Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Nâng cao chất lượng giáo dục Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Thanh Chương trong tình hình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.89 KB, 62 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử xã hội loài người từ khi ra đời, tồn tại và phát triển đã kết tinh
trong mình toàn bộ những giá trị văn hoá cao đẹp của lịch sử, những tri thức,
kinh nghiệm, kỹ năng kỹ xảo trong các hoạt động phục vụ lợi ích con người và
xã hội. Song để những giá trị văn hoá, những tri thức, kinh nghiệm đó được kế
tiếp, hoàn thiện và phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác, không có con
đường nào khác là phải thông qua giáo dục và đào tạo.
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học từ lâu đời. Trải qua hàng
nghìn năm lịch sử, truyền thống đó đã góp phần tạo nên nét đẹp của nền văn hiến
Việt Nam và được phát huy hơn bao giờ hết trong thời đại mới.
Hơn nửa thế kỷ qua, kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời.
Trong sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ và xây dựng đất nước, nền giáo dục nước nhà
thực sự giữ một vai trò quan trọng, gánh vác những sứ mệnh quang vinh của dân
tộc.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong thời đại mà cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ đang làm biến đổi sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã
hội, khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực cơ
bản thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, giáo dục và đào tạo trở thành
nhân tố quyết định trực tiếp sự phát triển của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế
giới. Mọi quốc gia, dân tộc muốn phát triển và phát triển bền vững đều phải
chăm lo đến sự phát triển của sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đòi hỏi trình độ dân trí
ngày càng cao làm cơ sở cho sự phát triển kinh tế xã hội, giáo dục và đào tạo là
mối quan tâm hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Phát triển giáo
dục tức là phát triển con người: Con người với tư cách là chủ thể sáng tạo nên
mọi giá trị vật chất và tinh thần của toàn xã hội; con người là nguồn lực cơ bản
tạo ra mọi nguồn lực khác thúc đẩy xã hội phát triển; con người phát triển toàn
diện, hài hoà có nhân sinh quan, thế giới quan Cộng sản chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Cùng với


khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng
Trang 1
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”
(1)
. Con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Vấn đề đào tạo con người là vấn đề quan
trọng bậc nhất trong phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, là một trong những
tiền đề cơ bản góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Nhận thức rõ vấn đề này tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta
đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người”
(2)
, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trên cơ sở đó Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết 40/2000/NQ-QH về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng
trong giai đoạn mới.
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định “ Đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa đất
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá vào
năm 2020”
Trong hệ thống giáo dục phổ thông, cấp học Trung học cơ sở có vị trí hết
sức quan trọng, được thực hiện trong 4 năm từ lớp 6 đến lớp 9. Học sinh vào học
Trung học cơ sở là những học sinh đã hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học.
Sau khi kết thúc cấp Trung học cơ sở, các em phải đạt được trình độ học vấn phổ
thông với những hiểu biết kiến thức chung nhất về khoa học tự nhiên, khoa học xã
hội, kỹ thuật và hướng nghiệp, nắm được kỹ năng lao động để sau này các em có
thể tiếp tục học lên Trung học phổ thông, học tập trong các trường dạy nghề hoặc

trược tiếp đi vào lao động sản xuất. Như vậy giáo dục Trung học cơ sở đóng vai
trò là cầu nối giữa giáo dục Tiểu học với giáo dục Trung học phổ thông là nơi
cung cấp lực lượng lao động cho xã hội. Do đặc điểm tâm, sinh lý ở độ tuổi vị
thành niên rất phức tạp cho nên việc giáo dục học sinh ở cấp học Trung học cơ sở
có vai trò hết sức quan trong trong việc nâng cao nhận thức, trau dồi đạo đức làm
cơ sở cho việc phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp cấp Trung học cơ sở.
Nhận thức được vị trí, vai trò hết sức quan trọng của bậc học, trong những
năm qua ngành giáo dục đã không ngừng đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng
1

()
Văn kiện Đại hội VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 1996, Tr.210
2

()
Văn kiện Đại hội IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2001, Tr.127
Trang 2
dạy và học của cấp học Trung học cơ sở, song bên cạnh những thành tựu đã đạt
được, chất lượng giáo dục của cấp học vẫn đang còn bộc lộ nhiều yếu, kém bất
cập, chưa đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của yêu cầu xã hội.
Thanh Chương là một huyện miền núi nằm về phía Tây Nam của tỉnh
Nghệ An. Trong những năm qua, cùng sự phát triển đi lên của đất nước, ngành
giáo dục huyện nhà đã thu được nhiều thành tích đáng phấn khởi: Quy mô giáo
dục được mở rộng, chất lượng và hiệu quả giáo dục ngày càng thể hiện rõ nét; hơn
13 năm liền ngành Giáo dục huyện nhà được công nhận là đơn vị tiên tiến xuất sắc
cấp tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó sự nghiệp giáo dục huyện nhà còn bộc lộ nhiều
hạn chế và tồn tại: cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học chưa đáp ứng yêu cầu của
công cuộc đổi mới; chất lượng giáo dục chưa đồng đều giữa các vùng trong
huyện. Năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên còn hạn chế; công tác quản lý
giáo dục chưa bắt kịp so với yêu cầu. Trước tình hình đó đặt ra cho ngành giáo dục

huyện nhà cần phải đánh giá đúng thực trạng chất lượng giáo dục các cấp học
trong toàn huyện để từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm khắc phục những
khuyết điểm, phát huy những ưu điểm đã đạt được để nâng cao chất lượng giáo
dục nói chung và chất lượng giáo dục Trung học cơ sở nói riêng, đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Là một người đã từng giảng dạy ở cấp học này và làm công tác chỉ đạo
chuyên môn của Phòng giáo dục huyện Thanh Chương - cơ quan tham mưu giúp
UBND huyện quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo trên địa bàn huyện. Từ
thực tiễn công tác của mình, cùng với những lý luận đã được trang bị trong thời
gian học tập, nghiên cứu tại Học viện chính trị - Hành chính khu vực I, tôi đã có
nhiều suy nghĩ trước thực trạng chất lượng giáo dục trên địa bàn huyện. Làm thế
nào để nâng cao chất lượng giáo dục nhất là giáo dục cấp Trung học cơ sở nhằm
đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội, đó là một bài toán khó mà ngành giáo
dục Thanh Chương cần phải tìm lời giải đáp. Vì lẽ đó, tôi chọn đề tài "Nâng cao
chất lượng giáo dục Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Thanh Chương trong
tình hình hiện nay " làm luận văn tốt nghiệp lớp cao cấp lý luận chính trị - hành
chính.
1.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
1.2.1. Ý nghĩa lý luận
Trang 3
Hệ hống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về giáo dục và nâng cao chất
lượng giáo dục Trung học cơ sở, từ đó góp phần tổng kết quá trình đổi mới nhận
thức của Đảng về vai trò giáo dục trong sự nghiệp đổi mới.
1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn khảo sát tương đối có hệ thống về thực trạng chất lượng giáo dục
Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Thanh Chương và đưa ra hệ thống giải pháp
tương đối đồng bộ, có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Trung học
cơ sở huyện Thanh Chương nói riêng và tỉnh Nghệ An nói chung.
Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo bổ ích cho các cơ quan
quản lý giáo dục và một số cơ quan khác trên địa bàn cấp huyện của tỉnh Nghệ

An.
2. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá một cách toàn diện, khách quan, khoa học thực trạng giáo dục
Trung học cơ sở ở huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An trong những năm qua, đề
xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục Trung
học cơ sở, từ đó góp phần làm sáng tỏ vai trò lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong
việc đề ra những quan điểm, chủ trương cũng như quá trình tổ chức thực hiện các
biện pháp về công tác giáo dục tại địa phương.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở trình bày những quan niệm về chất lượng giáo dục hiện nay,
luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích, làm sáng tỏ thực trạng chất lượng giáo dục ở các trường
Trung học cơ sở huyện Thanh Chương trong những năm qua. Bước đầu đánh giá
những kết quả, hạn chế và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
Trung học cơ sở và đưa ra những kiến nghị để thực hiện những giải pháp đó.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm hai phương diện:
- Thực trạng chất lượng giáo dục của huyện Thanh Chương (2005-2010)
với tư cách là mặt khách quan
Trang 4
- Các giải pháp chỉ đạo, quản lý việc nâng cao chất lượng giáo dục Trung
học cơ sở.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
“Chất lượng giáo dục” là một vấn đề có tính chất chính trị – xã hội diễn ra
trên một quy mô khá rộng với thời gian khá dài, liên quan đến nhiều mặt trong đời
sống xã hội, có quan hệ nhiều cấp độ, tầng nấc của hệ thống chính trị. Giải quyết
và xử lý vấn đề trên có nội dung rất phong phú, phức tạp mang tính lý luận và thực

tiễn cao. Vì vậy, đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu chất lượng giáo dục Trung
học cơ sở trên địa bàn huyện Thanh Chương (đặc biệt ở một số trường Trung học
cơ sở điển hình như Trung học cơ sở Tôn Quang Phiệt, Trung học cơ sở Thanh
Đức, Trung học cơ sở Cát Văn, Trung học cơ sở Đặng Thai Mai, Trung học cơ sở
Thanh Khai).Về mặt thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng giáo dục
Trung học cơ sở từ năm học 2005-2006 đến năm học 2009-2010.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Đề tài sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta.
- Đề tài chú trọng phương pháp lịch sử và lôgic, kết hợp lịch sử với lôgic,
phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp, điều tra thống kê …
5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kiến nghị, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận văn được chia làm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận của vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục
Chương II: Thực trạng chất lượng giáo dục cấp Trung học cơ sở trên
địa bàn huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An từ năm 2005 đến 2010
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục Trung học cơ sở ở huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ động viên
của các giảng viên của Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I, đặc biệt là
người hướng dẫn trực tiếp - Thạc sỹ Nguyễn Vinh Quân, Giảng viên khoa Tư
tưởng Hồ Chí Minh. Sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các đồng chí lãnh đạo
huyện Thanh Chương và các cán bộ, chuyên viên Phòng giáo dục và đào tạo
huyện.
Trang 5
Nhân đây tôi xin bày tỏ lời cám ơn trân trọng nhất!
Trang 6
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
1.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG TA VỀ GIÁO DỤC
1.1.1. Chủ nghĩa Mác – Lênin bàn về vị trí, vai trò của giáo dục
Trong lịch sử nhân loại, bất cứ quốc gia nào, thời đại nào cũng phải xây
dựng một hệ thống giáo dục với mục tiêu đào tạo ra những con người phù hợp
với chế độ xã hội ấy. Môi trường chủ yếu, tốt nhất để truyền thụ kiến thức, giáo
dục nhân cách chính là nhà trường.
Ngay từ khi chủ nghĩa xã hội mới còn là học thuyết, Các Mác và Ăngghen
đã đánh giá cao vai trò của sự nghiệp giáo dục và đào tạo và coi đó như một
nhiệm vụ bắt buộc đối với hết thảy mọi người. Trong tác phẩm “Nguyên lý chủ
nghĩa cộng sản” khi trả lời câu hỏi: Cuộc cách mạng đó sẽ diễn biến như thế
nào? Hai ông đã nói rõ quan điểm: “… đối với tất cả trẻ em khi không cần đến sự
chăm sóc của người mẹ nữa, thì đưa vào giáo dục trong các cơ quan nhà nước và
bằng sự đài thọ của nhà nước, kết hợp với sự giáo dục với lao động trong công
xưởng”
(1)
và “Công tác giáo dục sẽ làm cho những người trẻ tuổi có khả năng
nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn, làm cho họ có
thể lần lượt chuyển từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất nọ tuỳ theo nhu
cầu của xã hội hoặc tuỳ theo sở thích của bản thân họ. Do đó công tác giáo dục
sẽ làm cho họ thoát khỏi tình trạng một chiều mà sự phân công lao động hiện nay
đang buộc mỗi người phải theo. Như vậy là xã hội tổ chức theo nguyên tắc cộng
sản chủ nghĩa sẽ làm cho những thành viên trong xã hội có khả năng sử dụng
một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện của mình”
(2)
Hai ông còn khẳng
định rằng: “… bộ phận giác ngộ nhất trong giai cấp công nhân cũng nhận thức rõ
ràng rằng: tương lai của giai cấp họ và do đó tương lai của cả loài người, hoàn

toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên”
(3)

1 ()
Cc Mác - Ăngghen – Lênin – Xtalin: Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, 1976, Tr21
2-()
Các Mác - Ăngghen – Lênin – Xtalin: Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, 1976, Tr24
3

()
Các Mác - Ăngghen – Lênin – Xtalin: Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, 1976, Tr37
Trang 7
Ngay trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1848) C.Mác và Ph. Ăng ghen đã
đề cập tới một xã hội tốt đẹp mà những người cộng sản nhằm tới là xã hội trong đó
có sự phát triển của từng người tạo điều kiện cho sự phát triển của mọi người. Các
ông đã nhìn nhận thấy trước ở xã hội xã hội chủ nghĩa việc đào tạo những người
cộng sản phát triển toàn diện có ý nghĩa đặc biệt. Chính vì vậy mà các ông có quan
niệm rất rõ ràng về nhiệm vụ giáo dục - Chúng tôi hiểu giáo dục gồm 3 điểm:
Thứ nhất: Giáo dục trí lực
Thứ hai: Giáo dục thể lực như đang được thực hành trong các trường Thể
dục thể thao và bằng luyện tập quan sự.
Thứ ba: Huấn luyện bách khoa, giới thiệu những nguyên tắc cơ bản của tất
cả các quá trình sản xuất và đồng thời tập cho trẻ em và thiếu niên quen sử dụng
những công cụ đơn giản nhất cho tất cả các ngành sản xuất.
C. Mác và Ph. Ăng ghen đã hiểu sự phát triển toàn diện trong giáo dục là sự
phát triển thống nhất của thể chất và tinh thần, sự phát triển trong đó kết hợp việc
dạy kỹ thuật với tham gia lao động thực tiễn của trẻ. Sự phát triển toàn diện sẽ
tạo cho con người có khả năng định hướng một cách dễ dàng trong toàn bộ hệ
thống sản xuất và dễ dàng chuyển từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất
khác, tuỳ theo nhu cầu của xã hội và của bản thân. Chính trong việc giáo dục như

vậy, con người sẽ thoát khỏi sự phát triển phiến diện mà sự phân công lao động
xã hội dưới chế độ tư bản chủ nghĩa đã bắt con người phải chịu.
Về phương pháp giáo dục, C.Mác đã chỉ ra rằng: “ Nền giáo dục sẽ kết hợp
lao động sản xuất với trí tuệ và thể dục, đối với hết thảy trẻ em trên mọi lứa tuổi
nhất định nào đó và làm như vậy không những chỉ là phương pháp tăng thêm sản
xuất xã hội, mà còn là phương pháp tốt nhất và duy nhất để đào tạo ra những con
người toàn diện”.
(1)
Những quan điểm khoa học đúng đắn được C.Mác phản ánh thực chất sự
tồn tại của con người trong xã hội. Con người được xem là sản phẩm kỳ diệu
nhất, cao nhất của lịch sử phát triển thế giới vật chất và chịu sự chi phối của thế
giới tự nhiên. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải hiểu và xử lý mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội, giữa hoạt động nâng cao và hoạt động đơn giản. Giữa phát triển
cả thể lực lẫn trí óc và chân tay để phát huy sức mạnh nội sinh, tiềm tàng trong
1

()
Các Mác - Tư bản, Nxb Sự thật, Hà Nội 1960, quyển 1, tập 2, trang 299
Trang 8
mỗi con người như là cơ sở vật chất để khai thông và phát triển tinh thần của
nhân tố con người và động lực trọng yếu cho quá trình trên.
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăng ghen về giáo dục, V.I. Lênin đã
đưa ra những lý luận đầy đủ hơn về giáo dục và hệ thống giáo dục, về nhiệm vụ
và tính chất của nền giáo dục trong xã hội mới. Trong Dự thảo Cương lĩnh Đảng
Cộng sản Nga tháng 2 năm 1919, Lênin nêu những ý tưởng về giáo dục - đào tạo
đến nay vẫn còn mang tính thời sự và giá trị vận dụng thực tiễn của nó: “ Thực
hiện chế độ giáo dục không mất tiền và bắt buộc, phổ thông và bách khoa (dạy lý
thuyết và thực hành về tất cả các ngành sản xuất chủ yếu) cho tất cả em trai, em
gái dưới 16 tuổi.
* Kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục với lao động sản xuất.

* Lôi cuốn nhân dân lao động tích cực tham gia sự nghiệp giáo dục, phát
triển những hội đồng giáo dục quốc dân, huy động những người biết chữ dạy
người không biết chữ”
(1)

Trong nhiều phát biểu Lênin từng nói: “ Học, học nữa, học mãi” hay: “ Suy
cho cùng thì người thầy quyết định hết …”
Ngay sau khi cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Lênin đã nêu bật
được vai trò, nhiệm vụ to lớn và nặng nề của giáo dục - đào tạo trong việc phát
triển nguồn nhân lực, trong đó Người rất chú trọng đến giáo dục toàn dân, tới
mọi người cùng làm giáo dục, tới bình đẳng, tới học đi đôi với hành, tới nhà
trường gắn liền với xã hội, học không biết chán và không biết mỏi, học có suy
ngẫm có tìm tòi sáng tạo, có tư duy phát triển, nghiên cứu luôn đổi mới phương
pháp để đạt hiệu quả cao.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu sự nghiệp giáo dục của mình chính là thầy
giáo Nguyễn Tát Thành, dạy học ở trường Dục Thanh(Phan Thiết), đến những
năm tháng hoạt động ở Pháp với tên gọi Nguyễn Ái Quốc, rồi Lý Thụy ở Trung
Quốc, Thầu Chín ở Xiêm(Thái Lan), Già Thu ở Pác Bó... và lãnh tụ Hồ Chí
Minh. Qua tất cả những năm tháng đó, Người đã tổ chức và trực tiếp giảng dạy
nhiều lớp huấn luyện chính trị, văn hóa và quân sự cho bao lớp cán bộ. Người đã
có công đào tạo nên nhiều thế hệ cách mạng Việt Nam, những lãnh tụ xuất sắc
của Đảng, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
1

()
LêNin toàn tập, Nxb tiến bộ - Matxitcơva 1977, Tập 38, bản tiếng Việt, trang 118
Trang 9
Không chỉ vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khai sinh và đặt nền móng cho
nền giáo dục mới của Việt Nam, đó là nền giáo dục mang tính dân tộc, khoa học,

và đại chúng, bảo đảm cho mọi người đều được đi học, ai cũng được học hành,
có quyền bình đẳng về giáo dục; bảo đảm cho sự phát trển toàn diện những năng
lực sẵn có của con người.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chs Minh đã sớm nhận
thấy giáo dục có vai trò và sức mạnh cực kỳ to lớn. Những năm tháng bôn ba qua
các đại dương tìm đường cứu nước, cứu dân, Người đã tận mắt chứng kiến nhiều
điều và học được nhiều điều. Sống ở Pari thủ đô nước Pháp, nơi được coi là
trung tâm văn minh của nhân loại với nền khoa học - kỹ thuật phát triển hàng đầu
thế giới vào đầu thế kỷ 20, Người đã nhận thức về tầm quan trọng của trình độ
dân trí " Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Vì thế, Người luôn coi việc đấu
tranh chống chính sách "Ngu dân" của thực dân Pháp để có một nền giáo dục tự
do là một trong những mục tiêu của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Người
nói: " Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành"
Ngay sau khi cách mạng tháng 8 - 1945 thành công, trong phiên họp đầu
tiên của chính phủ, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt
vấn đề chống giặc dốt là vấn đề cấp bách số hai, sau vấn đề chống nạn đói trong
sáu nhiệm vụ cấp bách của nhà nước lúc bấy giờ. Giặc dốt được coi như một thứ
giặc cần tiêu diệt ngang hàng với giặc ngoại xâm. Người xem việc nâng cao dân
trí là : " Một công việc cần phải thực hiện cấp tốc" để làm cho " Mọi người Việt
Nam, ai cũng đều có kiến thức để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước
nhà".
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp dù bận lãnh đạo nhân dân đánh
giặc và sản xuất, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quan tâm chú ý đến văn hóa và giáo
dục, Người đã kêu gọi mọi người hăng hái học tập " Thi đua diệt giặc dốt".
Trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người dã kêu gọi: "
Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt và học tốt"
(1)
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp giáo

dục và đào tạo. Sinh thời, Người vẫn thường nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân: “Bồi
1

()
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb chính trị Quốc gia, H.2002, trang 329
Trang 10
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”. Sau
cách mạng Tháng Tám, cùng với sự khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, Người rất quan tâm đến sự nghiệp trồng người: “Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Trong hoàn cảnh của nhà nước cách mạng
còn non trẻ, thù trong giặc ngoài và thiên tai dịch hoạ hoành hành, Người đã kêu
gọi toàn dân ra sức diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nhờ đó mà từ chỗ
hơn 95% số dân mù chữ, dân ta đã trở thành một dân tộc có văn hoá, khoa học,
có đủ khả năng để giành độc lập, tự do cho đất nước. Đây là điểm khởi đầu chói
sáng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần mở đầu cho nền giáo dục của nước
Việt Nam mới.
Trong toàn bộ di sản tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì vấn
đề cơ bản nhất, nổi bật nhất là vấn đề xây dựng và hoàn thiện con người thông
qua hoạt động giáo dục và tự giáo dục. Người thường nói: “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” và “Hiền giữ
phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Tư tưởng này không
những chỉ là sự kế thừa những truyền thống quý báu của dân tộc mà còn là sự
phản ánh những yêu cầu lâu dài vừa cấp bách của nước ta trên con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội từ một trình độ xuất phát thấp về kinh tế và xã hội. Sự vận
động, phát triển khách quan của đất nước, tất yếu đòi hỏi nền giáo dục phải đem
lại một chất lượng mới cho từng con người, cho cả dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra mục tiêu mà nhà trường cần phải thực hiện
trong hoạt động dạy và học là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để
phục vụ đoàn thể, giai cấp nhân dân, Tổ quốc và nhân loại …”. Để đạt được mục
tiêu nói trên, Người chủ trương phải xây dựng một nền giáo dục toàn diện, trong

việc giáo dục và học tập phải đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội
chủ nghĩa, văn hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất.
Đây chính là những nội dung giáo dục cơ bản, gắn bó chặt chẽ với nhau,
làm nền tảng cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam mới và cũng là
những nội dung chủ yếu của nhà trường trong việc giáo dục, rèn luyện học sinh
vươn lên chiếm lĩnh những giá trị cao quý, tinh hoa của loài người và dân tộc.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục đã trở thành cơ sở tư
tưởng và lý luận cho việc xây dựng một nền giáo dục cách mạng kiểu mới mà
chúng ta đã và đang thực hiện.
Trang 11
Ngày nay, công tác giáo dục, đào tạo nhằm phát huy nguồn lực con người
vẫn là một nhân tố có ý nghĩa quyết định cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới, sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Sự nghiệp giáo dục nói chung,
giáo dục thế hệ trẻ nói riêng đang đứng trước những diều kiện thuận lợi mới và
những thách thức lớn. Vì thế, cần phải nghiên cứu, quán triệt sâu sắc những quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, nhằm góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo ra cho đất nước những con người vừa "hồng" vừa
"chuyên".
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển sự nghiệp
giáo dục
Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng đã có những nhận thức, quan
điểm đúng đắn, tích cực về vai trò, vị trí của giáo dục trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc nhất là trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
hiện nay.
Ngay sau khi vừa giành được chính quyền, Đảng ta vừa tiến hành lãnh đạo
nhân dân tiến hành diệt giặc dốt, vừa tiến hành cải cách nền giáo dục kiểu cũ
thành nền giáo dục mới của một nước độc lập, một nền giáo dục và đào tạo thế
hệ trẻ thành những công dân kiểu mới của chế độ xã hội mới. Trong suốt gần
một nửa thế kỷ qua, chúng ta đã tiến hành 3 cuộc cải cách giáo dục (CCGD):
Lần thứ nhất: Tháng 7/1950. Hội đồng chính phủ thông qua đề án CCGD

và quyết định thực hiện cuộc cải cách này.
Lần thứ hai: Tháng 8/1956, chính phủ ban hành chính sách giáo dục phổ
thông của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Lần thứ ba: Năm 1979, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam ra Quyết định số 14 tiến hành CCGD và được thực hiện từ năm
1981 đến nay. Hiện nay, chúng ta vẫn đang tiếp tục điều chỉnh, đổi mới, chấn
hưng giáo dục để ngày càng đạt đến sự hoàn thiện hơn.
Trải qua các thời kỳ Đại hội, nhất là từ Đại hội VI (12/1986) cho đến nay,
Đảng ta đã có những bước phát triển mới về tư duy và tiếp tục khẳng định vai
trò, vị trí của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở
nước ta. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 khoá VII (1993) đã
ra Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo” với 4 quan
điểm và 12 chủ chương, chính sách, biện pháp lớn để phát triển giáo dục và đào
Trang 12
tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản bảo đảm
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Phải coi
giáo dục là một hướng chính của đầu tư phát triển.
Nghị quyết trung ương 2 (khoá VIII) “Về định hướng chiến lược phát triển
giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến
năm 2000” là sự kế thừa, hoàn thiện và nâng cao những tư tưởng chỉ đạo phát
triển giáo dục và đào tạo của Đảng trong hoàn cảnh mới. Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) đã tiếp tục khẳng định: “Phát triển giáo dục
và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố
cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” và “Phát
triển khoa học, công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước”. Vì vậy, việc tạo bước chuyển biến mạnh về phát triển nguồn nhân lực,
trọng tâm là giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đã được xác định là một
trong ba khâu đột phá để làm chuyển động toàn bộ tình hình kinh tế - xã hội của

nước ta.
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục, Hiến pháp 1992 và sửa
đổi 2001; Luật giáo dục (1998) và Văn kiện Đại hội IX của Đảng, ngày
28/12/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg về
“Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010”. “Chiến lược phát triển giáo dục”
đã hệ thống hoá 4 quan điểm lớn: Một là, giáo dục là quốc sách hàng đầu; hai là,
xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học hiện đại theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng; ba là, phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội, tiến bộ khoa học - công nghệ, củng cố quốc phòng - an ninh; bốn là, giáo
dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Chiến lược cũng đã vạch
ra 7 nhóm giải pháp lớn cần tập trung thực hiện để đạt được những mục tiêu đã
đề ra. Như vậy, nhận thức và quán triệt Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng về giáo dục là nền tảng và tiền đề để nhận thức, đánh giá đúng vị trí, vai trò
của nó trong xã hội. Từ đó, đề xuất những giải pháp mang tính khả thi trong việc
nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục ở từng địa phương, từng cơ sở.
Trang 13
Đây là những định hướng mang tính nguyên tắc, cần tuân thủ trong hoạt động
thực tiễn.
Tuy nhiên trong đánh giá kiểm điểm nhiệm kỳ khoá IX tại ĐH lần thứ X
của Đảng cũng đã chỉ ra mặt yếu kém của giáo dục đào tạo: “Chất lượng giáo
dục còn nhiều yếu kém, khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh, sinh viên ít
được bồi dưỡng, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên còn yếu. Chương
trình, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề chưa phù hợp..”.
Chính vì vậy, trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển 5 năm tới về giáo
dục và đào tạo, Đảng ta đặt ra nhiều vấn đề trọng tâm trong đó có nhấn mạnh:
“Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc
lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên. Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên

khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giầu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân
với tương lai của cộng đồng của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh,
phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại. Triển khai thực hiện hệ
thống kiểm định khách quan, trung thực chất lượng giáo dục, đào tạo”.
Để thực hiện tốt được nhiệm vụ trên ngành Giáo dục và đào tạo nói chung
và hệ thống giáo dục phổ thông nói riêng phải tìm ra được giải pháp, con đường
đi phù hợp và tích cực.
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ
TRONG CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC HIỆN NAY VÀ NHỮNG YẾU TỐ
QUY ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
1.2.1. Vai trò của giáo dục trong thời đại ngày nay
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội ở nước ta trong những năm qua thì nền giáo dục của ta là nền giáo dục giữ
vững mục tiêu xã hội chủ nghiã. Do đó, về khái niệm giáo dục ta có thể hiểu
theo nghĩa sau: giáo dục là quá trình tác động có hệ thống, có kế hoạch của hệ
thống giáo dục quốc dân, của cơ sở giáo dục khác, của các cơ quan hành chính
nhà nước, của các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức cá nhân tham gia vào hoạt
động giáo dục nhằm đạt được mục tiêu là đào tạo con người Việt Nam phát triển
toàn diện, có đạo đức, có tri thức, có sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung
thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng
Trang 14
nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đất nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Có chế thị trường, mặt khác làm thức dậy những
tiềm năng sẵn có, phát huy tính năng động sáng tạo của con người một mặt nó
gây ra những tác động xấu ảnh hưởng không nhỏ lên các mặt của đời sống xã hội
trong đó có giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, trong thời gian qua giáo dục và đào
tạo đã có những chuyển biến mới, đã phát huy vai trò của mình trong sự nghiệp

đổi mới đất nước đó là:
1.2.1.1. giáo dục và đào tạo có vai trò quyết định trong việc nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã quyết định đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Muốn tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo.
Phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền
vững.
1.2.1.2. Giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra
mạnh mẽ trên thế giới, khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Trình độ dân trí và tiềm lực khoa học công nghệ đã trở thành nhân tố quyết
định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia trên thế giới. Vấn đề nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đang là vấn đề cực kỳ quan trọng và cấp
bách đối với chúng ta. Dân trí thấp, chất lượng nhân lực kém đồng nghĩa với đói
nghèo và lạc hậu. Chính vì vậy, giáo dục và đào tạo phải thể hiện vai trò vô cùng
quan trọng của mình, đặc biệt giáo dục phổ thông có vai trò quyết định đối với
việc nâng cao dân trí, cung cấp cho mọi người dân những tri thức cần thiết để họ
có thể gia nhập vào đời sống xã hội và phát triển kinh tế, theo kịp tiến trình đổi
mới và phát triển của đất nước.
Do đặc điểm của nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa,
nửa phong kiến, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu do vậy đòi hỏi quá
Trang 15
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được tiến hành đồng bộ trên tất cả các
ngành sản xuất. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ hướng vào các khu
công nghiệp, các thành phố lớn mà phải hướng tới cả khu vực nông thôn, miền
núi – nơi có hơn 80% dân số sinh sống với nguồn nhân lực dồi dào.
1.2.2 Vị trí, vai trò của giáo dục Trung học cơ sở

Trong hệ thống Giáo dục phổ thông, THCS là một điểm chiến lược phát
triển giáo dục, đào tạo. Đại hội IX của Đảng đề ra đường lối phát triển của giáo
dục, đào tạo: "phát triển giáo dục Mầm non, củng cố vững chắc kết qủa xóa mù
chữ và phổ cập Trung học cơ sở trong cả nước..."
(1)
. Trung học cơ sở là mắt xích
quan trọng trong hệ thống giáo dục phổ thông hoàn chỉnh (Vừa tiếp nối vừa
chuyển tiếp).
Mục tiêu của giáo dục Trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và
phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học vấn phổ thông cơ
sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học Trung
học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào trực tiếp lao động
sản xuất. Vì vậy, giáo dục Trung học cơ sở là giúp học sinh phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục Trung học cơ sở trong hệ thống giáo dục quốc dân là một khâu
quan trọng trong sự phát triển giáo dục - đào tạo, là một bộ phận hữu cơ của nền
giáo dục phổ thông, nằm trong cấu trúc chung của hệ thống giáo dục quốc dân
mang tính chỉnh thể thống nhất, đồng bộ, hệ thống và liên thông. giáo dục Trung
học cơ sở tạo điều kiện cơ bản để giải phóng con người, xác lập vị trí của con
người trong quá trình phát triển kinh tế -xã hội. Trong công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. giáo dục Trung học cơ sở qui định việc hình thành và hoàn
thiện nhân cách toàn diện trên những yêu cầu mới, tạo nguồn nhân lực, và là cơ
sở cho việc lựa chọn, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài ở cấp phổ thông trung
học và cấp cao hơn. Chất lượng và hiệu quả của giáo dục Trung học cơ sở là chất
lượng của nền dân trí, là nguồn lực hữu cơ của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục phổ thông bao gồm 2 bậc: Tiểu
học và trung học. Trong bậc trung học có 2 cấp: Cấp Trung học cơ sở và cấp
1


()
ĐCS VN - VKĐHTQ lần T9 - NXB CTQG 2001 - Tr2002
Trang 16
Trung học phổ thông. Đảng ta đã xác định: “ giáo dục phổ thông là nền tảng văn
hoá của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc, nó phải đặt những cơ
sở ban đầu rất quan trọng cho sự nghiệp phát triển toàn diện con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa ”
(1)
Nghị quyết 14 của bộ chính trị về cải cách giáo dục nhấn
mạnh: giáo dục phổ thông “ Có nhiệm vụ giáo dục cho học sinh đạt trình độ văn
hoá phổ thông tương đối hoàn chỉnh, có năng lực làm các loại lao động phổ
thông, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp, sẵn sàng đi vào học nghề và tăng gia lao
động sản xuất, tham gia công tác xã hội hoặc học lên ”.
Để nâng cao chất lượng đào tạo ở nhà trường phổ thông, giáo dục ở cấp
Trung học cơ sở với nhiệm vụ mà luật giáo dục dã ghi: “ Phải nhằm giúp học
sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học
vấn phổ thông cơ sở và những kết quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học vấn
phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp
tục học Trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào
cuộc sống lao động”, bậc học này có vị trí vô cùng quan trọng.
Trung học cơ sở sẽ là cấp phổ cập trong những năm đầu thế kỷ XXI do
những yêu cầu thúc bách của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nếu phổ
cập tiểu học được hoàn thành cơ bản vào năm 2001 thì Trung học cơ sở phải
hoàn thành mức tối thiểu về dân trí do yêu cầu bắt buộc của sự phát triển. Như
vậy, khi trở thành một bộ phận bậc trung học phổ cập, một bộ phận của giáo dục
cơ sở, Trung học cơ sở phải có sự thay đổi về hình thức tổ chức, nội dung thì mới
có thể hoàn thành sứ mạng là bậc phổ cập
Trung học cơ sở gắn với địa bàn xã, phường, gắn chặt với cộng đồng mà
80% là nông thôn sẽ có ý nghĩa quyết định đối với một nước đang công nghiệp

hoá, hiện đại hoá và phát triển nông thôn trong giai đoạn hiện nay. Trung học cơ
sở có một vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục phổ thông do nó có ý nghĩa
quyết định đối với sự phát triển cá nhân trong sự hoà nhập vào đời sống cộng
đồng, sự phát triển những năng lực riêng biệt ở cấp học.
Trung học cơ sở có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với lứa tuổi 11 –15, một
lứa tuổi mang nét đặc biệt về sự phát triển sinh lý, tâm lý, xã hội của mỗi con
người mà tương lai của mỗi người lại phụ thuộc chủ yếu vào giai đoạn hình
thành nhân cách này. Cấp Trung học cơ sở là cầu nối của hệ thống giáo dục phổ
1

()
Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị tại Đại hội V, Nxb Sự thật, 1987, tr. 18.
Trang 17
thông. Ở cấp học này học sinh được học một hệ thống tương đối hoàn chỉnh,
hoàn thành các kỹ năng lao động phổ thông. giáo dục cho học sinh có ý thức lựa
chọn nghề nghiệp, sẵn sàng lao động sản xuất, tham gia các công tác xã hôị hoặc
tiếp tục học lên.
Như vậy, giáo dục Trung học cơ sở sẽ hình thành và định hình năng lực, kỹ
năng học tập, kỹ năng thực hành và nhân cách ; là tiền đề, cơ sở cho việc nâng
cao chất lượng và hiệu quả học tập rèn luyện ở bậc Trung học phổ thông và công
tác sau này của người học.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra với tốc độ
như vũ bão, cuốn hút tất cả các nước ở nhiều mức độ khác nhau. Cuộc cách
mạng này sẽ chuyển một bộ phận nhân loại từ xã hội công nghiệp sang xã hội
thông tin và công nghệ. Trên thế giới, năng suất lao động tăng lên không ngừng.
Theo “ Thế giới toàn cảnh trước năm 2000” “ chỉ trong vòng hai thập kỷ gần
đây, loài người đã sản xuất được một lượng của cải vật chất công nghiệp gần
bằng suốt thời kỳ 270 năm trước đó. Cũng chính trong thời kỳ này, con người đã
bước vào ngưỡng của của một thời đại mới – Đó là thời đại trí tuệ ” Các ngành
công nghệ cao là yếu tố then chốt quyết định phát triển như tin học, vi điện tử,

viễn thông, công nghệ sinh hoc, vật liệu mới… Những ngành công nghiệp cao
chính là những ngành công nghiệp làm ra sản phẩm có hàm lượng “chất xám”
cao. Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật không chỉ làm cho kỹ thuật cổ truyền
trở nên lỗi thời mà còn làm cho lối sống thay đổi, sự định hướng giá trị thay đổi,
những chuẩn mực đạo đức và hành vi được nâng cao và mở rộng.
Đối với Việt Nam, bài toán của sự phát triển mà thời đại đặt ra chỉ có
thể giải quyết bằng trí tuệ thời đại, của dân tộc, bằng đầu tư mạnh mẽ và ưu tiên
cho giáo dục trong đó có giáo dục Trung học cơ sở để tạo nguồn lực trong cuộc
chạy đua ở thế kỉ mới này, vừa tránh được tụt hậu nhiều mặt trong thế giới hiện
đại và vẫn có được những nhân cách mới, vững bước đi trên con đường xã hội
chủ nghĩa.
Với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các thành phần kinh tế được
tự do phát triển trong khuôn khổ pháp luật và đều bình đẳng trước pháp luật.Các
sản phẩm làm ra phải là hàng hoá có giá trị cao, có sức cạnh tranh trên thị trường.
Chính vì vậy mà đòi hỏi người lao động và những người quản lý rất nhạy bén,
Trang 18
năng động, có tay nghề kinh tế cao, biết thích ứng linh hoạt trước những biến
động của thị trường.
Nền kinh tế thị trường cũng đặt ra yêu cầu đối với giáo duc và đào tạo là
phải đào tạo được những con người đáp ứng được yêu cầu thực tế của xã hội.
Điều đó có nghĩa là, hệ thống giáo dục mà trước hết là giáo dục phổ thông phải
giáo dục và truyền thụ cho học sinh những hiểu biết cơ bản về văn hoá dân tộc,
về những thành tựu của một số nền văn minh thế giới, về kỹ năng lao động,
hướng nghiệp và dạy nghề, những tri thức ban đầu về nền kinh tế hàng hoá vận
hành theo cơ chế thị trường, những phẩm chất cần thiết để đi vào cuộc sống độc
lập. Trong thời kỳ “Mở cửa” để tạo ra nguồn lực, sức lao động dồi dào, đẩy
mạnh phát triển kinh tế xã hội của đất nước và có thể tham gia vào quá trình
phân công lao động quốc tế, giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục Trung học
cơ sở nói riêng càng cần phải làm tốt chức năng của mình.
Thực tế cho thấy, với cơ chế thị trường, lao động ngày càng xác lập giá trị

đích thực của người lao động được đào tạo. Muốn bảo đảm việc làm, không bị
lạc hậu về trình độ và có điều kiện làm giàu chính đáng, người lao động phải
thường xuyên học tập, bồi dưỡng về mọi mặt. Việc không ngừng làm giàu trí tuệ
của mỗi người là điều kiện để người đó nhanh chóng có một cuộc sống sung túc,
ổn định đồng thời tăng thêm nguồn trí tuệ cho đất nước, góp phần cho đất nước
phát triển. Đó chính là mục tiêu quan trọng của việc học tập và rèn luyện.
Với vai trò nhiệm vụ của mình, giáo dục Trung học cơ sở phải thực hiện
những mục tiêu cụ thể sau đây:
Thứ nhất: Hình thành cho học sinh những kỹ năng bao gồm: Phát triển kỹ
năng giao lưu, khuyến khích hứng thú tìm tòi, tạo hứng thú để cố gắng học tập và
đạt được kết quả cao trong học tập, đánh giá được giá trị của phương pháp giải
quyết vấn đề.
Thứ hai: hình thành và phát triển những định hướng giá trị thích hợp như:
tự tin và có trách nhiệm đối với những hành động của bản thân và của nhóm
mình, thừa nhận quyền của người khác và của nhóm khác, không đồng tình trước
hiện tượng không tôn trọng quyền lợi chính đáng của người khác và của nhóm
khác; có niềm tự trọng, hiểu được giá trị của bản thân.
Thứ ba: Lĩnh hội hệ thống kiến thức cần thiết để sống và tiếp tục học tập đó
là: Quan tâm và có trách nhiệm đói với môi trường xung quanh; co sự hiểu biết
Trang 19
về xã hội và về tự nhiên cần thiết và phù hợp với cộng đồng; đánh giá đúng đắn
sự công shiến khoa học và nghệ thuật đối với cuộc sống của con người, hiểu biết
về đất nước mình: Lịch sử, địa lý, văn hoá, lối sống; hiểu biết về các đất nước
khác, về văn hoá của dân tộc khác và mối quan hệ của đất nước mình với đất
nước khác; hiểu biết về sự phụ thuộc của con người với môi trường tự nhiên, có
trách nhiệm về những hành động của mình.
Chất lượng con người phải đi từ nền tảng ban đầu ở các cấp học nhất là
trung học cơ sở. Nếu không có các giải pháp để phát triển giáo dục trung học cơ
sở tạo nền móng vững chắc thì không thể nói đến tương lai của lớp người xây
dựng và bảo vệ tổ quốc kế tiếp của lịch sử dân tộc.

1.2.3. Quan niệm về chất lượng giáo dục
“Chất lượng giáo dục” đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất,
thậm chí một số quan điểm còn đồng nhất giữa chất lượng hoạt động giáo dục và
chất lượng sản phẩm giáo dục tức là con người do hoạt động giáo dục tạo nên.
Hiện nay đang tồn tại ba quan niệm về chất lượng giáo dục:
Một là, chất lượng giáo dục chủ yếu là năng lực trí tuệ, khả năng giải
quyết những nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với mục tiêu của các
môn học trong chương trình giáo dục và đào tạo.
Hai là, chất lượng giáo dục là mức độ hình thành nhân cách toàn diện về
đức, trí, thể, mỹ. Lấy phẩm chất đạo đức làm gốc để phát triển năng lực khác.
Ba là, chất lượng giáo dục là sự tổng hoà của những kết quả giáo dục đào
tạo toàn diện thể hiện trước tiên bằng những chỉ số đánh giá toàn diện về phẩm
chất, năng lực qua thi cử, trắc nghiệm, nhận xét bình chọn thường xuyên, nhưng
cuối cùng chủ yếu là tinh thần. Mục đích động cơ ứng dụng toàn bộ năng lực có
được vào thực tiễn sao cho phù hợp với mục tiêu cụ thể của từng môn học, cấp
học, bậc học nói riêng và mục tiêu giáo dục cuối cùng nói chung. Đáp ứng được
yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Tóm lại, ta có thể hiểu “chất lượng giáo dục” ở đây là quá trình tác động
có hệ thống vào con người, để con người có thêm năng lực, phẩm chất cần thiết
theo mục tiêu giáo dục. Có nghĩa là quá trình tác động có hệ thống để đào tạo
con người có phẩm chất đạo đức tốt, có tri thức toàn diện để tiếp thu tri thức
khoa học tiến bộ của nhân loại, có tri thức để đáp ứng yêu cầu của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, có sức khoẻ, có thẩm mỹ, trung thành với lý tưởng
Trang 20
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cho nên chất lượng giáo dục chính là hiệu
quả giáo dục.
Mục tiêu của cấp Trung học cơ sở là hình thành và phát triển ở học sinh
những phẩm chất, kiến thức, kỹ năng cơ bản làm cơ sở để tiếp tục học lên hoặc
đi vào cuộc sống. Vì vậy, học sinh Trung học cơ sở phải đạt được những năng
lực chủ yếu sau đây:

Năng lực thích ứng với thay đổi trong thực tiễn để người học có thẻ tự
chủ, tự lập trong lao động, trong cuộc sống và hoà nhịp với môi trường nghề
nghiệp.
Năng lực hành động trên cơ sở nhận thức tức là học để làm trên nền tảng
học để biết.
Năng lực ứng xử biết sống nhân ái và có trách nhiệm với bản thân, gia
đình và cộng đồng xã hội.
Năng lực tự khẳng định: Sống tự tin tự trọng, trung thực, năng động, học
tập và lao động độc lập sáng tạo linh hoạt và biết tự học.

Trang 21
Chương 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010
2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ
HỘI
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên và dân cư
- Vị trí địa lý: Thanh Chương là một huyện miền núi nằm về phía Tây
Nam của tỉnh Nghệ An, cách trung tâm thành phố Vinh 46 km.
Phía Đông giáp huyện Đô Lương và Nam Đàn.
Phía Tây giáp tỉnh Phu La Khăm Xay- Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,
có chiều dài đường biên giới Việt - Lào dài 56 km.
Phía Nam giáp huyện Hương Sơn , Hà Tĩnh
Phía Bắc giáp huyện Anh Sơn và Đô Lương.
Diện tích tự nhiên 112.636 ha có 39 xã, 1 thị trấn phân bố 6 vùng kinh tế
khác nhau, có 29 xã miền núi trong đó có 6 xã miền núi vùng cao.
Có con Sông Lam với chiều dài 51 km chảy dài từ đầu huyện đến cuối
huyện, chia cắt huyện Thanh Chương thành hai vùng tả ngạn và hữu ngạn.
Ngoài ra, còn có nhiều con sông suối lớn nhỏ khác như: sông Trai dài:

26 km; sông Rộ dài 30 km; sông Giăng dài 38 km; Hói Nậy dài 19 km; Hói
Triều dài 10 km; Hói Lâm dài 7 km.
Phía Tả ngạn có 14 xã, 1 thị trấn với diện tích tự nhiên 13.660 ha.
Phía Hữu ngạn có 26 xã với diện tích tự nhiên 98.796 ha. Có 52 km
đường Hồ Chí Minh đi qua 12 xã.
- Địa hình: Địa hình đa dạng, phức tạp, có núi cao nối liền dãy Trường
Sơn và một số đồng bằng hẹp. Bình độ thấp dần về phía tả ngạn tạo thành thung
lũng lòng máng mà đường cực đại là dãy Trường Sơn, đường cực tiểu là sông
Lam. Có những đỉnh núi cao, điển hình như vùng cao Vều có đỉnh cao 1202 mét,
Vũ Trụ 987 mét, Toóc Hao 975 mét, Đại Can 528 mét, Tháp Bút 397 mét.
Trang 22
- Tài nguyên đất, rừng, khoáng sản: Tổng quĩ đất toàn huyện 110. 264 ha
(trừ diện tích sông suối núi đá) chiếm 98%. Trong đó diện tích đất rừng chiếm
36,32%, diện tích đất nông nghiệp chiếm 15,97%; diện tích đất chuyên dùng là
2,95%; diện tích đất chưa sử dụng 39,85%. Khoáng sản gồm có đá vôi, cát, sỏi
trữ lượng lớn phân bổ tương đối đều ở các vùng. Chất lượng cát, sỏi tốt, cát mịn
ít tạp chất.
- Khí hậu: Thanh Chương có khí hậu mang tính nhiệt đới nóng ẩm. Mùa
hè nắng nhiều, kéo theo gió Lào khô hạn, mùa mưa thường gây ra lũ lụt và bão
lớn đe dọa.
2.1.2. Đặc điểm dân số, lao động, việc làm
Thanh Chương là huyện có dân số đông, lực lượng lao động dồi dào:
- Về dân số: Tính đến ngày 31/12/2009, toàn huyện có 252.213 người.
Trong đó dân số nữ có 121.119 người. Dân số trong độ tuổi lao động: 112.324
người chiếm 52,5% . Hộ nông nghiệp: 40.685 hộ; có 119 374 khẩu. Lao động
nông nghiệp: 93.716 người chiếm 88, 76%. Số lao động tiểu thương và dịch vụ
thương nghiệp: 2.879 người. Số lao động công nghiệp xây dựng: 8.990 người
chiếm 8, 51%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên tính đến 31/12/2009 là 6,9%o
Lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao, phần lớn chưa được đào tạo,
trình độ tay nghề còn thấp. Trong lúc đó diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ

thấp trong tổng quĩ đất của toàn huyện, nếu không có chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơ cấu ngành phù hợp thì Thanh Chương vẫn còn là huyện khó khăn trong phát
triển kinh tế và thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo.
2.1.3. Đặc điểm kinh tế
Đại hội huyện Đảng bộ khóa 28 đã xác định Thanh Chương là một
huyện nghèo có điểm xuất phát thấp. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
IX) về thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tỉnh ủy Nghệ An đã có Nghị
quyết 11 về thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Thanh Chương, Quỳnh Lưu là hai điểm được tỉnh chọn làm điểm chỉ đạo thực
hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Trong những năm qua thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng, sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy -UBND
tỉnh cùng với sự nỗ lực hết mình của Đảng bộ và nhân dân huyện nhà nên cơ sở
Trang 23
hạ tầng được đầu tư xây dựng tương đối lớn. Có quốc lộ 46 và đường Hồ Chí
Minh chạy qua; cửa khẩu Thanh Thủy đang được xây dựng nối liền với nước
bạn Lào và các tỉnh Đông Bắc Thái Lan, Nhà máy chế biến tinh bột sắn của công
ty INTIMEX đi vào sử dụng bước đầu có hệu quả, ba xí nghiệp chế biến chè
đang từng bước cải tiến nâng công suất, chất lượng sản phẩm. Do đó mục tiêu
chủ yếu về phát triển kinh tế của Thanh Chương là:
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, tăng năng suất, chất
lượng cây trồng, vật nuôi, đảm bảo an ninh lương thực, tăng nhanh giá trị thu
nhập trên một đơn vị diện tích, xây dựng các mô hình trang trại, cánh đồng 50
triệu đồng /ha để nhân ra diện rộng.
- Mở rộng diện tích trồng cây chè công nghiệp thuộc các xã vùng hữu
ngạn trên diện tích đất đồi, phục vụ nguyên liệu cho 3 xí nghiệp chế biến chè.
- Tập trung trồng cây nguyên liệu sắn, đặc biệt là sắn cao sản phục vụ đủ
nguyên liệu cho nhà máy chế biến tinh bột sắn.
- Thực hiện giao đất, giao rừng bằng các dự án, cơ chế chính sách trồng
cây nguyên liệu giấy, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc tăng độ che phủ của rừng,
bảo vệ môi trường sinh thái.

- Chuyển dịch cơ cấu ngành, tăng tỷ trọng giá trị công nghiệp dịch vụ,
kêu gọi các nhà đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu du lịch sinh thái dọc
đường Hồ Chí Minh, đường lên cửa khẩu Thanh Thủy.
- Duy trì phát triển các làng nghề truyền thống như làm nón ở xã Đồng
Văn, mộc ở xã Thanh Tường, mây tre đan xuất khẩu, đan lát ở xã Thanh Lĩnh,
thêu Ren ở xã Thanh Tiên...
2.1.4. Đặc điểm văn hóa - xã hội
Nhân dân Thanh Chương có truyền thống cách mạng, truyền thống hiếu
học, cần cù, chịu khó trong lao động sản xuất. Truyền thống ấy đã được thử
thách qua nhiều thời kỳ lịch sử. Mặt bằng dân trí tương đối đều, có kinh nghiệm
trong sản xuất, nhưng còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân
mang nặng tính bảo thủ, trì trệ, trông chờ ỷ lại, chậm đổi mới trong cơ chế thị
trường.
Trang 24
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh, Thanh Chương đã
đạt được những thành tựu đáng kể.
- Về giáo dục và đào tạo
Giáo dục Mầm non: Bước vào năm học 2009-2010, toàn huyện co 41
trường mầm non: Huy động 1861/7445 =25,01% cháu trong độ tuổi nhà trẻ;
7377/8901= 82,8% cháu trong độ tuổi mẫu giáo. Tổng số Giáo viên nhà trẻ: 193
người, Giáo viên mẫu giáo: 417 người
Giáo dục Tiểu học: Tổng số trường: 44 tường, tổng số lớp: 659 lớp, tổng
số học sinh: 16 599 em, tổng số giáo viên: 974 người (tỷ lệ 1,47 gv/lớp)
Giáo dục trung học cơ sở: Tổng số trường: 42 tường, tổng số lớp: 546 lớp,
tổng số học sinh: 19854 em, tổng số giáo viên: 1 086 người (tỷ lệ 1,99 gv/lớp)
Trung học phổ thông: Tổng số trường: 07 tường, tổng số lớp: 255 lớp,
tổng số học sinh: 11 864 em, tổng số giáo viên: 529 người (tỷ lệ 2,07 gv/lớp)
Trong những năm qua các cấp học, trường học trong toàn huyện với
phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm đã tập trung xây dựng kiên cố hóa
trường học, đến nay không có lớp học tranh, tre tạm bợ. Với sự phấn đấu của đội

ngũ giáo viên và học sinh đến nay đã có 21 trường đạt chuẩn quốc gia và 75% số
trường đạt đơn vị văn hóa.
- Về y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
Trung tâm y tế huyện: 1 cơ sở; Phòng khám đa khoa: 2 cơ sở; Trạm y tế
xã 40 cơ sở. Bước đầu cơ sở vật chất, giường bệnh, đội ngũ y bác sĩ đã đáp ứng
một phần về chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Song nhìn chung cơ sở vật chất,
nhất là các trạm y tế xã chưa đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh. Đội ngũ bác sĩ
còn quá mỏng, tính bình quân 7.255 người mới có 1 bác sĩ, đây là một vấn đề mà
ngành y tế và lãnh đạo địa phương cần phải quan tâm, có cơ chế chính sách
khuyến khích người đi học và thu hút nhân tài để phục vụ chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân.
- Về văn hóa - thể dục thể thao
Trang 25

×