Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

luận văn chuyên ngành bảo hiểm MỤC TIÊU QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÀI CHÍNH BẢO HIỂM XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.93 KB, 31 trang )

Trường đại học kinh tế quốc dân
BÀI TẬP LỚN MÔN
BẢO HIỂM DOANH NGHIỆP
NỘI DUNG :
MỤC TIÊU QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
TÀI CHÍNH BẢO HIỂM XÃ HỘI
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. TÔ THIÊN HƯƠNG
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 4
LỚP TÍN CHỈ: BẢO HIỂM DOANH NGHIỆP (110)_3
Hà Nội, 11/2010
1
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN
1.Nguyễn Thị Xuân :trưởng nhóm- Thực trạng và giải pháp
cho vấn đề Quản lý Nhà nước về Tài chính BHXH.
2.Lê Thị Hằng :Đặt vấn đề.
3.Phạm Thị Nhung :Khái quát về BHXH và Tài chính
BHXH.
4. Lê Thị Thủy: Mục tiêu của quản lý nhà nước về Tài
chính BHXH.
5. Nguyễn Thị Hải Hậu: Mục tiêu của quản lý nhà nước về
Tài chính BHXH.
6. Bùi Thị Thanh: Thực trạng và giải pháp cho vấn đề Quản
lý Nhà nước về Tài chính BHXH.
7. Lê Thị Thu Thủy: Tổng Hợp và Kết Luận.
2
MỤC LỤC
A. Đặt vấn đề 3
B. Nội dung 5
I. Khái quát về BHXH và Tài chính BHXH 5
1. Khái niệm BHXH 5
2. Tài chính BHXH 6


II. Mục tiêu của Quản lý Nhà nước về Tài chính BHXH 8
1. Tổ chức Quản lý BHXH 8
2. Mục tiêu của Quản lý Nhà nước về Tài chính BHXH 13
III. Thực trạng và giải pháp cho vấn đề Quản lý Nhà nước về Tài chính
BHXH 23
1. Thực trạng vấn đề Quản lý Nhà nước về Tài chính BHXH 23
2. Giải pháp cho vấn đề Quản lý Nhà nước về Tài chính BHXH 27
C. Kết luận 29
3
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bảo hiểm xã hội –một nội dung quan trọng của Đảng và nhà nước ta
trong việc nâng cao và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. Xuất
phát từ những yêu cầu thực tế khi mà đất nước ngày một hội nhập và phát
triển, đời sống của người dân không ngừng được nâng cao và cải thiện, bảo
hiểm xã hội ra đời nhằm đảm bảo cuộc sống vật chất, ổn định cuộc sống cho
người lao động và gia đình họ trong các trường hợp ốm đau, thai sản, suy
giảm khả năng lao động, không có việc làm, nghỉ hưu hoặc chết. Chính sách
bảo hiểm xã hội được thực hiện ở nước ta trong những ngày đầu thành lập
nước, hơn 60 năm qua, trong quá trình tổ chức và thực hiện chính sách bảo
hiểm xã hội không ngừng được hoàn thiện và bổ sung cho phù hợp với tình
hình của đất nước. Cùng với quá trình đổi mới của nền kinh tế từ sau đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) chính sách BHXH và tổ chức hoạt
động có nhiều đổi mới tích cực.
Trong quá trình đổi mới, BHXH thực sự là một chính sách quan trọng
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. BHXH không những ổn
định cuộc sống cho những người lao động mà còn khuyến khích họ tích cực
tham gia lao động sản xuất tạo ra của cải, xây dựng đất nước. Trong quá
trình thực hiện BHXH đã không ngừng tăng cả về chất lượng lẫn số lượng.
Số ngươi tham gia BHXH ngày một, mở rộng đối tượng tham gia, hoàn
thiện dần chính sách tiến tới thực hiện đủ các tiêu chuẩn của tổ chức lao

động quốc tế (ILO). Đặc biệt là sự đổi mới về cơ chế quản lí từ cơ chế kế
hoạch hóa ,tập trung, bao cấp hoàn toàn do ngân sách nhà nước đảm bảo
sang cơ chế có thu và quỹ hoạt động trên nguyên tắc cân bằng thu chi. Cách
thực hiện như vậy không những giảm được gánh nặng cho NSNN mà còn
thể hiện trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động.
4
Nhà nước đóng vai trò tổ chức thực hiện và quản lí BHXH thông qua hệ
thống ngành được tổ chức dọc từ trung ương đến địa phương.
Bên cạnh những mặt đạt được, BHXH còn rất nhiều những tồn tại cả
về nội dung, tổ chức quản lí và hoạt động cần sớm được khắc phục. Đây là
những đòi hỏi cấp thiêt nhằm hoàn thiện chính sách và tổ chức quản lí của
BHXH Việt Nam. Trong đó quản lí tài chính BHXH là một mảng lớn cần
được chú trọng và quan tâm vì tài chính BHXH có vững thì các chế độ trợ
cấp mới đảm bảo được thực hiện tốt mà không dẫn đến tình trạng thâm hụt
NSNN. Vai trò của nhà nươc trong quản lí tài chính BHXH là vô cùng quan
trọng, giúp cho BHXH ngay môt phát triển và hoàn thiện. Sau đây chúng tôi
sẽ đề cập đến muc tiêu của quản lý nhà nước về tài chính BHXH.
5
B. NỘI DUNG
I) KHÁI QUÁT VỀ BHXH VÀ TÀI CHÍNH BHXH
1) Khái niệm về BHXH
BHXH là sự cần thiết tất yếu khách quan gắn liền với sự phát triển của
nền kinh tế.
BHXH đã được từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa như sau:
“ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho
người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử
tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia
BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn
đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm

an toàn xã hội.”
Qua khái niệm trên, có thể rút ra một số điểm cơ bản sau:
Đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập của người lao động bị biến
động, giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động do các
biến cố như đã nêu trên từ đó để giúp ổn định cuộc sống của bản thân
người lao động và gia đình họ. Chính vì yếu tố này mà BHXH được coi là
một chính sách lớn của mỗi quốc gia và được Nhà nước quan tâm quản lí
chặt chẽ. Cũng tùy vào điều kiện kinh tế của mỗi nước mà các quy định
về đối tượng này là có sự khác nhau nhưng cùng bảo đảm ổn đình đời
sống của người lao động.
Đối tượng tham gia BHXH là gồm người lao động và cả người sử
dụng lao động. Sở dĩ người lao động phải đóng phí vì chính họ là đối
tượng được hưởng BHXH khi gặp rủi ro. Người sử dụng lao động đóng
6
phí là thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm của họ đối với người lao động.
Và sự đóng góp trên là bắt buộc, ngoài ra còn có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Để điều hoà mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao
động, để gắn bó lợi ích giữa họ, Nhà nước đã đứng ra yêu cầu cả hai bên
cùng đóng góp và đây cũng là chính sách xã hội được thực hiện góp phần
ổn định cuộc sống một cách hiệu quả nhất.
Dựa vào bản chất và chức năng của BHXH mà Tổ chức Lao động
Quốc tế ( ILO) cũng đã đưa ra một định nghĩa khác như sau:
“ BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông
qua một loạt các biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của
Chính phủ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị
mất hoặc giảm mất thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động,
tuổi già, tàn tật và chết. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm
sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết.”
2. Tài chính BHXH
Khái niệm: Tài chính bảo hiểm xã hội là một quỹ tồn tại và hoạt

động độc lập, cơ chế thu chi của quỹ phải luôn đảm bảo cân đối, phải bảo
toàn và phát triển quỹ để bảo đảm quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm
xã hội.
Quỹ BHXH là quỹ độc lập với Ngân sách nhà nước, Quỹ hoạt động
theo cơ chế quản lý tài chính do Chính phủ ban hành và được quản lý tập
trung thống nhất trong hệ thống BHXH, được thực hiện hạch toán riêng
và cân đối thu chi theo từng quỹ thành phần. Theo quy định hiện hành
Quỹ BHXH có ba quỹ thành phần là: Quỹ hưu trí và trợ cấp; quỹ khám,
chữa bệnh bắt buộc; quỹ khám, chữa bệnh tự nguyện.
7
Qũy BHXH được hình thành từ các nguồn sau:
1. Đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động tham gia
BHXH, BHYT bắt buộc.
2. Nhà nước và hỗ trợ để đảm bảo các chế độ BHXH đối với người lao
động
3. Nhà nước hỗ trợ, đóng BHYT đối với người nghèo và đối tượng
chính sách.
4. Tiền sinh lời do thực hiện các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng
Quỹ BHXH.
5. Các nguồn thu hợp pháp khác.
Quỹ BHXH được sử dụng để chi:
Chi trả trợ cấp theo chế độ
1. Chi lương hưu (thường xuyên và một lần)
2. Trợ cấp cho người bị tai nạn lao động và người phục vụ người bị tai
nạn lao động; trang cấp dụng cụ cho người bị TNLĐ
3. Chi trợ cấp ốm đau, thai sản, BNN
4. Tiền tuất (định xuất cơ bản và nuôi dưỡng) và mai táng phí
5. Chi nghỉ dưỡng sức và phục hồi sức khỏe
6. Đóng BHYT theo quy định
7. Lệ phí chi trả

8. Các khoản khác nếu có
9. Thanh toán chi phí khám chữa bệnh nội, ngoại trú cho đối tượng
tham gia BHYT bắt buộc, tự nguyện gồm tiền khám, chẩn đoán và
8
điều trị, xét nghiệm, chiếu chụp X quang, thăm dò chức năng, thuộc
trong danh mục theo quy định của Bộ Y tế, máu, dịch truyền, các
thủ thuật, phẫu thuật, sử dụng vật tư, thiết bị y tế và giường bệnh.
Chi phí quản lí hoạt động bộ máy : chi trả tiền lương cho công nhân
viên làm việc trong công ty, chi cho hoạt động đầu tư x ây dựng cơ bản,
chi mua s ắm trang thiêt bị và tài sản cố định
Đầu tư tăng trưởng: khi quỹ dư sẽ tiến hành đầu tư tăng trưởng với
nguyên tắc: an toàn không chỉ bảo toàn vốn đầu tư về danh nghĩa mà còn
bảo toàn cả về giá trị thực tế; hiệu quả, nghĩa là phải có lời, điều này là
cần thiết cho bất kì hoạt động đầu tư nào; khả năng thanh toán nghĩa là có
khả năng chuyển khoản nhanh để đáp ứng khả năng chi trả các chế độ bảo
hiểm phát sinh; có lợi ích kinh tế xã hội
Quỹ BHXH trong hệ thống tài chính ở Việt Nam
Trong quá trình vận động, Quỹ BHXH có thể quan hệ trực tiếp với các
khâu tài chính Ngân sách Nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính tín
dụng, tài chính các tổ chức xã hội và hộ gia đình qua việc tạo lập quỹ dưới
hình thức thu BHXH, BHYT và sử dụng quỹ dưới hình thức chi trả các
chế độ BHXH, BHYT. Mặt khác thông qua thị trường tài chính, Quỹ
BHXH có quan hệ gián tiếp với các khâu tài chính khác trong hệ thống tài
chính khi nguồn tài chính của quỹ này tạm thời nhàn rỗi được sử dụng
giống như các quỹ tín dụng khác.
II) MỤC TIÊU CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÀI CHÍNH BHXH
1. Tổ chức quản lý BHXH
9
Quản lý BHXH chung nhất, được hiểu là sự tác động của chủ thể quản
lý vào đối tượng và khách thể quản lý trong các hoạt động của BHXH, nhằm

đạt được mục tiêu đề ra với những nguyên tắc và phương pháp quản lý phù
hợp với hệ thống quản lý chung của nền kinh tế. Quản lý BHXH cho thấy
phương thức quản lý BHXH và các cơ quan chức năng có nhiệm vụ quản lý
BHXH (bao gồm quản lý Nhà nước về BHXH và quản lý hoạt động sự
nghiệp BHXH). Do điều kiện kinh tế – xã hội và chính trị của mỗi nước
khác nhau nên hệ thống BHXH của các nước được xây dựng khác nhau và
vì vậy không có mô hình tổ chức BHXH chung cho tất cả các nước. Có một
số nước giao cho một bộ nào đó đảm nhận cả chức năng quản lý Nhà nước
về BHXH và tổ chức thực hiện các nghiệp vụ BHXH. Đa số các nước hoạt
động sự nghiệp BHXH (quản lý quỹ, quản lý đối tượng, thực hiện thu – chi
BHXH) được giao cho cơ quan BHXH độc lập đảm nhận dưới sự điều hành
của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng quản lý. Tuy nhiên, dù có tổ chức thế
nào thì vẫn có hai nội dung quan trọng, đó là quản lý Nhà nước về BHXH và
quản lý các hoạt động sự nghiệp BHXH.
Quản lý Nhà nước về BHXH
BHXH là một chính sách xã hội của mỗi nước vì vậy phải có sự quản
lý các hoạt động BHXH. Quản lý Nhà nước về BHXH là một trong các hoạt
động quản lý đó. Quản lý Nhà nước về BHXH xuất phát từ chức năng xã hội
của Nhà nước. Quản lý Nhà nước về BHXH được thể hiện thông qua một số
nội dung cơ bản sau:
- Quản lý thống nhất các hoạt động BHXH trên phạm vi toàn quốc gia:
Dù hệ thống tổ chức và cách thức quản lý của các quốc gia có khác nhau,
nhưng việc các quốc gia đều có sự quản lý thống nhất các hoạt động BHXH.
10
Việc quản lý thống nhất thể hiện qua việc chỉ có Nhà nước mới ban hành
chính sách vĩ mô định hướng hoạt động của cả hệ thống BHXH. Nhà nước
định ra các chế độ BHXH, các nội dung cơ bản của BHXH; các chính sách
BHXH đối với các nhóm đối tượng cụ thể, phù hợp với điều kiện kinh tế –
xã hội của đất nước trong từng gia đoạn phát triển.
- Xây dựng pháp luật BHXH:

Một trong những chức năng cơ bản của quản lý Nhà nước về BHXH là công
tác xây dựng văn bản pháp luật BHXH. Nhà nước, thông qua các cơ quan
chức năng của mình (tùy theo mô hình quản lý Nhà nước của mỗi nước) xây
dựng các văn bản pháp luật về BHXH bao gồm các đạo luật, các luật, các
văn bản pháp quy (Nghi định, quyết định…) và các văn bản dưới luật để
thực hiện pháp luật BHXH thống nhất trong phạm vi quốc gia. Khác với bảo
hiểm thương mại, Nhà nước chỉ ban hành những điều, những nội dung cơ
bản nhất còn các chính sách, chiến lược cụ thể là do các công ty bảo hiểm
thực hiện, đối với BHXH, Nhà nước quy định bằng văn bản pháp luật rất cụ
thể và chặt chẽ các nội dung của chính sách BHXH, các cơ quan BHXH
không được tự ý đặt ra bất kỳ chế độ, bất kỳ quy định nào. Vì vậy, xây dựng
pháp luật BHXH có thể coi là chức năng quan trọng nhất của quản lý Nhà
nước về BHXH.
- Định hướng các hoạt động BHXH:
Với chức năng của mình, Nhà nước đề ra các chính sách BHXH nhằm định
hướng cho các hoạt động BHXH phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã
hội của đất nước trong từng thời kỳ, bao gồm:
+ Thứ nhất, định hướng chính sách:
11
BHXH là một chính sách mở cả về nội dung và phương thức thực hiện.
Không phải ngay một lúc, một thời điểm nội dung các chế độ đã được xây
dựng đầy đủ mà tuỳ từng thời kỳ, các nội dung này được bổ sung dần dần.
Tuy nhiên, bổ sung, sửa đổi như thế nào phải cân nhắc đến tất cả các yếu tố
kinh tế – xã hội và có thời kỳ cả yếu tố chính trị nữa. ở một số nước ban đầu
chỉ xây dựng một vài chế độ (chủ yếu là hưu trí và ốm đau) sau đó mới mở
rộng dần các chế độ BHXH khác. Việc mở rộng đối tượng, mở rộng nội
dung chế độ BHXH và cơ chế thực hiện BHXH là do Nhà nước quy định.
Ngoài ra, Nhà nước còn định hướng về mô hình tổ chức hệ thống BHXH.
Có những nước, ngoài hệ thống BHXH chính thống của Nhà nước còn có hệ
thống BHXH của tư nhân, hệ thống BHXH của một số ngành…

+ Thứ hai, định hướng tài chính BHXH:
Tài chính BHXH là một trong những hoạt động cơ bản của BHXH. Để
hoạt động này có hiệu quả, phục vụ cho các đối tượng thụ hưởng BHXH và
góp phần lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, Nhà nước ra những quy
định về mức đóng, mức hưởng BHXH; quy định trách nhiệm của các bên
khi tham gia BHXH; quy định các chế độ và quản lý quỹ BHXH; quy định
về kiểm tra, kiểm toán… Ngoài ra, với vai trò là người quản lý xã hội, Nhà
nước định hướng đầu tư để tăng trưởng quỹ BHXH (đầu tư vào những lĩnh
vực nào, đầu tư như thế nào…). Mặc dù ở nhiều nước, hoạt động đầu tư quỹ
BHXH do Hội đồng quản trị quyết định, nhưng Nhà nước vẫn giữ vai trò
định hướng để đảm bảo an toàn cho quỹ BHXH.
- Thực hiện thanh tra, kiểm tra các hoạt động sự nghiệp BHXH:
Song song với việc hoạch định chính sách BHXH, Nhà nước tổ chức các
hoạt động sự nghiệp BHXH. Để các hoạt động này đúng định hướng, với
12
chức năng của mình, Nhà nước thực hiện việc thanh tra, kiểm tra các hoạt
động sự nghiệp BHXH theo quy định của pháp luật, xử lý các khiếu kiện,
các tranh chấp về BHXH theo luật định. Trong hoạt động BHXH có các bên
liên quan như người lao động, người sử dụng lao động với những lợi ích
khác nhau và vì vậy thường có những sự lạm dụng, lợi dụng pháp luật
BHXH để trục lợi cho mình. Mặt khác, chính sách BHXH là chính sách phát
triển và phức tạp nên trong quá trình thực hiện cả người lao động, người sử
dụng lao động và cơ quan BHXH khó tránh khỏi những sai sót. Do đó, thanh
tra, kiểm tra các hoạt động BHXH là cần thiết nhằm đảm bảo cho các bên
liên quan thực hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, đồng thời đảm
bảo quyền lợi hợp pháp của họ.
- Bảo hộ và bảo trợ cho các hoạt động BHXH:
Khác với các loại hình bảo hiểm khác, BHXH dù mô hình hoạt động khác
nhau nhưng đều nhằm đảm bảo an sinh xã hội. Vì vậy, Nhà nước luôn luôn
bảo hộ và bảo trợ cho các hoạt động BHXH, nhằm đảm bảo cho BHXH

không bị ảnh hưởng trước những biến động về kinh tế và xã hội, đặc biệt là
những biến động về tài chính. Sự bảo hộ và bảo trợ của Nhà nước đối với
các hoạt động của BHXH thể hiện ở một số điểm sau:
+ Bảo đảm giá trị của quỹ BHXH trong các tài khoản tại ngân hàng để đảm
bảo mức chi trả cho đối tượng hưởng BHXH.
+ Bảo đảm các trợ cấp BHXH cho các đối tượng thụ hưởng BHXH trước
những biến động kinh tế - xã hộ và chính trị.
+ Bảo hộ cho quỹ BHXH trong các hoạt động đầu tư, sinh lời. Nhà nước ưu
tiên cho quỹ BHXH được đầu tư phần quỹ nhàn rỗi vào những lĩnh vực an
13
toàn, rủi ro thấp nhất và thuận lợi khi thu hồi vốn để kịp thời chi trả các
khoản chi BHXH khi có nhu cầu lớn.
+ Không đánh thuế hoặc đánh thuế thấp đối với các dự án đầu tư của quỹ
BHXH.
+ Hỗ trợ về tài chính cho quỹ BHXH trong những trường hợp quỹ BHXH bị
thâm hụt vì những lý do bất khả kháng ….
2. Mục tiêu của quản lý nhà nước về tài chính BHXH
Theo nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ, hệ thống
BHXH được thành lập đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, sự quản
lí Nhà nước của Bộ lao động- thương binh xã hội và các cơ quan quản lí Nhà
nước có liên quan, sự giám sát của tổ chức công đoàn.
* Mô hình cơ cấu tổ chức BHXH việt nam.
14
* Chế độ tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam phải đảm bảo các
mục đích và yêu cầu sau đây:
1. Hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Bảo hiểm xã hội Việt Nam theo
quy định của Nhà nước.
15
Phát huy những thành tích đã đạt được, đồng thời tiếp tục triển khai
Chỉ thị số 39/CT/TW ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị cũng như Chỉ thị số

17/CT-TTg ngày 8/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ về phát động phong
trào thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn
2006-2010 và những năm tiếp theo, trong thời gian tới với sự quản lý của
Nhà Nước toàn ngành BHXH đã xác định quyết tâm phấn đấu hoàn thành
thắng lợi nhiệm vụ trong giai đoạn tới với mục tiêu cụ thể:
Thi đua thực hiện thắng lợi, toàn diện nhiệm vụ chính trị được giao,
bằng mọi biện pháp phấn đấu tăng nhanh số người tham gia BHXH, BHYT
ở mọi thành phần kinh tế, phấn đấu đến năm 2014 thực hiện BHYT toàn
dân, thực hiện BHXH cho mọi người NLĐ vào những năm tiếp theo; giải
quyết đúng, đủ chế độ, chính sách, chi trả đầy đủ, kịp thời lương hưu, trợ
cấp BHXH cho NLĐ; phối kết hợp chặt chẽ với các cơ sở y tế đảm bảo
quyền lợi về KCB cho người tham gia BHYT theo quy định của pháp luật.
Phấn đấu triển khai thực hiện thành công mục tiêu phát triển ngành BHXH
giai đoạn 2011-2015.
Đẩy mạnh áp dụng công nghệ hiện đại vào công tác quản lý, cải tiến,
đổi mới quy trình nghiệp vụ, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,
hoàn thiện và chuẩn hóa các quy trình quản lý, đơn giản và công khai hóa
các quy trình thủ tục hồ sơ trong hoạt động nghiệp vụ, giảm thiểu tối đa thủ
tục giấy tờ không cần thiết, đẩy nhanh tiến độ giải quyết tạo điều kiện thuận
lợi cho NLĐ và nhân dân khi tham gia BHXH, BHYT.
Tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong giai đoạn tới; xây dựng kiện toàn tổ chức bộ máy; chú trọng công
tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao năng lực chỉ đạo và tổ chức thực
16
hiện của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhất là trình độ chuyên môn
và ý thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân.
Thực hiện tốt kỷ cương, kỷ luật hành chính, tăng cường công tác kiểm
tra giám sát hoạt độngt hực hiện nhiệm vụ trong toàn hệ thống. Tăng cường
quan hệ phối hợp phát huy dân chủ, công khai; giữ vững và phát huy mối
đoàn kết nhằm tạo ra sự thống nhất cao giữa chỉ đạo công tác chuyên môn,

tổ chức Đảng và các tổ chức đoàn thể, quần chúng trong từng đơn vị.
Bám sát mục tiêu, chiến lược của Ngành để tiếp tục duy trì và tổ chức
phát động các phong trào thi đua thường xuyên sâu rộng và đều khắp trong
toàn Ngành. Quán triệt sâu sắc, đầy đủ theo đúng tinh thần các văn bản chỉ
đạo của Đảng và Nhà nước làm chuyển biến cơ bản về nhận thức đổi mới
công tác thi đua, khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức trong
toàn Ngành. Tiếp tục hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đổi mới nội dung,
hình thức các phong trào thi đua cho phù hợp với tình hình thực tiễn của
từng đơn vị, chú trọng đến công tác xây dựng gương điển hình, nhân điển
hình tiên tiến.
Tại Đại hội, Thứ trưởng, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Lê Bạch
Hồng đã phát động phong trào thi đua yêu nước của ngành BHXH Việt Nam
trong giai đoạn 2011-2015 với nội dung: “Chung sức đồng lòng, tận tụy,
sáng tạo, quyết tâm phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp
phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra là Xây dựng
hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống BHXH, BHYT,
tiến tới thực hiện BHXH cho mọi NLĐ và thực hiện BHYT toàn dân”.
17
Tổng Giám đốc nhấn mạnh, yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn mới đòi hỏi
ngành BHXH phải đẩy mạnh hơn nữa các phong trào thi đua và nhân rộng
các điển hình tiên tiến theo tinh thần Chỉ thị số 39/CT/TW của Bộ Chính trị,
để phong trào thi đua trong toàn Ngành thực sự trở thành đòn bẩy và là
nguộn động viên cổ vũ lớn đối với toàn thể cán bộ, công chức, viên chức,
tạo nền tảng và niềm tin để toàn Ngành bước vào giai đoạn mới, phấn đấu
hoàn thành xuất sắc toàn diện hơn nữa nhiệm vụ được giao, xứng đáng với
sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
2. Đổi mới cơ chế tài chính, cơ chế quản lý lao động, quản lý và sử dụng
kinh phí hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác; thực
hành tiết kiệm chống lãng phí để tạo điều kiện đầu tư phát triển đơn vị,

tăng thu nhập, cải thiện đời sống cán bộ, viên chức và gắn trách nhiệm
với lợi ích của cán bộ, viên chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong
hoạt động nghiệp vụ.
Đổi mới trong giải quyết chế độ chính sách BHXH, BHYT, phục vụ
ngày càng chu đáo, tận tình người tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH,
BHYT. Để làm tốt nhiệm vụ này, Ngành đã đưa ra nhiều cải tiến, đổi mới
trong việc giải quyết chế độ, chính sách cho NLĐ và nhân dân khi tham gia
BHXH, BHYT. Việc áp dụng cơ chế “Một cửa” đã trở thành bước đột phá
trong khâu cải cách hành chính, giúp cho việc giải quyết chế độ chính sách
được nhanh chóng, thuận tiện, rút ngắn được thời gian chờ đợi của đối
tượng. Từ năm 2006 đến năm 2010, toàn Ngành đã giải quyết kịp thời, đúng
chế độ chính sách cho trên 22 triệu lượt người hưởng các chế độ BHXH
như: chế độ hưu trí, trợ cấp một lần, TNLĐ, bệnh nghề nghiệp và trợ cấp ốm
đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe…
18
BHXH Việt Nam cũng chỉ đạo BHXH các tỉnh, thành phố tích cực,
chủ động phối hợp với các cơ sở y tế tổ chức tốt công tác KCB BHYT, tập
trung xây dựng các quy định, quy trình giám định tạo thuận lợi cho người
bệnh, đảm bảo kịp thời và đầy đủ kinh phí cho cơ sở KCB BHYT và quản lý
KCB có hiệu quả, nâng cao chất lượng phục vụ ngày càng chu đáo, tận tình
người tham gia và thụ hưởng chế độ BHYT.
Quan hệ phối hợp của BHXH Việt Nam và các bộ, ngành liên quan
như Bộ LĐ-TB&XH, Bộ Y tế đã có bước đột phá và chuyển biến tích cực,
thông qua việc lãnh đạo các bên đồng thuận cùng xây dựng Quy chế phối
hợp để triển khai thực hiện từ trung ương xuống địa phương…
Toàn Ngành cũng quyết tâm thi đua thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, mở
rộng, tăng nhanh số người tham gia BHXH, BHYT. Đây được coi là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Ngành, là đầu vào hết sức quan
trọng để hình thành, phát triển quỹ BHXH, quỹ BHYT đáp ứng khả năng chi
trả các chế độ cho NLĐ và nhân dân. BHXH Việt Nam đã thường xuyên chỉ

đạo BHXH các tỉnh chủ động tích cực phối hợp với các ngành liên quan để
nắm tình hình lao động, việc làm của các đơn vị SDLĐ; xây dựng văn bản
hướng dẫn nghiệp vụ thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT đúng với các quy định
của pháp luật… Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền chế độ chính sách
BHXH, BHYT theo cơ chế “Đóng- Hưởng- Cộng đồng chia sẻ”, tuyên
truyền giải thích để NLĐ, chủ SDLĐ và nhân dân hiểu, nhận thức đúng về
quyền và nghĩa vụ tham gia BHXH, BHYT từ đó tích cực, tự giác tham
gia…
Chính vì vậy, số đối tượng tham gia BHXH, BHYT đã tăng mạnh qua
các năm: năm 2006 mới có trên 6,7 triệu người tham gia BHXH thì đến năm
19
2010 ước có 9,5 triệu người tham gia, tăng gấp 1,4 lần; đối tượng tham gia
BHYT đến nay đã có 52,5 triệu người, chiếm khoảng 65,6% dân số. Số thu
BHXH, BHYT năm sau đều cao hơn năm trước, năm 2006 thu trên 23.500 tỉ
đồng đến năm 2010 số thu ước tính sẽ là trên 79.000 tỉ đồng, tăng 3,3 lần…
Cùng với đó, Ngành cũng coi trọng và tập trung thực hiện mục tiêu hiện đại
hóa và kết hợp giữa hiện đại hóa với việc đẩy mạnh cải cách hành chính.
Trong đó, tập trung việc áp dụng công nghệ hiện đại vào quản lý các hoạt
động của Ngành để nâng cao chất lượng phục vụ, mang lại hiệu quả cao
trong công việc như: xây dựng các chương trình phần mềm quản lý đối
tượng, giám định BHYT, thống kê chi phí KCB… Chú trọng công tác cải
cách hành chính và xác định đây là khâu then chốt để nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Ngành. Thực hiện Đề án đơn giản hóa thủ tục hành
chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010, BHXH Việt
Nam đã tổng hợp, công bố Bộ thủ tục hành chính của Ngành với 263 thủ tục
và hiện tại đang tiếp tục rà soát, loại bỏ ít nhất 30% thủ tục hành chính
không cần thiết theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ để tạo điều kiện
thuận lợi cho người tham gia và thụ hưởng BHXH, BHYT. Không ngừng
củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy cán bộ, phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ chính trị được giao.

3. Thúc đẩy việc tổ chức, sắp xếp công việc khoa học, tổ chức bộ máy
tinh gọn, nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện các nhiệm vụ BHXH.
Thực hiện Chỉ thị số 39/CT/TW ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị về
việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi
dưỡng, tổng kết nhân rộng điển hình tiên tiến, BHXH Việt Nam đã không
ngừng đổi mới phương thức và tổ chức sâu rộng phong trào thi đua yêu
20
nước, nhân rộng gương điển hình tiên tiến trong toàn hệ thống nhằm tạo
động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân hăng hái thi đua hoàn thành xuất sắc
các nhiệm vụ được giao.
Phong trào thi đua của Ngành luôn bám sát nội dung hoạt động
chuyên môn nghiệp vụ trong từng thời kỳ, từng nhiệm vụ chính trị cụ thể
của toàn hệ thống cũng như từng đơn vị nhằm động viên khích lệ cán bộ
công chức phát huy cao nhất năng lực, trí tuệ, rèn luyện nâng cao trình độ
nghiệp vụ, đổi mới tư duy và phong cách làm việc, nỗ lực phấn đấu, hoàn
thành tốt nhiệm vụ chuyên môn. Điển hình như một số phong trào thi đua
qua các giai đoạn: thi đua hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu kế hoạch thu BHXH,
BHYT hằng năm; thi đua thu đúng, thu đủ, mở rộng, tăng nhanh số người
tham gia BHXH, BHYT; thi đua thực hiện tốt cơ chế “Một cửa” trong công
tác xét duyệt hồ sơ; áp dụng các sáng kiến kinh nghiệm, các chương trình
phần mềm nghiệp vụ…; hội thi tuyên truyền viên BHXH được thực hiện hầu
khắp tại các tỉnh, thành qua đó nâng cao hiểu biết cho mọi tầng lớp nhân dân
về chính sách, pháp luật BHXH, BHYT của Đảng và Nhà nước…
Thông qua việc thực hiện các phong trào thi đua gắn với nhiệm vụ
chuyên môn được giao, toàn Ngành đã có nhiều gương điển hình tiên tiến,
nhiều cán bộ, công chức, viên chức mẫn cán với công việc, thái độ và tác
phong lao động cần cù, sáng tạo, đồng thời tạo dựng tinh thần yêu nghề,
hăng say học tập, rèn luyện phẩm chất, năng lực của người công chức
BHXH.
Tiêu biểu cho phong trào cải tiến, đổi mới tổ chức thực hiện tốt công

tác giải quyết chế độ, chính sách BHXH tại BHXH các địa phương như: Tây
Ninh, TP.Hồ Chí Minh, Điện Biên, Yên Bái, Gia Lai, Đồng Tháp… Làm tốt
21
công tác mở rộng, khai thác đối tượng trong công tác thu như: BHXH TP.Hồ
Chí Minh, Đồng Nai, Đà Nẵng, Hà Nội, Quảng Ninh, Bình Dương… Có
nhiều biện pháp tổ chức tốt công tác chi trả, không quản ngại khó khăn, đảm
bảo chi trả an toàn đầy đủ cho các đối tượng thụ hưởng BHXH ở vùng sâu,
vùng xa được kịp thời như BHXH các tỉnh: Điện Biên, Cao Bằng, Nghệ An,
An Giang, Vĩnh Long, Lâm Đồng, Yên Bái… Cùng với những tập thể đơn
vị tiên tiến, đã có rất nhiều cán bộ BHXH tiêu biểu là tấm gương sáng trong
phong trào thi đua yêu nước tại các địa phương.
4. Thực hiện đúng các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và các quy
định hiện hành.
Danh sách một số văn bản về bảo hiểm xã hội.
STT Văn bản
1 Thông tư số 19/2001/TT-BTCCBCP ngày 25-4-2001
Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 71/2000/NĐ-CP ngày
23/11/2000 của Chính Phủ Quy định việc kéo dài thời gian công tác
của cán bộ, công chức đến độ tuổi nghỉ hưu
2 Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16-5-2005
Ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế
3 Luật số 71/2006/QH11 ngày 29-6-2006
Luật Bảo hiểm xã hội
4 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22-12-2006
Hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về Bảo hiểm xã
hội bắt buộc
5 Quyết định số 107/2007/QĐ-TTg ngày 13-7-2007
Về việc tính thời gian để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán
22
STT Văn bản

bộ, công chức, viên chức, công nhân, quân nhân và công an nhân
dân thuộc biên chế các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, các
tổ chức chính trị – xã hội, doanh nghiệp nhà nước, đơn vị lực lượng
vũ trang đã xuất cảnh hợp pháp nhưng không về nước đúng hạn
6 Nghị định số 143/2007/NĐ-CP ngày 10-9-2007
Quy định về thủ tục thực hiện nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức
đủ điều kiện nghỉ hưu
7 Thông tư số 24/2007/TT-BLĐTBXH ngày 09-11-2007
Thông tư Hướng dẫn tính thời gian để hưởng chế độ bảo hiểm xã
hội theo Quyết định số 107/2007/QĐ-TTg ngày 13/7/2007 của Thủ
tướng Chính phủ
8 Nghị định số 190/2007/NĐ-CP ngày 28-12-2007
Hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về Bảo hiểm xã
hội tự nguyện.
9 Công văn số 4730/BHXH-CĐCS ngày 21-12-2007
Về việc hướng dẫn thực hiện tính thời gian để hưởng chế độ bảo
hiểm xã hội theo Quyết định số 107/2007/QĐ-TTg
10 Thông tư số 31/2007/TT-BLĐTBXH ngày 28-12-2007
Hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ
cấp hằng tháng theo Nghị định số 184/2007/NĐ-CP ngày
17/12/2007 và Nghị định số 166/2007/NĐ-CP ngày 16/11/2007 của
Chính phủ
11 Thông tư số 02/2008/TT-BLĐTBXH ngày 31-01-2008
Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 190/2007/NĐ-
CP ngày 28/12/2007 của Chính phủ hướng dẫn thực hiện một số
điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện
23
STT Văn bản
12 Thông báo số 1155/BHXH–PT, ngày 08/10/2009
Hướng dẫn tham gia BH Xã hội, BH Y tế, BH Thất nghiệp

5. Thực hiện công khai tài chính theo quy định của pháp luật.
Quỹ BHXH tự nguyện được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai,
minh bạch được sử dụng đúng mục đích và hạch toán độc lập. Định kỳ 6
tháng, báo cáo Hội đồng quản lý về tình hình thực hiện BHXH tự nguyện.
Hàng năm, báo cáo Chính phủ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ
Tài chính về tình hình quản lý và sử dụng quỹ BHXH tự nguyện. Kê khai
đúng sự thật, không sửa chữa, tẩy xóa hoặc làm sai lệch những nội dung liên
quan đến việc đóng, hưởng BHXH tự nguyện.
III) THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÀI CHÍNH BHXH:
1. Thực trạng vấn đề quản lý nhà nước về tài chính BHXH
Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam (BHXH) đến hết năm 2009, số tồn
quỹ BHXH lên tới hơn 95.000 tỷ đồng. Mặc dù luôn được dự báo là mất khả
năng cân đối quỹ vào năm 2040, nhưng BHXH Việt Nam vẫn chưa tìm được
hướng đầu tư tối ưu để thu được lãi suất cao hơn, trong khi nguồn sinh lời
cho quỹ khó có thể bù đắp trong thời gian dài cho người nghỉ hưu, gia tăng
mức thụ hưởng cho người lao động mỗi khi tăng lương tối thiểu…
Tại cuộc họp với Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới đây, Bộ trưởng Bộ
LĐ-TB&XH Nguyễn Thị Kim Ngân, khi báo cáo về tình hình quản lý và sử
24
dụng quỹ BHXH trong 2 năm 2008, 2009, đã đề nghị xây dựng các chính
sách đầu tư, nghiên cứu thực hiện phân bổ quỹ mang tính chiến lược theo
hình thức đầu tư nhằm thu lại hiệu quả cao hơn. Bà Ngân cũng kiến nghị
hình thành tổ chức đầu tư chuyên nghiệp để bảo đảm an toàn và tăng trưởng
quỹ tốt. Thực tế, tổng quỹ thu bảo hiểm xã hội bắt buộc năm sau đều cao
hơn năm trước nhưng thấp hơn tốc độ điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu
và tổng số đối tượng tăng thêm. Điều đó cho thấy, việc thu quỹ bảo hiểm xã
hội bắt buộc vẫn thụ động, phụ thuộc vào việc đăng ký của tổ chức, doanh
nghiệp chứ cơ quan quản lý chưa kiểm soát được.
Qua báo cáo của các địa phương cũng cho thấy, việc xác định đơn vị

có sử dụng lao động phải tham gia bảo hiểm xã hội giữa các tỉnh là không
thống nhất. Hiện, có tỉnh dựa vào số liệu của Sở kế hoạch đầu tư cung cấp
rồi tiến hành rà soát, có tỉnh lại dựa vào số liệu của ngành thuế, tỉnh thì dựa
trên số liệu thống kê chung, cũng có tỉnh thì tổ chức phối hợp rà soát, điều
tra…nhưng nhìn chung vẫn trên tinh thần thụ động.
Các đơn vị bảo hiểm xã hội địa phương chỉ nắm và xác định được khá
chính xác số đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội thuộc các cơ quan hành
chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, còn đối với các doanh nghiệp khu
vực ngoài nhà nước, thì chưa xác định được đầy đủ và không quản lý được.
Nếu so sánh với số doanh nghiệp đã đăng ký thành lập, đang hoạt
động hiện nay là khoảng 260.000 doanh nghiệp (số liệu của Tổng cục Thống
kê) và số lao động đang làm công, hưởng lương, khoảng 14 triệu người, thì
số đối tượng chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo luật định còn rất
lớn, khoảng 30%, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh, doanhnghiệp vừa
và nhỏ, tổ chức và cá nhân kinh doanh có thuê mướn lao động. Thậm chí
việc trốn đóng bảo hiểm xã hội xảy ra cả trong khu vực nhà nước.
25

×