động thiết kế tạo mẫu chính là
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
14
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
hoạt động tạo ra lợi nhuận cho chính doanh nghiệp mình để từ đó có những
chính sách định hướng đầu tư thích hợp.

2.1.2.4 Khả năng cạnh tranh kém.
Từ những thực trạng đã nêu, thì việc khẳng định khả năng cạnh tranh
của Dệt may là yếu không có gì là bất ngờ. Tuy nhiên, những nhận định chúng
ta nêu ra không chỉ đơn thuần dừng lại ở những nhận định đánh giá mà cần
phải chỉ ra được những nguyên nhân, tiến bộ, thành tích cũng như hướng phát
triển của ngành. Có thể nói rằng, trong suốt quá trình phát triển của mình,
ngành Dệt may luôn đạt được những thành tựu, đặc biệt là trong xuất khẩu -
khi mà giá trị xuất khẩu liên tục tăng với tốc độ phát triển cao, luôn ở trong
tốp dẫn đầu (thứ 2 chỉ sau dầu thô) về giá trị xuất khẩu trong nhiều năm. Đặc
biệt trong năm vừa qua ngành đã vươn lên dẫn đầu về giá trị xuất khẩu khi đạt
giá trị xuất khẩu tới 7.8 tỉ USD. Nhưng về tổng thể ngành Dệt may của chúng
ta vẫn là một ngành công nghiệp gia công thuê, nguyên phụ liệu phụ thuộc quá
nhiều vào nước ngoài (tới 70% năm 2007), giá trị gia tăng thấp. Với những
định hướng chung của Chính phủ nhằm gia tăng cả về số lượng cũng như chất
lượng giá trị xuất khẩu như: tăng tính chủ động trong khâu cung ứng nguyên
phụ liệu; chú trọng tới việc xây dựng thương hiệu, thiết kế mẫu mã; đặc biệt là
trong công tác định hướng, quy hoạch. Cộng với sự thay đổi và chủ động của
các doanh nghiệp trong nhận thức. Chúng ta tin tưởng ngành Dệt may Việt
Nam sẽ đủ sức cạnh tranh và thậm chí sẽ đạt được những thành công rất lớn
trong sân chơi WTO, để Dệt may Việt Nam không chỉ trở thành ngành có kim
ngạch xuất khẩu lớn nhất của cả nước mà thực sự góp phần đóng góp nhiều
hơn nữa vào mọi mặt của đời sống xã hội của đất nước.
2.1.2.5 Đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật còn thiếu và yếu ở những khâu
then chốt.
Hiện nay, lợi thế của ngành Dệt may Việt Nam là nguồn lao động dồi
dào, đào tạo nhanh và giá cả lao động cạnh tranh. Tuy nhiên, cũng phải thấy
rằng, với tốc độ quản lí công nghiệp và đầu tư nước ngoài hiện nay và xu thế
trong thời gian tới, thì sự tranh chấp, thiếu hụt lao động tại các thành phố như
TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Đà Nẵng,… đang xảy ra
và sẽ ngày càng căng thẳng mối quan hệ giữa lao động với sử dụng lao động.

Việc tranh chấp lao động ở các khu công nghiệp, đặc biệt là lao động tập trung
có nhiều đầu tư nước ngoài, đang đặt ra nhiều vấn đề cần được nhìn nhận một
cách nghiêm túc và giải quyết tích cực. Đó là đời sống của người lao động
trong các khu vực này còn quá thấp, từ thu nhập đến bữa ăn công nghiệp và
chỗ ở cho công nhân mà phần lớn lao động là nhập cư, cần phải được cải thiện
hơn và nhanh hơn. Đó là việc xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa người lao
động và người sử dụng lao động chưa được các bên quan tâm đúng mức.
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
15
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
Hơn thế nữa, một vấn đề nan giải nữa đang đặt ra đó là việc chúng ta
đang dư thừa lao động phổ thông, trong khi lại thiết trầm trọng đội ngũ cán bộ
quản lý và kỹ thuật cao cấp. Điều này cũng là một vấn đề nan giải mà chúng ta
không thể giải quyết trong một sớm một chiều được. Bởi để có được đội ngũ
cán bộ này đòi hỏi phải mất từ 2 - 4 năm đào tạo tại trường, sau đó là thời gian
tích lũy kinh nghiệm thực tế cũng mất khoảng từ 1 - 2 năm. Để trong những
năm sau chúng ta không gặp phải chuyện tương tự thì ngay từ bây giờ chúng
ta cần phải có một chính sách và những việc làm cụ thể.
2.2 Thực trạng nguyên phụ liệu ngành Dệt may.
2.2.1 Việc xác định, dự báo nhu cầu cho toàn ngành còn yếu, chưa chính
xác.
Công tác dự báo là một trong những công việc quan trọng trong quá
trình phát triển trong bất cứ một doanh nghiệp, một ngành công nghiệp nào.
Tuy nhiên, vấn đề này lại chưa thực sự có hiệu quả và tác dụng trong quá trình
phát triển của ngành Dệt may. Thông thường, công tác dự báo chung của
ngành bao gồm các dự báo về tốc độ tăng trưởng của các thị trường, dự báo
nhu cầu nguyên vật liệu, về những khó khăn thách thức trong từng năm, từng
thời kỳ và của từng nước. Việc dự báo chính xác các yếu tố này sẽ giúp cho
toàn ngành nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng có thể chủ động trong
kế hoạch sản xuất kinh doanh, nắm bắt các cơ hội hoặc hạn chế các nguy cơ.

Với những yếu kém, tồn tại, đòi hỏi trong thời gian tới chúng ta có những
chấn chỉnh trong công tác này để góp phần đắc lực hơn cho sự phát triển của
ngành.
2.2.2 Hầu hết nguyên phụ liệu phải nhập khẩu.
Ở những phần trên chúng ta đã có những nhận định chung về thực trạng
của vấn đề nguyên phụ liệu trong ngành Dệt may. Ở đây chúng ta sẽ phân tích
sâu hơn về cơ cấu mất cân đối, cũng như các số liệu cụ thể của từng mặt hàng
chúng ta phải nhập khẩu, cụ thể như sau:
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2006 Việt Nam nhập khẩu
gần 5 tỉ đô la Mỹ vải, sợi, bông và các loại phụ liệu khác, gấp đôi so với 5
năm trước đó. Trong khi nhập khẩu phụ liệu bắt đầu có chiều hướng giảm nhờ
sản xuất trong nước phát triển thì sự lệ thuộc vào nguồn cung cấp vải ở nước
ngoài lại đang tăng lên, đạt xấp xỉ 3 tỉ đô la Mỹ vào năm ngoái, gấp 3,5 lần
mức nhập khẩu của năm 2001.
Sự phát triển mất cân đối giữa ngành dệt, kéo sợi với ngành may, cộng
với tình trạng lệ thuộc gần như 100% vào nguồn bông, xơ, hóa chất và máy
móc thiết bị của nước ngoài, đã khiến Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ
hấp dẫn đối với các nhà cung cấp nguyên phụ liệu, máy móc thiết bị, đồng
thời cũng là cơ hội cho các công ty nước ngoài muốn đầu tư xây dựng cơ sở
sản xuất.
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
16
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
Như vậy, mặc dù đã có những tiến bộ trong việc giảm nguyên phụ liệu
trong ngành Dệt may, tuy nhiên thực tế lại đang diễn ra một cách không mong
muốn khi mà tình trạng mất cân đối trong cơ cấu các nguyên phụ liệu nhập
khẩu đang tăng lên. Đây cũng có thể là cơ hội để chúng ta thu hút đầu tư nước
ngoài, nhưng qua đây chúng ta cũng có thể thấy trong công tác dự báo, định
hướng và điều hành của chính phủ cần chính xác hơn nữa.
Năm 2006, ngành dệt Việt Nam chỉ sản xuất được gần 600 triệu mét

vuông vải, trong khi tổng nhu cầu vải nội địa và sản xuất hàng may xuất khẩu
lên đến 2,3 tỉ mét vuông. Để thu hẹp dần khoảng cách cung - cầu, Bộ Công
nghiệp đang tiến hành điều chỉnh quy hoạch và tìm kiếm giải pháp huy động
vốn nhằm tăng tốc độ đầu tư phát triển ngành dệt trong những năm sắp tới.
Bộ Công nghiệp dự báo, tổng nhu cầu đầu tư cho ngành dệt, may Việt
Nam trong bốn năm (2007, 2008, 2009, 2010) khoảng 3 tỉ đô la Mỹ một năm.
Riêng sợi, dệt, nhuộm chiếm đến 76%. Một trong những đầu tàu phát triển của
ngành là tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex). Ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch
Hội đồng Quản trị Vinatex, cho biết Vinatex sẽ triển khai 15 dự án lớn, với
tổng vốn khoảng 16.000 tỉ đồng (khoảng 1 tỉ đô la Mỹ) nhằm thực hiện mục
tiêu sản xuất 1 tỉ mét vuông vải vào năm 2010, trong đó một nửa để sản xuất
hàng xuất khẩu. Đồng thời, để đảm bảo thực hiện được mục tiêu phát triển,
Vinatex sẽ đẩy mạnh việc cổ phần hóa để tạo kênh huy động vốn thông qua thị
trường chứng khoán và thu hút nhiều nhà đầu tư bên ngoài.
Bên cạnh đó, việc Việt Nam gia nhập WTO cũng mở ra cơ hội cho
ngành sản xuất vải và nguyên phụ liệu may thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài.
Sau khi Chính phủ Trung Quốc đưa ra một loạt biện pháp nhằm hạn chế, chọn
lọc đầu tư của các công ty nước ngoài, nhiều nhà đầu tư Nhật Bản, Hàn
Quốc không còn muốn đầu tư vào Trung Quốc nữa. Riêng trong ngành dệt,
may, ông Lê Quốc Ân dự báo, nếu Việt Nam giải tỏa được mối lo về khả năng
bị phía Mỹ điều tra và áp đặt các biện pháp chống bán phá giá, đầu tư nước
ngoài đổ vào ngành này sẽ tăng nhanh.
Từ cuối năm ngoái đến nay, số lượng công ty dệt, may nước ngoài đến
Việt Nam thăm dò khả năng đầu tư đang tăng lên, và bước đầu đã có kết quả.
Công ty Pamatex Berhad của Malaysia đã quyết định xây dựng nhà máy sợi
và dệt trị giá 100 triệu đô la Mỹ ở tỉnh Quảng Nam. Còn tập đoàn Formosa thì
dự kiến chi thêm 400 triệu đô la Mỹ để mở rộng cơ sở sản xuất tại Đồng Nai.
Tuy nhiên, dù có thực hiện được các mục tiêu phát triển theo kế hoạch
của Bộ Công nghiệp, thì ngành dệt, may cũng chưa thể hy vọng giảm được sự
lệ thuộc vào vật tư, nguyên liệu và thiết bị từ bên ngoài, ít nhất là trong năm

năm tới. Càng xây dựng nhiều nhà máy dệt và in nhuộm, thì các doanh nghiệp
càng phải nhập khẩu nhiều máy móc. Đó là chưa kể nhu cầu phải thay thế hơn
một nửa số thiết bị đã tồn tại trên dưới 30 năm.
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
17
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
Trong hơn năm năm qua, hơn 2 tỉ đô la Mỹ đã được chi vào ngành dệt
may, trong đó hơn hai phần ba vào dệt, nhuộm, nhưng chỉ giúp năng lực sản
xuất vải và phụ liệu tăng khoảng 10%/năm. Nay với kế hoạch đầu tư 3 tỉ đô la
Mỹ cho giai đoạn 2007 - 2010, theo tính toán của Bộ Công nghiệp, chỉ đủ cho
lĩnh vực sản xuất này duy trì tốc độ tăng trưởng 12 - 14%/năm, trong khi
ngành may vẫn đang bứt đi với tốc độ trên 30%/ năm và có khả năng còn tăng
mạnh hơn trong vài năm tới. Điều đó có nghĩa là khoảng cách giữa cung và
cầu nguyên phụ liệu sẽ còn mở rộng.
2.2.3 Phụ thuộc quá nhiều vào nguyên phụ liệu của một số nước là đối thủ
cạnh tranh trực tiếp của ngành Dệt may Việt Nam.
Thực tế hiện nay, gần 70% nguyên phụ liệu cho ngành dệt may trong
nước là hàng nhập khẩu - chủ yếu từ Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc),
Hàn Quốc, Hồng Công, Nhật Bản. Chính việc phụ thuộc quá nhiều nguồn
nguyên phụ liệu vào một số nước, đặc biệt là các nước cạnh tranh cùng mặt
hàng dệt may với nước ta trên thị trường thế giới tạo ra một bất lợi lớn cho
nước ta. Để hạn chế điểm yếu này chúng ta cần phải: thứ nhất, giai đoạn trước
mắt tìm kiếm các nguồn cung cấp mới; thứ hai, chủ động, từng bước tự cung
ứng nguồn nguyên phụ liệu đầu vào trong dài hạn. Nếu làm tốt được hai việc
này chúng ta hoàn toàn có thể chủ động được nguồn nguyên phụ liệu cho
ngành Dệt may trong nước.
2.2.4 Công tác định hướng và quản lý còn yếu kém.
2.2.5 Công nghệ lạc hậu-tiêu tốn nhiều nguyên liệu.
Các khâu dệt, nhuộm và xử lý hoàn tất cơ bản vẫn còn đang áp dụng
công nghệ và máy móc cũ, lỗi thời. Ta mới có 10% máy móc thiết bị tiên tiến

của các nước Tây Âu và Nhật (đã sử dụng từ năm 2000); 11% là thiết bị qua
sử dụng từ 10 – 20 năm, trong đó có rất nhiều dây chuyền của Trung Quốc;
33% cũng qua sử dụng 10 – 20 năm nhưng chất lượng chỉ đạt mức trung bình;
46% còn lại là hệ thống máy móc đã qua sử dụng trên 20 năm với sự xuống
cấp nghiêm trọng. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến năng suất
và chất lượng sản phẩm chưa cao, giá thành cao, tốn kém trong khâu xử lý
nước thải và chống ô nhiễm. Đối với các thị trường lớn nhưng “khó tính” như
liên minh châu Âu (EU), Mỹ, Nhật Bản… dệt may Việt Nam còn phải đối mặt
nhiều với những quy định khắt khe về nhãn mác, an toàn sức khỏe của người
sử dụng, tiêu chuẩn thân thiện với môi trường… Để khắc phục những điểm
yếu này, Chính phủ cũng đã có những bước đi tích cực góp phần vào quá trình
hiện đại hóa công nghệ của ngành, với đà này sẽ chẳng bao lâu nữa chúng ta
sẽ thực sự có một ngành Dệt may mạnh với công nghệ tiên tiến và hiện đại.
2.2.6 Chất lượng của nguyên phụ liệu thấp.
Về nguồn nguyên phụ liệu đáp ứng cho ngành Dệt may bao gồm hai
nguồn chính. Một là, nguồn từ trong nước. Thứ hai, là nguồn nhập từ nước
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
18
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
ngoài. Tuy nhiên chất lượng của các nguồn này lại không đồng đều nhau.
Hiên tại, ngành dệt may VN chỉ có thể đáp ứng 30% nhu cầu nguyên phụ liệu
và điều này không có nghĩa là năng lực của ngành kém, không đủ sức sản
xuất. Về cơ bản, phụ liệu nội địa có thể đáp ứng đủ và nguyên liệu nội địa có
thể đáp ứng đến 70% nhu cầu sản xuất; nhưng do yêu cầu về thành phẩm của
đối tác nước ngoài cao, nguyên phụ liệu VN chưa đáp ứng được, tất cả phải
nhập từ nước ngoài. Đây chính là một trong những lý do khiến chúng ta phải
phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu của nước ngoài.
Nếu nói như vậy, thì phải chăng nguồn nguyên phụ liệu của nước ngoài
luôn đảm bảo chất lượng? Thực tế hoàn toàn không phải là như vậy, các
doanh nghiệp của chúng ta đã rất nhiều lần nhận phải những lô hàng mà chất

lượng của nó không như những gì mà bên cung ứng đã cam kết. Qua đây ta lại
càng thấy được vai trò quan trọng của việc hình thành các Trung tâm nguyên
phụ liệu cho ngành Dệt may. Đây sẽ là giải pháp tốt cho vấn đề nguyên phụ
liệu của ngành trong giai đoạn trước mắt mà còn có lợi ích lâu dài, đặc biệt
trong vấn đề đảm bảo chất lượng cho nguyên phụ liệu của ngành.
2.2.7 Chưa tập trung vào phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn lao
động cao cấp.
Trong các vấn đề liên quan tới lao động của ngành dệt may, việc đào
tạo cán bộ quản lý, quản trị DN cấp cao được coi là một khâu quan trọng.
Trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay, năng suất lao động cần được tạo ra từ
phương pháp quản trị kinh doanh, chứ không phải từ cách tăng cường độ lao
động. Chính đội ngũ quản trị này sẽ góp phần quan trọng làm tăng năng suất
cho ngành dệt may và giúp tăng thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên,
chúng ta lại chưa thực sự dành những quan tâm đặc biệt cho vấn đề này. Đây
cũng chính là một nguyên nhân dẫn tới những bất cập và yếu kém trong ngành
Dệt may Việt Nam.
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
19
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
Phần 3: Định hướng và giải pháp.
3.1 Định hướng.
3.1.1 Định hướng chung toàn ngành đến năm 2010.
Định hướng chung
a) Đối với ngành dệt, bao gồm: sản xuất nguyên liệu dệt, sợi, dệt, in
nhuộm hoàn tất:
- Kinh tế nhà nước làm nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo; khuyến khích các
thành phần kinh tế, kể cả đầu tư trực tiếp của nước ngoài tham gia phát triển
lĩnh vực này.
- Đầu tư phát triển phải gắn với bảo vệ môi trường; quy hoạch xây dựng
các cụm công nghiệp sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất ở xa các trung tâm đô thị lớn.

- Tập trung đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao, kỹ thuật tiên
tiến, trình độ chuyên môn hoá cao. Chú trọng công tác thiết kế các sản phẩm
dệt mới, nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín nhãn mác hàng dệt Việt
Nam trên thị trường quốc tế.
- Tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo
bước nhảy vọt về chất lượng, tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt, nhằm
đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
b) Đối với ngành may:
- Đẩy mạnh cổ phần hoá những doanh nghiệp may mà Nhà nước không
cần nắm giữ 100% vốn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát
triển ngành may, nhất là ở các vùng đông dân cư, nhiều lao động.
- Đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang, kiểu dáng sản phẩm may.
Tập trung đầu tư, cải tiến hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, áp
dụng các biện pháp tiết kiệm nhằm tăng nhanh năng suất lao động, giảm giá
thành sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm may Việt Nam trên
thị trường quốc tế.
c) Đẩy mạnh đầu tư phát triển các vùng trồng bông, dâu tằm, các loại
cây có xơ, tơ nhân tạo, các loại nguyên liệu, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm
cung cấp cho ngành dệt may nhằm tiến tới tự túc phần lớn nguyên liệu, vật
liệu và phụ liệu thay thế nhập khẩu.
d) Khuyến khích mọi hình thức đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài, để phát
triển cơ khí dệt may, tiến tới cung cấp phụ tùng, lắp ráp và chế tạo thiết bị dệt
may trong nước.
Các mục tiêu cụ thể
Mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2008 là 9,5 tỉ
USD, vượt lên trên xuất khẩu dầu thô (giá trị khoảng 9 tỉ USD) và tăng 21,8%
so với năm 2007.
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
20
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”

Trong đó, dự kiến các thị trường chính như Mỹ ước đạt khoảng 5,5 tỉ
USD, thị trường EU đạt khoảng 1,8 tỉ USD và thị trường Nhật đạt khoảng 800
triệu USD. Đây là mục tiêu mà đa số các doanh nghiệp dệt may trong nước
đều cho rằng có thể thực hiện được.
Hiện tại, Việt Nam đang đứng trong top 10 trong số 56 nước sản xuất,
xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Theo Thứ trưởng Bộ Công thương
Bùi Xuân Khu nhận định ngành dệt may Việt Nam đến sau năm 2010 sẽ đứng
trong top 5 nước sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới với giá trị
xuất khẩu ước đạt từ 10 - 12 tỉ USD.
Các mục tiêu khác đặt ra như số lao động làm việc trong ngành khoảng
4 triệu người; chủ động cung ứng được nguyên phụ liệu cho ngành, giảm phụ
thuộc vào nguồn nhập khẩu. Cụ thể, phần nguồn nguyên liệu bông trong nước
phấn đấu sản xuất đến năm 2010 là 80.000 tấn bông xơ, đáp ứng khoảng 75%
yêu cầu của các nhà máy kéo sợi. Cũng theo lộ trình của Ngành, trong đó
Vinatex là hạt nhân, năm 2010, toàn Ngành sẽ sản xuất 1 tỉ m
2
vải với tỉ lệ nội
địa hóa đạt 45%, trong đó sẽ xuất khẩu 500 triệu m
2
; năm 2015 sản xuất 1.5 tỉ
m
2
vải, trong đó xuất khẩu 1 tỉ m
2
; năm 2020 sản xuất 2 tỉ m
2
vải với tỉ lệ nội
địa hóa đạt 60%.
Với những định hướng và mục tiêu cụ thể nêu trên chúng ta tin tưởng
ngành Dệt may Việt Nam sẽ đủ sức vươn ra ngoài biển lớn trong cuộc chơi

WTO.
3.1.2 Định hướng phát triển chủ yếu ngành Dệt may của Chính phủ.
3.1.2.1 Chuyển từ hướng sản xuất gia công sang FBO để tăng giá trị gia
tăng.
Ngành Dệt may là ngành liên tục có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai
của cả nước chỉ sau dầu thô, trong năm 2007 vừa qua lần đầu tiên kim ngạch
xuất khẩu của ngành đã vượt qua dầu thô để vươn lên vị trí thứ nhất với giá trị
ước đạt 7.8 tỉ USD tăng 31% so với cung kỳ năm 2006. Đây cũng là ngành thu
hút nhiều lao động cho xã hội (năm 2007 số lao động làm trong ngành xấp xỉ
gần 3 triệu người). Nhưng hiệu quả kinh doanh chưa cao vì chúng ta phải làm
gia công. Bước vào hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta phải chấp nhận sự cạnh
tranh quyết liệt với các nước xung quanh. Muốn thắng trong cuộc cạnh tranh
này, thành phẩm của chúng ta làm ra phải tận dụng hết các tiềm năng sản xuất
của ngành. Chúng ta phải sản xuất được những sản phẩm đi từ khâu kéo sợi,
dệt vải đến sản phẩm cuối cùng là may để tăng giá trị gia tăng của sản phẩm.
Thứ hai là, phải đảm bảo chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động.
Huy động nội lực của mình và học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài, chúng ta
phải chuyển hướng từ sản xuất gia công sang FOB. Có như vậy, gia tăng của
sản phẩm mới được nâng cao, sản phẩm của chúng ta mới cạnh tranh được
trên thị trường quốc tế.
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
21
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
Bên cạnh đó, để hội nhập thành công, chỉ mình ngành Dệt may Việt
Nam thì chưa đủ mà cũng cần phải có sự hỗ trợ từ các chính sách lớn của Nhà
nước và các cơ quan hữu quan như thuế, hải quan… Với định hướng tốt, và sự
hỗ trợ tích cực của nhà nước và cơ quan hữu quan chúng ta tin tưởng vào khả
năng của Dệt may Việt Nam khi đi ra biển lớn.
3.1.2.2 Chủ động tự sản xuất, cung ứng về nguyên phụ liệu. Từng bước
đáp ứng nhu cầu về NVL trong nước.

Trong chiến lược phát triển ngành dệt may đến 2010 đã được Chính phủ
phê duyệt, mục tiêu phấn đấu của chúng ta đó là sẽ chủ động cung ứng được
khoảng 50 - 60% nguyên phụ liệu đáp ứng cho nhu cầu trong nước. Trong đó
phần nguồn nguyên liệu bông trong nước phấn đấu sản xuất đến năm 2010 là
80.000 tấn bông xơ, đáp ứng khoảng 75% yêu cầu của các nhà máy kéo sợi.
Cũng theo lộ trình của Ngành, trong đó Vinatex là hạt nhân, năm 2010, toàn
Ngành sẽ sản xuất 1 tỉ m
2
vải với tỉ lệ nội địa hóa đạt 45%, trong đó sẽ xuất
khẩu 500 triệu m
2
; năm 2015 sản xuất 1.5 tỉ m
2
vải, trong đó xuất khẩu 1 tỉ m
2
;
năm 2020 sản xuất 2 tỉ m
2
vải với tỉ lệ nội địa hóa đạt 60%.
Để thực hiện mục tiêu này, ngành sẽ tập trung ưu tiên phát triển sản
xuất một số mặt hàng chủ lực thông dụng, có yêu cầu số lượng cao ở các
doanh nghiệp may xuất khẩu như vải bông, bông pha để may áo, may quần,
vải dùng trong gia đình; Chọn khâu nhuộm, hoàn tất là khâu then chốt để thực
hiện chuyên môn hóa sản xuất và kinh doanh, nhằm nâng cao chất lượng,
đẳng cấp mặt hàng và hạ giá thành sản phẩm. Việc chuyên môn hóa và tái cơ
cấu ngành dệt nhuộm sẽ tập trung vào việc quy hoạch, xây dựng một số trung
tâm nhuộm hoàn tất đủ lớn về qui mô, cho phép nâng cao chất lượng, đẳng
cấp mặt hàng; Kiên quyết không đầu tư mở rộng, thu hẹp, tiến tới ngừng hoạt
động của các nhà máy nhuộm nhỏ công suất dưới 10 triệu m
2

/năm, sử dụng
thiết bị dưới 50% năng lực, hoạt động không hiệu quả; Chú trọng phát triển
các nhà máy dệt nhằm cung cấp vải mộc đảm bảo chất lượng cho xử lý nhuộm
và hoàn tất; Các nhà máy sẽ hoạt động theo hình thức công ty cổ phần hay hợp
tác kinh doanh.
3.2 Giải pháp phát triển nguồn nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may.
3.2.1 Cần làm tốt công tác định hướng phát triển cho ngành Dệt may nói
chung và vấn đề nguyên phụ liệu cho ngành nói riêng.
Trong tất cả các hoạt động của con người thì việc định hướng luôn là
một hoạt động quan trọng. Hoạt động này chính là việc xác định hướng đi
trong tương lai. Với kinh doanh, hoạt động này lại càng trở nên quan trọng và
cần thiết. Bởi thực tế đã có rất nhiều doanh nghiệp, rất nhiều ngành và thậm
chí có cả những nền kinh tế đã bị phá sản, bị khủng hoảng chỉ vì không có
chiến lược phát triển, hoặc có nhưng hướng đi không đúng đắn. Qua đây ta có
thể thấy rằng vai trò rất quan trọng của công tác định hướng. Vậy làm thế nào
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
22
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
để chúng ta có thể đưa ra được một định hướng phát triển đúng đắn chung cho
toàn ngành Dệt may, mà đặc biệt là vấn đề nguyên phụ liệu cho ngành Dệt
may, để Dệt may Việt Nam không chỉ là một ngành công nghiệp gia công lạc
hậu, mà thực sự trở thành một ngành công nghiệp mạnh, hiện đại và thực sự đi
bằng đôi chân của chính mình. Câu hỏi này là một vấn đề lớn đòi hỏi câu trả
lời chính xác của các cấp có liên quan trong chính phủ mà đặc biệt là của Hiệp
hội Dệt may Việt Nam.
3.2.2 Đào tạo phát triển nguồn nhân lực nói chung đặc biệt là đội ngũ lao
động quản lý, kỹ thuật và thiết kế cao cấp.
Trong hoạt động thu hút đầu tư, Việt Nam nổi lên như là một địa chỉ
hấp dẫn do rất nhiều yếu tố thuận lợi, trong đó có nhân tố lao động. Lao động
Việt Nam được coi là một thế mạnh: nguồn lao động dồi dào với những đức

tính cần cù, sáng tạo, đặc biệt là giá thuê nhân công lại rẻ. Tuy nhiên, trong
thực tế hiện nay những lợi thế này khiến chúng ta phải xem xét và đánh giá
lại. Liệu có phải những điều nêu trên đều là lợi thế và thực chất giá thuê lao
động ở Việt Nam có rẻ thật không nếu ta so sánh và tính chi phí phải bỏ ra để
trả cho yếu tố con người trên một đơn vị sản phẩm. Quả thực đây là một
nghịch lý. Vậy thì nguyên nhân tại đâu và làm thế nào để lao động Việt Nam
vẫn là một nhân tố tạo lợi thế cạnh tranh cho Việt Nam nói chung và toàn
ngành Dệt may nói riêng?
Mấu chốt của vấn đề nằm ở tay nghề và trình độ của người lao động
chưa đáp ứng được nhu cầu. Việc thiếu hụt này thể hiện ở hai khía cạnh. Thứ
nhất, lao động phổ thông thì thừa nhưng tay nghề chưa vững. Thứ hai, lao
động “cao cấp” như đội ngũ cán bộ quản lý, các chuyên viên kỹ thuật mà đặc
biệt là đội ngũ thiết kế, tạo mẫu vừa yếu lại vừa thiếu. Ngoài ra còn một bất
cập nữa đó là, với ngành may thì số lao động có thể đáp ứng đủ do bởi chỉ cần
khoảng 3 tháng là có thể đào tạo được một lao động phục vụ cho ngành. Tuy
nhiên với ngành dệt thì lại ngược lại. Bởi để đào tạo được một lao động giỏi
trong ngành dệt đòi hỏi mất rất nhiều thời gian và công sức. Trong khi đó, các
trường trong nước hiện tại mỗi năm chỉ đào tạo được khoảng từ 2000 - 3000
lao động cho ngành dệt, số còn lại đa số phải gửi đi nước ngoài để đào tạo.
Đây quả thực là một bài toán nan giải, nhưng không phải là không có cách giải
khi mà năng lực của toàn ngành hoàn toàn có và thừa khả năng để thực hiện
nó. Điều quan trọng chúng ta cần phải làm đó là thay đổi tư duy về lao động
giá rẻ, đồng thời có một kế hoạch chiến lược phát triển lao động đúng đắn, từ
đó mới đưa ra được những chính sách đào tạo phát triển được đội ngũ lao
động thực sự có tay nghề, chuyên môn gắn bó lâu dài với công việc của họ.
Để làm được việc này, trước tiên chúng ta phải xác định được nhu cầu thực sự
về lao động của ngành là bao nhiêu, nhu cầu thực tế ở từng cấp độ, từng lĩnh
vực là như thế nào. Từ đó mới có những chính sách liên kết đào tạo và phát
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
23

Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
triển nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu thực tế của từng doanh nghiệp và
của toàn ngành. Và với những định hướng và chính sách phát triển đúng đắn
về nguồn nhân lực hi vọng trong tương lai không xa đội ngũ này sẽ thực sự
đưa Việt Nam thành một cường quốc có tiếng về Dệt may.
3.2.3 Đổi mới công nghệ phù hợp, đảm bảo tính hiện đại, kinh tế và phù
hợp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giảm hao phí nguyên phụ liệu
đầu vào.
Như ở phần trước đã nêu, chúng ta có thể thấy thực trạng vấn đề công
nghệ của ngành Dệt may nước ta. Có lẽ đây cũng là một thực tế chung của
toàn nền kinh tế, tuy nhiên là một ngành mũi nhọn lại là một ngành xuất khẩu
chủ lực đòi hỏi phải có những quyết sách đúng đắn trong vấn đề này. Bởi vấn
đề công nghệ là nhân tố trực tiếp đầu tiên ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh
của từng doanh nghiệp cũng như của toàn ngành cả ở thị trường trong nước
cũng như trên thị trường quốc tế.
Hơn nữa, vấn đề công nghệ còn ảnh hưởng tới rất nhiều các mặt khác
của đời sống xã hội và tự nhiên như vấn đề an toàn lao động, vấn đề ô nhiễm
môi trường. Tuy nhiên, không phải như vậy mà chúng ta lựa chọn công nghệ
hiện đại nhất, năng suất cao nhất hay giảm hao phí nguyên phụ liệu tới mức
thấp nhất mà chúng ta phải cân nhắc, tính toán dựa trên rất nhiều yếu tố như
vừa phải đảm bảo tính hiện đại, năng suất, chất lượng vừa phải đảm bảo về
mức độ an toàn trong lao động, vấn đề sử dụng lao động, vấn đề môi trường.
Và một vấn đề quan trọng nữa đó là khả năng đáp ứng về tài chinh, đây chính
là yếu tố quan trọng quyết định tới việc lựa chọn công nghệ. Nói chung, việc
lựa chọn công nghệ phải đảm bảo tính phù hợp. Để có thể thực hiện tốt định
hướng này Chính phủ mà đặc biệt là Hiệp hội Dệt may Việt Nam cũng nên có
những quy định, chính sách về việc đổi mới thay thế các công nghệ để chúng
ta thực sự có được một ngành Dệt may không chỉ mạnh về xuất khẩu mà còn
đảm bảo tính hiện đại, phù hợp và thân thiện của công nghệ mà ngành sử
dụng.

3.2.4 Tìm kiếm các nguồn cung ứng nguyên phụ liệu mới phù hợp nhằm
giảm sự phụ thuộc vào một số nước và giảm giá thành.
Thực tế hiện nay, gần 70% nguyên phụ liệu cho ngành dệt may trong
nước là hàng nhập khẩu - chủ yếu từ Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc),
Hàn Quốc, Hồng Công, Nhật Bản. Tham vọng của Vinatex và nhiều doanh
nghiệp khác là đầu tư xây dựng các trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu
chuyên ngành dệt may để làm nơi giao dịch giữa những nhà cung ứng nguyên
phụ liệu hàng đầu thế giới với các nhà sản xuất, thiết kế may mặc Việt Nam
phục vụ xuất khẩu và nội địa. Đây cũng chính là một biện pháp nhằm làm
giảm tính phụ thuộc của dệt may Việt Nam vào nguồn cung của một số nước.
Bởi khi hình thành các trung tâm về nguyên phụ liệu, các nước có nguồn
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
24
Đề án “Nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may – Thực trạng và giải pháp”
nguyên phụ liệu cung ứng sẽ tự mang hàng tới và bán cho các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam tại các trung tâm này. Với vai trò như là một “chợ đầu
mối”, các trung tâm này sẽ thu hút các hoạt động mua bán giữa hai bên nhà
cung ứng và khách hàng (các doanh nghiệp dệt Việt Nam). Khi đi vào hoạt
động các Trung tâm này sẽ từng bước xóa bỏ được kiểu làm ăn cũ của các
doanh nghiệp khi tự phải đi tìm kiếm bạn hàng, nhà cung ứng. Điều này sẽ
giúp cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong quá trình sản xuất.
Bên cạnh việc hình thành các trung tâm nguyên phụ liệu, một mặt
chúng ta cố gắng tự chủ từng phần bằng cách tăng nguồn cung ứng trong
nước. Mặt khác, tìm kiếm các nguồn cung ứng khác như Ấn Độ, Pakistan,
Indonexia và từ các nước nam Mỹ.
Với những hướng giải quyết trên, hi vọng chúng ta sẽ từng bước chủ
động được nguồn nguyên phụ liệu cung cấp cho ngành Dệt may trong nước,
đáp ứng được kế hoạch sản xuất và xuất khẩu của ngành.
3.2.5 Tập trung, kêu gọi đầu tư vào ngành nhuộm, công nghiệp phụ trợ để
chủ động sản xuất vải, giảm tỷ lệ nhập khẩu, tăng tỉ lệ nội địa hóa trong

một đơn vị sản phẩm.
Để đảm bảo được mục tiêu đề ra thì ngành Dệt may cần rất nhiều vốn.
Giai đoạn 2006 - 2010, ngành cần xấp xỉ 2 tỉ USD, trong đó vốn cho ngành
dệt nhuộm chiếm 82% và giai đoạn 2011 - 2015 cần khoảng 2,7 tỉ USD và
vốn cho dệt nhuộm chiếm 86%. Bên cạnh đó cũng sẽ tập trung đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng đủ yêu cầu của các khâu sản xuất, nhất là khâu có yêu cầu
kỹ thuật cao như dệt, nhuộm. Giai đoạn 2006 - 2010 sẽ cần đào tạo khoảng
hơn 13,000 lao động. Công tác đào tạo này cũng cần một số vốn rất lớn.
Với lượng vốn cần nhiều như vậy, thì ngoài việc huy động vốn tự có,
vốn từ bán cổ phần, phát hành trái phiếu, cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng
khoán, cho thuê tài chính… ngành Dệt may đang tích cực kêu gọi các dự án
ODA, các dự án liên doanh liên kết, Ngành cũng kiến nghị Nhà nước hỗ trợ
một phần kinh phí cho công tác đào tạo cán bộ và nghiên cứu phát triển phục
vụ chương trình vải phục vụ cho may xuất khẩu. Đồng thời xây dựng cơ chế
chính sách thu hút đầu tư, xúc tiến đầu tư ngành dệt nhuộm.
Bên cạnh các nguồn vốn trên thì thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
ngành Dệt may Việt Nam cũng là một kênh quan trọng góp phần phát triển
bền vững cho ngành Dệt may Việt Nam. Với tư cách là thành viên của WTO
là bằng chứng của một môi trường kinh doanh thuận lợi, và nhờ đó, sẽ tăng
cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sau quãng thời gian khủng hoảng
tài chính tại châu Á, FDI vào Việt Nam đã tăng trưởng một cách ngoạn mục từ
2,6 tỉ USD năm 2001 lên trên 20 tỉ USD năm 2007. Ngoài ra, những thay đổi
trong hệ thống pháp luật của Việt Nam qua tiến trình ra nhập sẽ nâng cao tính
Dương Minh Sang - Lớp QTKD Tổng hợp 46A
25

×