Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 2011 Thành công, thất bại và một số khuyến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.68 KB, 21 trang )

Môn học : KINH TẾ VĨ MÔ QUỐC TẾ
Họ và tên : Nguyễn Thị Thùy Dung
Chuyên ngành : Kinh tế học
Hệ : Sau đại học
Trường : Đại học Kinh tế Quốc dân
Đề bài: Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 2011: Thành công,
thất bại và một số khuyến nghị.
Bài làm:
Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là sự so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng
tiền của hai nước khác nhau. Cũng có thể gọi tỷ giá hối đoái là giá của
một đồng tiền này tính bằng giá của một đồng tiền khác.
Sự hình thành TGHĐ là quá trình tác động của nhiều yếu tố chủ
quan và khách quan. Nhưng nhìn chung, có ba yếu tố chính tác động đến
tỷ giá. Đó là mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, độ lệch về lãi suất và lạm
phát giữa các nước.
Cung cầu về ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp
đến sự biến động của tỷ giá hối đoái. Cung cầu ngoại tệ lại chịu sự ảnh
hưởng của nhiều yếu tố khác nhau trong đó có cán cân thanh toán quốc
tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa có thể dẫn đến khả năng cung
ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và ngược lại. Sự cân bằng của cán cân
thanh toán quốc tế lại phụ thuộc vào các nguốn cung và cầu ngoại tệ cấu
thành nên cán cân thanh toán quốc tế. Khi nền kinh tế có mức tăng
trưởng ổn định, nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu sẽ tăng do đó
nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán hàng nhập khẩu tăng lên. Ngược lại,
khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì các hoạt động sản xuất
kinh doanh và xuất nhập khẩu bị đình trệ làm cho nguồn cung ngoại tệ
giảm đi. Trong khi nhu cầu nhập khẩu chưa kịp thời được điều chỉnh
trong ngắn hạn việc giảm cung ngoại tệ sẽ đẩy tỷ giá lên cao.
Mức chênh lệch về lãi suất giữa các nước là yếu tố thứ hai ảnh
huờng đến TGHĐ. Nước nào có lãi suất tiền gửi ngắn hạn cao hơn lãi
suất tiền gửi của các nước khác thì vốn ngắn hạn sẽ chảy vào nhằm thu


phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra, do đó sẽ làm cho cung ngoại tệ tăng
lên, TGHĐ sẽ giảm xuống.
Mức chênh lệch lạm phát của hai nước cũng ảnh hưởng đến sự biến
động của tỷ giá. Giả sử trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, năng suất
lao động của hai nước tương đương như nhau, cơ chế quản lý ngoại hối
tự do, khi đó tỷ giá biến động phụ thuộc vào mức chênh lệch lạm phát
của hai đồng tiền. Nước nào có mức độ lạm phát lớn hơn thì đồng tiền
của nước đó bị mất giá so với đồng tiền nước còn lại.
Chênh lệch lạm phát dựa vào thuyết ngang giá sức mua của đồng
tiền PPP. Theo thuyết này, mức giá của một nước tăng lên tương đối so
với mức tăng giá của nước khác trong dài hạn sẽ làm cho đồng tiền của
nước đó giảm giá và ngược lại. Như vậy, yếu tố chênh lệch lạm phát chỉ
có ảnh hưởng đến biến động của tỷ giá trong dài hạn. Việc nghiên cứu
yếu tố này để làm cơ sở dự đoán biến động của tỷ giá trong ngắn hạn sẽ
đem lại kết quả không đáng tin cậy.
Ngoài những yếu tố nêu trên TGHĐ còn chịu ảnh hưởng của các
yếu tố khác, chẳng hạn như yếu tố tâm lý, chính sách của chính phủ, uy
tín của đồng tiền…
Nhìn chung, TGHĐ biến động tăng hoặc giảm là do tác động của
nhiều yếu tố khác nhau. Do đó, để có một mức tỷ giá phù hợp cho từng
thời kỳ, chúng ta cần phải xác định được các yếu tố chủ quan, khách
quan; trực tiếp và gián tiếp tác động lên tỷ giá. Trên cơ sở đó, mà đưa ra
những quyết định chính sách đúng đắn trong việc điều hành tỷ giá nhằm
đạt các mục tiêu kinh tế cụ thể.
TGHĐ chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau nhưng đồng thời
nó cũng tác động tới nhiều mặt khác nhau của nền kinh tế trong đó quan
trọng nhất là tới hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư, tín dụng quốc tế.
Sự biến động của TGHĐ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động ngoại
thương thông qua kênh giá cả. Dựa trên TGHĐ, chúng ta có thể tính
được giá xuất nhập khẩu của một loại hàng hoá của một nước theo tiền tệ

của một nước khác. Vì vậy, tỷ giá thay đổi kéo theo sự thay đổi của giá
cả hàng hoá xuất nhập khẩu. Chúng ta hãy cùng xem xét tình huống sau.
Chẳng hạn khi TGHĐ tăng, đồng nội tệ mất giá. Sự biến động này có lợi
cho hoạt động xuất khẩu vì giá xuất khẩu của hàng hoá và dịch vụ của
nước đó sẽ giảm đi tương đối trên thị trường nước ngoài, với điều kiện
giá cả hàng hoá và dịch cụ đó giữ ở mức ổn định trên thị trường nội địa.
Do đó, sẽ góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ
của nước đó. Khi TGHĐ tăng, giá cả hàng nhập khẩu sẽ đắt lên tương
đối trên thị trường nội địa với điều kiện giá nhập khẩu ổn định. Chính vì
vậy mà một số nước sử dụng chinh sách phá giá đồng nội tệ để hạn chế
nhập khẩu.
Ngoài ra, TGHĐ tăng hay giảm còn có ảnh hường không nhỏ tới
dòng vốn ngoại tệ lưu chuyển giữa các nước tức tới hoạt động đầu tư và
tín dụng quốc tế. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau.
Vậy NHNN đã điều hành chính sách tỷ giá trong năm 2011 như thế
nào? Kết quả ra sao và kinh nghiệm rút ra là gì?
1. Bối cảnh:
Ngày 11/02/2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNH) đã có một quyết
định tương đối bất ngờ là điều chỉnh tỷ giá USD/VND tăng khá cao so
với những lần điều chỉnh khác, tăng 9,3% đồng thời giảm biên độ giao
động từ (+/-3%) xuống còn (+/-1%). Nguyên nhân của lần điều chỉnh
này là do:
• Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng lạm phát hai con số và
có xu hướng tăng cao trở lại, lạm phát tháng 01/2011 đã ở mức
1,74%
• Nhập siêu kéo dài trong nhiều năm đã làm sụt giảm nguồn dự trữ
ngoại hối, tăng nợ quốc gia và gây sức ép giảm giá đồng nội tệ.
Thâm hụt cán cân vãng lai lớn cùng với thâm hụt ngân sách cao, nợ
công có xu hướng tăng nhanh (từ 45% GDP năm 2008 lên gần 60%

GDP vào năm 2011) là những trở ngại lớn cho sự phát triển kinh tế
trong những năm tới đây
• Dự trữ ngoại tệ của nước ta giảm xuống mức thấp đáng báo động
do tình trạng nhập siêu cao và kéo dài, có thể làm mất khả năng
nhập khẩu và trả nợ, đồng thời khó có thể can thiệp vào thị trường
ngoại hối khi cần thiết.
• Lãi suất huy động vốn của các NHTM có xu hướng tăng, các
NHTM đua nhau “xé rào” lãi suất bằng nhiều hình thức làm cho
VND tăng giá so với USD, dẫn tới tình trạng nhập siêu ngày càng
nghiêm trọng hơn.
• Từ lâu ở Việt Nam tồn tại cơ chế hai tỷ giá, chính thức và thị
trường tự do khiến cho các doanh nghiệp và người dân gặp khó
khăn, việc quản lý thị trường ngoại hối của Nhà nước gặp nhiều trở
ngại. Các nhà đầu tư nước ngoài e ngại đầu tư vào Việt Nam vì lo
ngại rủi ro tỷ giá, ngoại tệ chạy ngầm từ thị trường chính thức sang
thị trường chợ đen vì giá cao hơn, ngoại tệ trở nên khan hiếm.
Trong khi dự trữ ngoại hối của nước ta mỏng, Chính phủ nhiều khi
bất lực trước việc đầu cơ, thao túng giá USD trên thị trường tự do.
Các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc hạch toán chi phí vì
phải mua ngoại tệ ở thị trường tự do với giá cao nhưng lại phải
“phù phép” làm hợp lý hóa chi phí thực phải bỏ ra (vì tỷ giá giao
dịch chính thức do NHNN quy định thấp hơn làm cho thị trường tài
chính và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam thiếu
minh bạch và tin cậy.
Ngoại trừ cú sốc điều chỉnh tỷ giá tăng đến 9,3%, mức tăng mạnh
nhất trong lịch sử của thị trường ngoại hối Việt Nam vào ngày 9/2 cộng
với việc siết biên độ từ +/-3% xuống còn +/-1%, năm 2011 được xem là
một năm thành công của chính sách điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà
nước.
Trái ngược với những lo lắng của các chuyên gia kinh tế về cú sốc

tỷ giá sẽ diễn ra những tháng cuối năm 2011, thực tế đã chứng minh thị
trường ngoại hối trong những ngày cuối năm vẫn ở trong trạng thái bình
ổn. Sau những lần điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng một
cách linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước, tỷ giá trần của các ngân hàng
thương mại giữ vững ở mức 21.036 đồng/USD. Trong khi đó, giá USD
tự do ngày 26/12 mua vào - bán ra ổn định ở 21.270 - 21.300 đồng/USD,
cao hơn tỷ giá ngân hàng gần 300 đồng.
Đánh giá một cách công bằng, sự bất ổn định của tỷ giá trong ba
tháng đầu năm 2011 là kết quả của chính sách tỷ giá năm 2010 để lại. Sự
căng thẳng của thị trường ngoại hối đã bắt đầu từ tháng 10/2010 nhưng
không được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh kịp thời. Áp lực của thị
trường ngoại hối đè nặng lên vai những người điều hành chính sách tỷ
giá vào những tháng cuối năm 2010 và đầu năm 2011.
Điều chỉnh tăng tỷ giá USD tới 9,3%, một con số gây bất ngờ cho
những nhà quan sát thị trường ngoại hối vào thời điểm 9/2. Tuy nhiên,
sự ổn định của tỷ giá trong hơn 7 tháng còn lại của năm 2011 cho thấy
sự đúng đắn biện pháp điều chỉnh mạnh tay tỷ giá của Ngân hàng Nhà
nước. Kể từ tháng 8/2011, hai động thái điều hành tỷ giá xuất hiện. Thứ
nhất trong hai tháng 9 và 10, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) liên tiếp
bán ngoại tệ can thiệp sau khi Thống đốc tuyên bố tỷ giá không biến
động quá 1% cho đến cuối năm. Ước đoán khoảng 2 tỉ USD đã được
“bơm” vào thị trường nhằm kéo tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá chính
thức về gần nhau, chỉ còn chênh lệch khoảng 100-150 đồng/USD. Đây
là đợt can thiệp dồn dập, có hệ thống, có chủ đích và công khai nhất
trong nhiều năm trở lại đây.
Kế đó, NHNN bắt đầu điều hành linh hoạt tỷ giá bằng 15 lần điều
chỉnh tỷ giá công bố hàng ngày. Sự linh hoạt này khiến thay vì nhìn vào
tỷ giá thị trường tự do, giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
quay sang nhìn vào tỷ giá công bố chính thức.
Cùng lúc, các giao dịch ngoại tệ qua một đồng tiền thứ ba (chủ yếu

là Euro, Đô la Úc, Đô la Canada, Singapore ) được mở lại. Hai năm
trước, giao dịch ngoại hối qua một đồng tiền thứ ba bị cấm hoàn toàn.
Bây giờ NHNN không nói rõ là “hết cấm”, song gần như lờ hẳn việc các
ngân hàng mời chào doanh nghiệp giao dịch ngoại tệ khác thay thế.
Bên cạnh việc điều chỉnh tỷ giá theo tín hiệu thị trường, Ngân hàng
Nhà nước cũng đã áp dụng các biện pháp hành chính khác như áp trần
lãi suất huy động USD của các ngân hàng thương mại từ 6% về còn
dưới 2%, thực hiện kết hối và mở rộng đối tượng kết hối, xử lý một loạt
các giao dịch ngoại hối bất hợp pháp trên thị trường tự do. Tất cả những
biện pháp hành chính mạnh tay đó cộng với chênh lệch lãi suất VND và
USD cao đã giúp nguồn USD từ thị trường chuyển sang VND một cách
hiệu quả, giúp bình ổn thị trường ngoại hối. Trong khi đó, việc lãi suất
huy động tiền đồng đứng ở mức cao và chưa có dấu hiệu rời khỏi trần
14%/năm khiến các nhà xuất khẩu tăng các hợp đồng kỳ hạn bán ngoại
tệ cho ngân hàng trước khi ngoại tệ về để lấy tiền đồng. Sự găm giữ
ngoại tệ giảm hẳn, bằng chứng rõ nhất là số tiền ký gửi thanh toán quốc
tế trên tài khoản tụt xuống nhanh chóng.
2. Những thành công đạt được:
Việc thực thi các chính sách một cách quyết liệt, đồng bộ đã mang
lại những thành công đáng kể trong việc điều hành chính sách tỷ giá của
Ngân hàng Nhà nước, cụ thể như sau:
- Ổn định giá USD: Giá USD đến cuối năm 2011 duy trì ổn định ở
mức 21.036 VNĐ/USD. Việc ổn định giá USD có ý nghĩa rất lớn
và được coi là một điểm sáng trong điều hành chính sách của Nhà
nước.
TỶ GIÁ TRUNG BÌNH ĐỒNG ĐÔLA MỸ SO VỚI VIỆT NAM ĐỒNG
CÁC THÁNG 2011
(Nguồn: Website Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam -
)
Năm 2011, giá USD có 5 tháng giảm, 7 tháng tăng và tính chung cả

năm chỉ tăng 2,24%, thấp hơn nhiều so với giá tiêu dùng (18,13%)
và giá vàng (24,09%). Năm 2011, giá USD cũng tăng thấp nhất so
với 3 năm trước đó (2008 tăng 6,31%, 2009 tăng 10,7%, 2010 tăng
9,68%) (Nguồn: Website Tổng cục Thống kê).
Thị trường ngoại tệ tự do đã thu hẹp đáng kể; tỷ giá trên thị trường
tự do đã giảm khá mạnh trong thời gian dài hiếm thấy. Giá USD
trên thị trường tự do từ chỗ cao hơn thị trường chính thức có lúc tới
gần 2.000 VND/USD (gần 10%), đã giảm xuống mức thấp chỉ còn
200- 300 VND/USD hay 1-2%; thậm chí có lúc còn thấp hơn. Tỷ
giá trên thị trường chính thức mức tối đa có lúc còn thấp hơn tỷ giá
liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày.
Trong 2 năm trước, cán cân thanh toán tổng thể bị thâm hụt lớn,
làm cho lượng ngoại tệ dự trữ bị giảm mạnh, có lúc chỉ còn tương
đương với 3,5 tuần nhập khẩu, thì nay, nhờ tỷ giá ổn định và giảm
liền trong 4 tháng giữa năm, Ngân hàng Nhà nước đã mua vào
được một lượng khá ngoại tệ để tăng dự trữ. Đây là trạng thái mới
của năm nay khác hẳn với 2 năm trước.
- Tỷ giá VND/USD ổn định đã góp phần chống tình trạng “đô la
hóa”, giảm bớt sự bất ổn tâm lý kỳ vọng lạm phát, một kết quả
quan trọng và là một yếu tố góp phần làm cho CPI tăng chậm lại từ
tháng 5.
- Sự ổn định của tỷ giá VND/USD càng có ý nghĩa, khi được thực
hiện trong điều kiện CPI của Việt Nam cao hơn của các nước, trong
điều kiện trong dư luận còn có lúc chưa tin tưởng về khả năng ổn
định thị trường.
- Việc điều chỉnh tỷ giá thực hiện theo tín hiệu thị trường, tránh tình
trạng để sức ép bị dồn tích lại buộc phải tăng và khi tăng lại phải
tăng với tốc độ quá cao (như đã xảy ra vào ngày 9/2/2011).
- Thay đổi phương thức điều hành tỷ giá. Trước đây, việc điều hành
tỷ giá thường mang tính “giật cục”, cứ khoảng 6 tháng 1 lần tăng

với tốc độ khá cao. Phương thức điều hành mới mà Ngân hàng Nhà
nước áp dụng thông qua việc công bố tỷ giá giao dịch trên thị
trường liên ngân hàng hàng ngày, mỗi lần chỉ tăng 5-10 đồng, nên
có ưu điểm là ít gây sốc, các nhà đầu cơ làm giá cũng khó “đón
lõng”; mức độ điều chỉnh mỗi lần thường không lớn, sóng nhỏ, nên
việc “lướt sóng” cũng khó thực hiện.
- Áp trần lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại đối với
USD ở mức 2% để hạ mạnh lãi suất từ 6% trước đó xuống, thấp xa
so với lãi suất huy động VND đã tác động đến 2 mặt. Một mặt, thúc
đẩy người dân bán ngoại tệ cho ngân hàng, chuyển từ quan hệ vay
sang quan hệ mua đứt đoạn. Mặt khác, lãi suất huy động VND cao
hơn so với huy động bằng USD nên khuyến khích người có USD
bán cho ngân hàng lấy VND gửi tiết kiệm.
- Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các ngành, các cấp trong việc
thanh tra, xử lý việc niêm yết giá mua bán bằng ngoại tệ, các tụ
điểm giao dịch ngoại tệ hiệu quả và bước đầu đủ sức răn đe.
3. Những hạn chế còn tồn tại:
Tuy nhiên, chính sách điều hành tỷ giá năm 2011 vẫn còn một số
hạn chế như sau:
- Việc tăng tỷ giá đột biến vào đầu tháng 02/2011 làm cho nền kinh
tế rơi vào lạm phát tăng cao liên tục trong những tháng đầu năm,
các nhà đầu tư bi quan hơn vào các cơ hội đầu tư, thị trường chứng
khoán và bất động sản không khởi sắc. Trước hết việc tăng tỷ giá là
làm gia tăng chi phí của các nhà sản xuất. Giá các hàng hoá cơ bản
như xăng dầu, phân bón, dược phẩm đã tăng mạnh làm hầu hết các
hàng hoá đến tay người tiêu dùng bị tăng theo. Chỉ số giá tiêu dùng
vì vậy sẽ bị ảnh hưởng trong các tháng tới. Để tiếp tục kiềm chế
lạm phát, lãi suất sẽ tiếp tục phải duy trì ở mức cao trong thời gian
tới. Điều này có thể khiến nền kinh tế rơi vào vòng luẩn quẩn: kiềm
chế lạm phát thì tăng lãi suất, lãi suất tăng khiến chi phí đầu vào

tăng dẫn tới lạm phát chi phí đẩy và lại tăng lãi suất.
- Việc phá giá VND sẽ khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài đã và
đang đầu tư ở thị trường chứng khoán Việt Nam bị thua lỗ do thị
trường giảm điểm liên tục, giá trị đầu tư quy ra USD bị giảm sút
nghiêm trọng. Ngoài ra, việc điều chỉnh tỷ giá khiến các nhà đầu tư
nước ngoài gánh thêm khoản thiệt hại về tỷ giá.
- Đối với các doanh nghiệp có tỷ lệ vay nợ bằng USD cao sẽ phải
gánh chịu thêm một gánh nặng nợ “từ trên trời rơi xuống” từ ngày
điều chỉnh tỷ giá, buộc các doanh nghiệp này phải tiến hành lập dự
phòng rủi ro tỷ giá cuối năm, làm giảm lợi nhuận và tăng trưởng kỳ
vọng của các nhà đầu tư với các công ty trên. Còn các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh phụ thuộc phần lớn vào nhập khẩu
nguyên liệu từ nước ngoài sẽ phải chịu mức tổn thất lớn do giá
nguyên liệu nhập khẩu tăng cao, đẩy giá thành tăng, giảm tính cạnh
tranh và tác động làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
4. Khuyến nghị chính sách:
Mặc dù còn một số hạn chế, chủ yếu là vào những tháng đầu năm
2011, sự điều hành chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước được coi
là thành công và là một trong những nguyên nhân có tầm quan trọng
hàng đầu. Tuy nhiên, sự ổn định hiện nay của tỷ giá mới chỉ là bước đầu.
Do đó, để ổn định tỷ giá, cần thực hiện nhiều giải pháp nhằm phát huy
hơn nữa những kết quả tích cực, cụ thể như sau:
- Một là, tiếp tục phối hợp kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm các đại
lý thu đổi ngoại tệ, các giao dịch thanh toán trực tiếp bằng USD.
- Hai là, rà soát việc cung ứng ngoại tệ để giảm thiểu, đi đến loại trừ
tình trạng vay USD, đổi ra VND rồi gửi ngược lại ngân hàng
hưởng để chênh lệch lãi suất, khi đáo hạn lại mua USD trên thị
trường tự do trả nợ ngân hàng.
- Ba là, làm quyết liệt hơn nữa việc kiềm chế nhập siêu bằng nhiều
giải pháp. Về lâu dài và cơ bản là nâng cao hiệu quả và sức cạnh

tranh, đổi mới cơ cấu sản xuất, xuất khẩu, phát triển công nghiệp
hỗ trợ,… Cần có các hàng rào kỹ thuật, cần có thuế suất thuế tiêu
thụ đặc biệt cao hơn đối với những mặt hàng cần hạn chế nhập
khẩu. Đẩy mạnh cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng
hàng Việt Nam”. Không ham rẻ để nhập khẩu thiết bị - công nghệ
thấp đang được các nước thải loại trong quá trình chuyển giao từ
công nghệ thấp lên công nghệ cao, công nghệ nguồn, vì nó ảnh
hưởng lâu dài đến hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt
Nam,…
- Bốn là, nhất quán, đồng bộ, quyết liệt hơn để chống tình trạng “đô
la hóa”, để hút USD đang tồn đọng ở trong nước của các doanh
nghiệp, cá nhân nhằm tăng nguồn dự trữ ngoại tệ. Chính yếu tố này
thời gian qua đã góp phần ổn định tỷ giá ở trong nước, tăng dự trữ
ngoại tệ của Nhà nước.
- Năm là, đẩy mạnh việc thu hút ngoại tệ từ các nguồn; đẩy mạnh
tuyên truyền, nâng cao lòng tin của doanh nghiệp, người dân vào
đồng tiền quốc gia, vào các biện pháp chống lạm phát của Chính
phủ.
- Sáu là, định giá vàng, kéo giá vàng ở trong nước xuống thấp hơn,
hoặc ngang bằng, hoặc chỉ cao hơn trong giới hạn mà việc dùng
USD nhập lậu vàng.

×