Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

luận văn chuyên ngành bảo hiểm Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.78 KB, 46 trang )

Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng em. Các kết quả
nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác. Các số liệu
trích dẫn và ví dụ trong luận văn đảm bảo tính chính xác tin cậy và trung thực. Em
đã hoàn thành tất cả các môn học theo qui định của Khoa Luật – Viện Đại học Mở
Hà Nội.
Vậy em viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để em có thể bảo vệ
luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Người cam đoan
Cao Thị Kim Anh
Xác nhận của giảng viên hướng dẫn
PGS. TS: Nguyễn Trung Tín
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo,
Phó Giáo sư- Tiến sĩ Nguyễn Trung Tín đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá
trình viết khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong khoa Luật, chuyên ngành
Luật quốc tế, Viện Đại học Mở Hà Nội đã giảng dạy và truyền đạt những kiến thức
cho em trong 4 năm học tập. Vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học tập là
nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận này.
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
MỤC LỤC
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
DANH MỤC BẢNG BIỂU


Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Trong cuộc sống luôn tồn tại nhiều rủi ro mà con người khó có thể phòng
tránh được như rủi ro về thiên tai, bệnh tật,…. Một trong những biện pháp chia sẻ
rủi ro mà con người tìm đến là bảo hiểm.
Trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động bảo hiểm không còn bó hẹp
trong mỗi quốc gia. Ngày càng nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam, cung cấp đa dạng các sản phẩm bảo hiểm. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam có nhu cầu vươn ra thị trường bảo hiểm các nước trong khu vực, cũng
như thế giới. Những hoạt động này đều là những hoạt động bảo hiểm có yếu tố
nước ngoài. Hầu hết chúng được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm có yếu tố
nước ngoài.
Sự ra đời của bảo hiểm gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa.
Trong đời sống và sản xuất, rủi ro luôn là nguy cơ tiềm ẩn thường xuất hiện và đưa
con người vào trạng thái bất ổn về tài chính. Bảo hiểm là một ngành dịch vụ tài
chính nhằm khắc phục tình trạng trên cho người đã tham gia bảo hiểm trên cơ sở
huy động số đông cá nhân, tổ chức tham gia bảo hiểm để xây dựng quỹ bảo hiểm.
Bằng quỹ bảo hiểm này có thế bù đắp một phần nào thiệt hại do rủi ro gây ra đối
với người tham gia bảo hiểm. Do đó, bảo hiểm là một biện pháp hữu hiệu và chắc
chắn để góp phần khắc phục hậu quả về tài chính do rủi ro mang đến, bình ổn cuộc
sống, đem lại sự yên tâm cho những người tham gia bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài là những thỏa thuận có tính đặc thù
và chịu sự điều chỉnh phức tạp của pháp luật. Hơn nữa, hiện nay, chưa có một văn
bản pháp luật nào trực tiếp điều chỉnh quan hệ xã hội này. Vì vậy, việc áp dụng
pháp luật trở nên khó khăn. Với những lý do đó, em đã lựa chọn đề tài “ Những
vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có
yếu tố nước ngoài” làm đề tài khóa luận.
2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu:

Với đề tài này, khóa luận tập trung nghiên cứu về hợp đồng bảo hiểm có yếu
tố nước ngoài trên cơ sở xem xét các quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm 2000,
Bộ luật dân sự 2005, các Điều ước quốc tế và các văn bản có liên quan khác. Trên
cơ sở đó, khóa luận đưa ra những đánh giá sơ bộ về những quy định về hợp đồng
bảo hiểm có yếu tố nước ngoài, qua đó, đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm có yếu
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
1
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
tố nước ngoài nói riêng.
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Trên nền tảng phương
pháp luận đó, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể sau: phương pháp phân tích
-tổng hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp phân tích lịch sử.
4. Bố cục và nội dung cơ bản:
Ngoài phần Lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
khóa luận được triển khai theo 2 chương sau:
- Chương 1: Khái quát chung về hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài và
pháp luật về hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
và một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước
ngoài.
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
2
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CÓ
YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI VÀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1.1Khái lược sự hình thành và phát triển của bảo hiểm có yếu tố nước ngoài:
Bảo hiểm là một quan hệ xã hội giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người mua
bảo hiểm được pháp luật điều chỉnh và bảo vệ, theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm
chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm và cam kết sẽ bồi thường cho người
được bảo hiểm hoặc trả tiền cho người thụ hưởng những tổn thất trong phạm vi bảo
hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, từ số tiền mà những người mua bảo hiểm đóng
phí bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Bảo hiểm có yếu tố nước ngoài góp mặt trên thị trường Việt Nam ngay từ
những ngày đầu tiên của thị trường bằng sự tham gia của các công ty bảo hiểm của
Pháp và Mỹ. Cho tới nay, trên thị trường Việt Nam mở cửa, bảo hiểm có yếu tố
nước ngoài đã có nhiều phát triển.
Sau kháng chiến chống Pháp, tại thị trường miền Bắc, chỉ có duy nhất một đại
lý cho công ty bảo hiểm nhân dân Trung Quốc (tiền thân của Bảo Việt ngày nay).
Thị trường bảo hiểm miền Nam dưới thời Mỹ - Ngụy phát triển hơn thị trường miền
Bắc với sự hoạt động của hơn 50 doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau và hầu hết là
các doanh nghiệp nước ngoài. Bằng Quyết định số 176/CP ngày 17/12/1964 của
Thủ tướng Chính phủ, công ty bảo hiểm Bảo Hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt)
ra đời và đi vào hoạt động, với hoạt động chủ yếu là tiến hành các hoạt động bảo
hiểm mang tính đối ngoại: bảo hiểm Nhà nước về hàng hóa vận chuyển bằng đường
biển và đội tàu biển của Việt Nam. Thời gian này, Bảo Việt giữ thế độc quyền trên
thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Tiếp theo đó, Nghị định 100/CP ngày 19/12/1993 của Chính Phủ quy định về
kinh doanh bảo hiểm ra đời đánh dấu mốc quan trọng trong việc hình thành một thị
trường bảo hiểm hoàn chỉnh ở Việt Nam. Nghị định 100/CP đã quy định rõ về địa vị
pháp lý của các doanh nghiệp bảo hiểm, chính thức mở cửa thị trường bảo hiểm cho
nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đáng chú ý là các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Từ năm 1993 đến 1999 ngoài Bảo Việt
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh

3
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
nhà nước đã cấp phép hoạt động cho hàng loạt doanh nghiệp như Bảo Minh,
VINARE, Bảo Long, PJICO, PVI, PTI. Cùng thời gian này, 3 công ty liên doanh
gồm VIA (Bảo Việt và công ty của Nhật), UIC (Bảo Minh và công ty của Nhật) và
công ty môi giới BV – AON cũng được gia nhập thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Như vậy, từ thời điểm Nghị định 100/CP ra đời, hàng loạt các doanh nghiệp bảo
hiểm được cấp phép hoạt động, trong đó sự ra đời của các doanh nghiệp bảo hiểm
có yếu tố nước ngoài, điều này có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của bảo hiểm
có yếu tố nước ngoài nói riêng và thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, Nghị định 100/CP còn quy định chung chung, đặc biệt các vấn đề
xung quanh hợp đồng bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài không
được đề cập chi tiết, cụ thể. Thêm vào đó, Nghị định 100/CP chưa đáp ứng được
yêu cầu với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bảo hiểm Việt Nam lúc này. Luật
kinh doanh bảo hiểm 2000 ra đời nhằm khắc phục những hạn chế đó. Một trong
những nội dung chủ yếu của Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 là quy định về hợp
đồng bảo hiểm. Bên cạnh đó, Luật này còn ghi nhận việc dẫn chiếu áp dụng đến Bộ
Luật dân sự và các quy định khác có liên quan, tạo cơ sở thống nhất cho việc điều
chỉnh quan hệ bảo hiểm, trong đó có hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài. Trên
cơ sở pháp lý được hoàn thiện, thị trường bảo hiểm có yếu tố nước ngoài phát triển
mạnh mẽ hơn. Trong giai đoạn này, nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đầu
tư vào Việt Nam. Việt Nam đã cấp phép cho 1 công ty bảo hiểm cổ phần ngoài quốc
doanh (Viễn Đông) và 2 công ty phi nhân thọ 100% vốn nước ngoài (Alianz, Group
Pama), 4 công ty bảo hiểm nhân thọ (Bảo Minh CMG, Prudential, Manu Life, AIA)
và tiếp tục cấp phép cho các công ty liên doanh khác: Việt Úc, SVI, IAI. Những
doanh nghiệp bảo hiểm này tham gia vào thị trường Việt Nam không những gia
tăng về số lượng mà còn có hiệu quả kinh doanh cao. Năm 2004, Công ty
Prudential Việt Nam (doanh nghiệp nước ngoài lớn nhất trong lĩnh vực bảo hiểm
nhân thọ) có mức lãi 61 tỷ đồng sau 5 năm hoạt động tại Việt Nam.
Giai đoạn 2005 – 2006 được coi là bước đệm cho tiến trình hội nhập kinh tế

thế giới của Việt Nam cũng như lộ trình mở cửa thị trường bảo hiểm, đón nhận sự
tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Nhiều công ty bảo hiểm có vốn đầu tư
nước ngoài được cấp phép hoạt động như AIG, QBE, ACE, Liberty, ACE Life,
Prevoir, New york Life. Trong giai đoạn này, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt
Nam bị chi phối bởi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài về cả số lượng
doanh nghiệp lẫn thị phần. Trên thị trường bảo hiểm nhân thọ chỉ có duy nhất một
công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam là Bảo Việt Nhân Thọ, còn lại là 7 công ty bảo
hiểm nhân thọ có vốn đầu tư nước ngoài. Tính đến hết năm 2005, thị phần của các
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
4
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trên thị trường như sau: Doanh nghiệp nhà nước
37,5%, công ty liên doanh 3,5%, công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài 59%.
1
Sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO (2007), theo
thống kê từ Bộ tài chính, cho tới năm 2008, thị trường bảo hiểm Việt Nam có 11
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 26 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 1 doanh
nghiệp tái bảo hiểm và 10 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm với tổng số vốn chủ sở
hữu gần 18.000 tỷ đồng; trong đó 21 doanh nghiệp bảo hiểm có vốn nước ngoài, bao
gồm: phi nhân thọ có 11 doanh nghiệp bảo hiểm có vốn nước ngoài (4 liên doanh),
nhân thọ có 10 doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài, môi giới bảo hiểm có 4
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
2
Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường
nhân thọ năm 2010 đạt 13.792 tỉ đồng. Cùng với Bảo Việt, Prudential (5.374 tỉ đồng)
và Manulife (1.460 tỉ đồng) là 3 doanh nghiệp dẫn đầu trên thị trường.
Những số liệu trên cho thấy thị trường bảo hiểm Việt Nam có sự phát triển
mạnh mẽ về chất lượng và số lượng doanh nghiệp bảo hiểm. Sự phát triển của
doanh nghiệp bảo hiểm cũng đồng nghĩa với việc hàng loạt các hợp đồng bảo hiểm
được kí kết. Trên thị trường bảo hiểm nhân thọ, Prudential và Manulife – hai doanh

nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài – luôn là những doanh nghiệp dẫn đầu. Tính
đến cuối năm 2009, Prudential chiếm hơn 40% thị phần bảo hiểm nhân thọ Việt
Nam. Năm 2010, tổng số hợp đồng có hiệu lực đến cuối kì đạt 4.2941.040 hợp
đồng. Trong đó, Prudential và Manulife là những doanh nghiệp bảo hiểm có nhiều
hợp đồng bảo hiểm tính theo sản phẩm chính: Prudential 1.808.442 hợp đồng và
Manulife 342.660 hợp đồng.
3
Thêm vào đó, bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu cũng là lĩnh vực bảo hiểm có
yếu tố nước ngoài. Lịch sử bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam đã có
từ lâu. Ngay từ khi thành lập, ngày 15/1/1965, Công ty bảo hiểm Việt Nam nay là
Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam đã được giao nhiệm vụ bảo hiểm cho hàng hóa
xuất nhập khẩu của nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, hai công ty
bảo hiểm là INGOSTRACKH của Liên Xô (cũ) và PICC Trung Quốc trong thời
gian này cũng tham gia bảo hiểm hàng hóa nhập khẩu vào nước ta. Tuy nhiên cho
đến nay, hoạt động bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu do các công ty bảo hiểm
Việt Nam tiến hành vẫn còn ở mức rất hạn chế, tốc độ tăng trưởng không cao, có
1
Chương trình phát triển Liên hợp quốc. Báo cáo nghiên cứu khả năng cạnh tranh và tác động của tự do hóa
thương mại dịch vụ tài chính: ngành bảo hiểm, tr. 15.
2
Thị trường bảo hiểm 2008: Tăng trưởng trong thách thức, khó khăn
/>kho-khan/ct-325079
3
/>viet-nam-nam-2010.html
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
5
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
giai đoạn theo chiều hướng giảm xuống. Tính đến cuối năm 2000, các nhà bảo hiểm
Việt Nam mới chỉ bảo hiểm được 4,7% kim ngạch hàng xuất khẩu và 23,26% kim
ngạch hàng nhập khẩu. Còn tính đến cuối năm 2010, Kim ngạch hàng hóa nhập

khẩu được bảo hiểm mới chỉ chiếm khoảng 35% kim ngạch hàng nhập, kim ngạch
hàng hóa xuất khẩu được bảo hiểm khoảng 5%.
4
Ngoài ra, bảo hiểm có yếu tố nước ngoài còn bao gồm hoạt động bảo hiểm của
các doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường nước ngoài. Hoạt động này được bắt đầu
từ năm 2004 với các hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các dự án dầu khí lớn
tại nước ngoài của công ty bảo hiểm Dầu khí Việt Nam. Cho tới nay, doanh nghiệp
bảo hiểm này đã ký kết được rất nhiều hợp đồng bảo hiểm cho các đối tác tại nước
ngoài với giá trị mỗi hợp đồng lên đến hàng trăm triệu USD. Hiện nay, khi thị
trường bảo hiểm trong nước có sự cạnh tranh gay gắt, nhiều doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam đã hướng tới việc khai thác các thị trường bảo hiểm nước ngoài khác như
Lào, Campuchia…
5
1.1.2 Vai trò của bảo hiểm có yếu tố nước ngoài:
Bảo hiểm có yếu tố nước ngoài có vai trò tích cực trong việc phát triển thị
trường bảo hiểm ở Việt Nam:
- Thứ nhất, bảo hiểm có yếu tố nước ngoài đã làm tăng tính cạnh tranh cho thị
trường bảo hiểm, tạo sức ép cho bảo hiểm trong nước phát triển.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động
với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch
vụ trên thị trường. Đặc trưng của nền kinh tế này là sự tự do cạnh tranh. Sự ra đời và
phát triển của bảo hiểm có yếu tố nước ngoài có nhiều ý nghĩa trong việc phát triển một
nền kinh tế thị trường ở nước ta, buộc các doanh nghiệp trong nước phải tăng khả năng
cạnh tranh của mình. Các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài thâm nhập vào thị trường
Việt Nam đều là các doanh nghiệp có chỉ số năng lực cạnh tranh rất cao như: tiềm lực
tài chính dồi dào; nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, chuyên nghiệp; hệ
thống quản lý rủi ro, công nghệ khoa học, tiên tiến. Với những điều kiện thuận lợi như
vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài sẽ cung cấp các dịch vụ bảo hiểm có chất
lượng cao cho thị trường. Khi đó, người mua bảo hiểm có nhiều sự lựa chọn hơn.
Doanh nghiệp bảo hiểm trong nước nếu không tự nâng cao năng lực của mình, đưa ra

4
/>nhp-khu-ngoai-tm-vi-ca-dn-&catid=20%3Atin-lien-quan&Itemid=32&lang=en
5
/>luu.html
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
6
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
thị trường những sản phẩm bảo hiểm tốt cho khách hàng lựa chọn thì sẽ khó có thể
cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài.
- Thứ hai, bảo hiểm nước ngoài đem đến cho thị trường bảo hiểm trong nước
nhiều sản phẩm bảo hiểm mới, làm gia tăng sự lựa chọn cho khách hàng. Theo
thống kê, năm 2007, trên thị trường có trên 700 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ,
hơn 100 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ được chào bán trên thị trường, thuộc 3 loại
hình bảo hiểm là: Bảo hiểm tài sản, Bảo hiểm trách nhiệm dân sự, Bảo hiểm con
người phi nhân thọ. Riêng loại hình bảo hiểm nhân thọ, chủng loại sản phẩm cũng
luôn được cải tiến để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân. Trong đó, các sản
phẩm bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp vùa có tính tiết kiệm vừa có tình rủi ro là sự lựa
chọn phổ biến của người mua bảo hiểm. Năm 2009 là năm bùng nổ sản phẩm bảo
hiểm mới, 100 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, 50 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
mới đưa ra thị trường, tạo sự lựa chọn và phục vụ chăm sóc khách hàng ngày một
tốt hơn. Những tháng đầu năm 2011, thị trường bảo hiểm sôi động với việc tung ra
thị trường hàng loạt các gói bảo hiểm mới, lạ để thu hút khách hàng của cả doanh
nghiệp bảo hiểm trong nước và nước ngoài. Mới đây, Công ty Bảo hiểm Liberty –
doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài đã chính thức giới thiệu sản
phẩm bảo hiểm sức khỏe mới mang tên Liberty MediCare dành cho các doanh
nghiệp, tổ chức và gia đình tại Việt Nam.
- Thứ ba, sự góp mặt của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam
cũng chính là cơ hội cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước học hỏi kinh
nghiệm. Nếu như đem so sánh với sự phát triển hàng trăm năm của lịch sử bảo hiểm
thế giới nói chung và của các tập đoàn bảo hiểm quốc tế nói riêng thì sự hình thành

và phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn quá non trẻ. Do vậy, thị
trường bảo hiểm Việt Nam trở thành sân chơi quốc tế cũng là cơ hội cho các doanh
nghiệp bảo hiểm trong nước học tập được kinh nghiệm của các doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài trong việc phát triển sản phẩm, phát triển kênh phân phối (qua môi
giới và đại lý bảo hiểm) kinh nghiệm quản lý rủi ro, sử dụng công nghệ thông tin và
thái độ phục vụ chăm sóc khách hàng.
- Thứ tư, đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, đặc biệt là đối với các hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế có sử dụng phương tiện vận tải đường biển thì bảo hiểm
có yếu tố nước ngoài có vai trò quan trọng. Phần lớn các hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế có điều khoản thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại quốc tế
INCOTERMS. Nếu hợp đồng này có áp dụng các điều kiện CIF (tiền hàng, bảo
hiểm và cước) hoặc điều kiện CIP (cước phí bảo hiểm và trả tới) thì việc thực hiện
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
7
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đó phải kèm theo việc thực hiện một hợp
đồng bảo hiểm cho hàng hóa được vận chuyển. Nếu bên có nghĩa vụ trong hợp
đồng mua bán hàng hóa không thực hiện nghĩa vụ của mình đối với việc bảo hiểm
hàng hóa thì hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bị vi phạm.
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài:
a. Khái niệm của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài:
Bộ luật dân sự 2005, Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 cũng như các văn bản
pháp lý có liên quan đều không đưa ra định nghĩa về hợp đồng bảo hiểm có yếu tố
nước ngoài mà chỉ đề cập đến các khái niệm: “hợp đồng bảo hiểm” và “quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài” như sau:
Bộ luật dân sự 2005 có ghi nhận tại Điều 567: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo
hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm”. Còn Luật kinh doanh bảo hiểm 2000, tại Điều 12, cũng đưa ra khái
niệm: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh

nghiệp bảo hiểm, theo đó, bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người
được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Mặc dù, về hình thức câu chữ khác
nhau, nhưng có thể thấy, hai khái niệm này cùng có sự thống nhất về bản chất của
hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận của bên mua bảo hiểm và bên doanh nghiệp
bảo hiểm; cùng nêu ra được cơ chế thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
Tại Điều 758 Bộ Luật dân sự 2005 đã đưa ra khái niệm: “quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ
quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là
các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt nam nhưng căn
cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh
tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.
Trên cơ sở sự tiếp cận trên, có thể hiểu hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước
ngoài là sự thỏa thuận giữa bên bảo hiểm (là doanh nghiệp Việt Nam hoặc doanh
nghiệp nước ngoài) và bên mua bảo hiểm (có quốc tịch Việt Nam hoặc nước ngoài)
theo đó, bên bảo hiểm chấp nhận rủi ro đối với các đối tượng bảo hiểm đang tồn tại
ở Việt Nam hay ở nước ngoài để cam kết trả tiền bảo hiểm cho người được bảo
hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra ở Việt Nam hay ở nước ngoài, với điều kiện bên
bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm.
b. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài:
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
8
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
Hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài trước hết là một loại hợp đồng bảo
hiểm nên nó mang các đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm, đó là:
- Hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng song vụ:
Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà trong đó các bên của hợp đồng đều có
nghĩa vụ đối với nhau. Quyền lợi của các bên trong hợp đồng phụ thuộc vào việc
thực hiện nghĩa vụ của bên kia. Trong hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm và
bên nhận bảo hiểm đều có nghĩa vụ với nhau: bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ đóng

phí bảo hiểm cho bên nhận bảo hiểm. Trên cơ sở số tiền phí bảo hiểm nhận được,
bên nhận bảo hiểm có nghĩa vụ phải trả một khoản tiền nhất định cho bên được bảo
hiểm khi rủi ro bảo hiểm xảy ra.
- Hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng may rủi:
Tính may rủi của hợp đồng bảo hiểm thể hiện ở chỗ: khi hợp đồng bảo hiểm
được kí kết, bên tham gia bảo hiểm phải thực hiện nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm.
Nhưng chỉ khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, bên nhận bảo hiểm mới phải thực hiện
nghĩa vụ trả tiền cho người thụ hưởng hoặc nghĩa vụ bồi thường cho người được
bảo hiểm. Trong khi đó, sự kiện bảo hiểm có xảy ra hay không là do rủi ro ngẫu
nhiên, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cả hai bên tham gia bảo hiểm và bên
nhận bảo hiểm. Vì lí do này mà hợp đồng bảo hiểm được coi là hợp đồng có tính
may rủi.
- Nội dung của hợp đồng bảo hiểm gồm những điều khoản chủ yếu do bên
doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo:
Do đặc thù của ngành bảo hiểm, dựa vào khả năng chấp nhận bảo hiểm và
những đặc điểm kĩ thuật của mình mà trong các mỗi hợp đồng bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm cố định những điều kiện cơ bản, quyết định quyền lợi và nghĩa vụ
của hai bên. Trên cơ sở đó, bên tham gia bảo hiểm chỉ có thể chấp nhận hay không
chấp nhận. Do vậy, hợp đồng bảo hiểm cũng là một loại hợp đồng soạn sẵn.
Tuy nhiên, quan hệ hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài là quan hệ tư
pháp quốc tế nên hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài còn có những đặc điểm
sau:
- Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài là hợp đồng có chứa
đựng yếu tố nước ngoài:
Theo lý luận tư pháp quốc tế Việt Nam, yếu tố nước ngoài của một hợp đồng
dân sự trong tư pháp quốc tế được thể hiện ở một trong các dấu hiệu: các bên chủ
thể ký kết hợp đồng có quốc tịch khác nhau; hợp đồng ký kết ở nước ngoài (nước
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
9
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài

các bên chủ thể không mang quốc tịch hoặc không có trụ sở); đối tượng của hợp
đồng là tài sản ở nước ngoài.
6
Trong khi đó, theo quy định của pháp luật nước Cộng
Hòa Pháp, sự tham gia của người nước ngoài không là yếu tố quyết định để cho
rằng có yếu tố nước ngoài. Do vậy, khái niệm “yếu tố nước ngoài” theo pháp luật
Việt Nam được hiểu rộng hơn so với pháp luật của Cộng Hòa Pháp.
7
Hợp đồng bảo
hiểm có yếu tố nước ngoài cũng là một hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài. Vì
vậy, nó cũng chứa đựng các yếu tố nước ngoài như trên.
Chủ thể của hợp đồng có quốc tịch khác nhau:
Trong hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài, chủ thể của hợp đồng có thể
là: bên bảo hiểm là doanh nghiệp bảo hiểm có quốc tịch nước ngoài; doanh nghiệp
bảo hiểm có quốc tịch Việt Nam với bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân Việt
Nam; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; và tổ chức, cá nhân có quốc tịch nước
ngoài. Vậy ở đây có thể thấy rằng, hợp đồng bảo hiểm có yếu tố chủ thể nước ngoài
sẽ là hợp đồng bảo hiểm được ký kết giữa:
+ Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá
nhân Việt Nam;
+ Doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam với bên mua bảo hiểm là người Việt Nam
định cư ở nước ngoài;
+ Doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam với bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân
có quốc tịch nước ngoài.
Đối tượng bảo hiểm tồn tại ở nước ngoài:
Một hợp đồng bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm tồn tại ở nước ngoài cũng là
hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài. Ví dụ: một doanh nghiệp Việt Nam tham
gia kí kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm X có quốc tịch Việt Nam
cho một lô hàng đang tồn tại ở Pháp. Hợp đồng bảo hiểm này là hợp đồng bảo hiểm
có yếu tố nước ngoài. Hoặc: bà A có quốc tịch Việt Nam kí kết hợp đồng bảo hiểm

nhân thọ với doanh nghiệp bảo hiểm B có quốc tịch Việt Nam cho con gái của bà A
là C. C đang sinh sống tại nước Anh. Hợp đồng bảo hiểm này cũng là hợp đồng bảo
hiểm có đối tượng bảo hiểm ở nước ngoài.
Nơi kí kết hợp đồng bảo hiểm ở nước ngoài::
Việc kí kết hợp đồng bảo hiểm chính là căn cứ xác lập quan hệ hợp đồng bảo
6
Xem thêm Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường Đại Học Luật Hà Nội. Chương V. Nxb Công an nhân dân ,
2008.
7
Xem thêm Ts Đỗ Văn Đại – PGS Ts Mai Hồng Quỳ (chủ biên), Tư pháp quốc tế Việt Nam., Tr. 26, Nxb
Chính trị Quốc gia, 2010.
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
10
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
hiểm. Nếu việc kí kết diễn ra ở nước ngoài – tức là căn cứ xác lập quan hệ hợp đồng
bảo hiểm phát sinh ở nước ngoài thì hợp đồng này cũng là hợp đồng bảo hiểm có
yếu tố nước ngoài. Ví dụ: một hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm của
Việt Nam với một công ty để bảo hiểm hàng hóa xuất khẩu sang Thái Lan. Hai
doanh nghiệp này cùng kí kết hợp đồng bảo hiểm ở Thái Lan. Đây là hợp đồng bảo
hiểm có sự kiện làm phát sinh hợp đồng bảo hiểm ở nước ngoài.
- Thứ hai, hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài chịu sự điều chỉnh pháp
luật phức tạp hơn so với hợp đồng bảo hiểm thông thường:
Hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài là một quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài – hay nói cách khác là một quan hệ tư pháp quốc tế. Vì thế nó có thể
chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật. Đối với hợp đồng bảo hiểm có sự
tham gia của nhiểu chủ thể có quốc tịch khác nhau thì trước hết, hợp đồng bảo hiểm
này phải tuân theo sự điều chỉnh pháp luật của nước mà các chủ thể mang quốc tịch.
Đối với hợp đồng bảo hiểm được ký kết ở nước ngoài thì luật điều chỉnh hợp đồng
không chỉ là luật của các bên chủ thể mang quốc tịch mà luật nơi ký kết hợp đồng
cũng có thể điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp đồng. Ngoài ra, trong trường

hợp các bên có cùng quốc tịch, hợp đồng được ký kết ở nước mà các bên mang
quốc tịch nhưng đối tượng của hợp đồng tồn tại ở nước ngoài, thì quyền và nghĩa vụ
của các bên trong hợp đồng này vừa phải chịu sự điều chỉnh của luật của nước mà
họ mang quốc tịch và luật của nước nơi đối tượng bảo hiểm đang tồn tại.
Cũng do việc có thể chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật nên vấn
đề xung đột luật được đặt ra khi xem xét hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài.
Xung đột pháp luật là hiện tượng pháp lý trong đó hai hay nhiều hệ thống pháp luật
cùng tham gia vào điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế mà nội dung điều chỉnh
trong mỗi hệ thống pháp luật lại khác nhau.
Có hai cách giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng bảo hiểm có yếu tố
nước ngoài: đó là phương pháp thực chất hoặc phương pháp xung đột.
Phương pháp xung đột được hình thành và xây dựng trên nền tảng hệ thống
các qui phạm xung đột quốc gia. Các quốc gia tự ban hành các qui phạm xung đột
trong hệ thống pháp luật nước mình để hướng dẫn chọn luật áp dụng để chủ động
trong việc điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế trong khi chưa xây dựng được
đầy đủ các qui phạm thực chất thống nhất. Ví dụ: Theo pháp luật Việt Nam, khoản
1 Điều 770 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Hình thức của hợp đồng phải tuân theo
pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng được giao
kết ở nước ngoài mà vi phạm quy định về hình thức hợp đồng theo pháp luật nước
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
11
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
đó, nhưng không trái với quy định về hình thức hợp đồng theo pháp luật Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì hình thức hợp đồng được giao kết ở nước ngoài đó
vẫn được công nhận tại Việt Nam.” Như vậy, pháp luật Việt Nam đã dẫn chiếu đến
pháp luật của nước nơi hợp đồng được ký kết để điều chỉnh về hình thức của hợp
đồng có yếu tố nước ngoài cũng như hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài.
Phương pháp thực chất là phương pháp được xây dựng trên cơ sở hệ thống các
qui phạm thực chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có ý
nghĩa là nó trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng của các bên tham gia. Qui

phạm thực chất thống nhất có trong các Điều ước quốc tế hay tập quán quốc tế.
1.2 NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HỢP ĐỒNG BẢO
HIỂM CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với hợp đồng bảo hiểm có yếu
tố nước ngoài
Trước hết, phải khẳng định rằng sự tồn tại của hợp đồng bảo hiểm là kết quả
tất yếu của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Và sự tồn tại của hợp đồng bảo hiểm có
yếu tố nước ngoài là khách quan và quan trọng trong điều kiện nền kinh tế hội nhập
thế giới hiện nay. Hợp đồng bảo hiểm là bằng chứng và sự thể hiện của những thỏa
thuận giữa bên mua bảo hiểm và bên nhận bảo hiểm. Trong xu thế toàn cầu hóa nền
kinh tế thế giới, hoạt động thương mại của các chủ thể cũng không bó hẹp trong thị
trường trong nước mà thường xuyên có sự hợp tác với các chủ thể nước ngoài. Do
vậy, nhu cầu bảo hiểm cho hàng hóa được vận chuyển từ nước này đến nước khác,
bảo hiểm cho các tài sản hiện hữu ở nước ngoài cũng tăng lên. Những đối tượng
bảo hiểm này chính là yếu tố nước ngoài trong một hợp đồng bảo hiểm. Thêm vào
đó, trong nền kinh tế mở cửa của các nước, xuất hiện ngày càng nhiều chi nhánh,
văn phòng đại diện của các doanh nghiệp nước ngoài tại nước bản địa do nhu cầu
mở rộng hoạt động kinh doanh của họ. Những hợp đồng bảo hiểm được kí kết giữa
các doanh nghiệp nước ngoài này với một chủ thể bản địa cũng là hợp đồng bảo
hiểm có yếu tố nước ngoài. Từ những lí do trên, có thể thấy, sự tồn tại phổ biến của
hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm
ngày nay là một tất yếu khách quan.
Là một quan hệ phổ biến trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm và tương đối có
tính phức tạp, hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài cần thiết phải được sự điều
chỉnh của pháp luật. Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài là tổng
thể các qui phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều
chỉnh quan hệ xã hội hợp đồng bảo hiểm.
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
12
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài

Trên thực tế, việc giao kết hợp đồng bảo hiểm thông qua hợp đồng mẫu do
doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo. Những điều khoản trong hợp đồng không phải
bao giờ cũng đầy đủ và có lợi cho người tham gia bảo hiểm. Mặt khác, nhiều thuật
ngữ trong hợp đồng bảo hiểm còn khó hiểu, điều này gây bất lợi đối với người tham
gia bảo hiểm, mà đặc biệt đối với hai chủ thể giao kết hợp đồng bảo hiểm có quốc
tịch khác nhau, ngôn ngữ khác nhau. Do vậy, cần thiết phải có các qui định pháp
luật để bảo vệ quyền lợi của các chủ thể kí kết hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước
ngoài, đặc biệt đối với bên tham gia bảo hiểm.
Thêm vào đó, hiện nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển sôi động với
sự góp mặt của nhiều doanh nghiệp nước ngoài thông qua chi nhánh và văn phòng
đại diện của mình, quan hệ bảo hiểm có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều và đa
dạng và phức tạp. Vì vậy, để thị trường phát triển bền vững, ổn định, cần phải có
khung pháp lý qui định về điều kiện chủ thể giao kết hợp đồng, nội dung, hình thức,
hiệu lực, việc thực hiện và việc xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp hợp đồng
bảo hiểm có yếu tố nước ngoài.
1.2.2. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài:
Như đã phân tích ở phần “một số vấn đề cơ bản về bảo hiểm có yếu tố nước
ngoài và hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài”, hợp đồng bảo hiểm có yếu tố
nước ngoài là một quan hệ tư pháp quốc tế, vì thế, nó chịu sự điều chỉnh của nhiều
hệ thống pháp luật: luật trong nước, luật quốc tế và luật nước ngoài. Do vậy, việc
giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài cũng phải tuân theo
các qui định của những hệ thống luật trên.
a. Luật trong nước:
Trong hệ thống Luật quốc gia, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo
hiểm nói chung và điều chỉnh quan hệ hợp đồng bảo hiểm nói riêng bao gồm: Hiến
pháp 1992; Bộ luật dân sự 2005; Luật kinh doanh bảo hiểm 2000; Luật hàng hải
2005; Luật hàng không dân dụng 2006.
- Hiến pháp 1992:
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia, căn cứ vào các qui định của
Hiến pháp mà mỗi ngành luật cụ thể hóa bằng các qui định của mình để tác động tới

các quan hệ trong lĩnh vực mà nó điều chỉnh. Trong Hiến pháp nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam 1992, Chương II có những qui định liên quan nhiều nhất
đến quan hệ hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài:
Tại Điều 15, Điều 16, Hiến pháp xác định tính chất của nền kinh tế trong giai
đoạn hiện nay là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
13
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, xác nhận sự bình
đẳng của các hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể, tư nhân; cho phép sự hoạt động
của các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh
tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước. Tổ chức, cá nhân được lựa chọn hình
thức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy
mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh (Điều 21).
Những qui định này là cơ sở chung nhất cho sự tồn tại hợp pháp của các doanh
nghiệp bảo hiểm đang tồn tại hiện nay – một bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng
bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài nói riêng.
Đặc biệt, các qui định tại Điều 22 và Điều 25 của Hiến pháp 1992 khẳng định
sự thừa nhận và cho phép sự hoạt động bình đẳng tại Việt Nam của các tổ chức
nước ngoài; cam kết bảo vệ vốn và tài sản của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Đây
là những cơ sở pháp lý cơ bản và quan trọng nhất cho những thỏa thuận hợp tác của
các bên trong hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài.
- Bộ luật dân sự 2005:
Bộ luật dân sự 2005, trên cơ sở nền tảng của Hiến pháp, đưa ra những qui định
điều chỉnh mọi quan hệ dân sự, trong đó có quan hệ hợp đồng, hợp đồng bảo hiểm
và quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Mục 7 chương XVII Bộ luật dân sự 2005 nêu ra những qui định chung điều
chỉnh việc giao kết hợp, thực hiện và sửa đổi, chấm dứt hợp đồng dân sự. Các qui
định từ Điều 567 đến Điều 580 tại Mục 11 chương XVIII điều chỉnh riêng quan hệ
hợp đồng bảo hiểm. Trong đó, nêu lên khái niệm hợp đồng bảo hiểm, các loại hợp

đồng bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm, hình thức hợp đồng bảo hiểm, sự kiện bảo
hiểm và phí bảo hiểm, các nghĩa vụ cơ bản nhất của các bên giao kết hợp đồng bảo
hiểm. Việc giao kết, thực hiện hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài cũng phải
tuân theo những qui định này.
Tại phần thứ bảy, Bộ luật dân sự 2005 đề cập đến quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, những vấn đề chung của các quan
hệ tư pháp quốc tế chủ yếu được điều chỉnh bởi những quy định này. Quan hệ hợp
đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài cũng vậy. Theo đó, Bộ luật dân sự đưa ra quy
định: các quy định của pháp luật Việt nam được áp dụng đối với quan hệ hợp đồng
bảo hiểm có yếu tố nước ngoài, trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên có quy định khác thì áp dụng Điều ước quốc tế đó. Trong trường hợp
pháp luật Việt Nam hoặc Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia dẫn chiếu đến
pháp luật nước ngoài thì pháp luật của nước đó được áp dụng. Các bên chủ thể của
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
14
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
hợp đồng bảo hiểm cũng có thể thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán
quốc tế nếu việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam. Ngoài ra, Bộ luật dân sự cũng chỉ dẫn việc chọn luật áp dụng để xác định
năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước
ngoài, pháp nhân nước ngoài. Đây là quy định quan trọng trong việc xác định một
chủ thể có đủ điều kiện giao kết hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài hay
không…
- Luật kinh doanh bảo hiểm 2000:
Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 là đạo luật trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, trong đó có quan hệ hợp đồng
bảo hiểm có yếu tố nước ngoài.
Chương II của Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 qui định cụ thể về hợp đồng
bảo hiểm, trong đó, nêu ra những qui định chung về hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng
bảo hiểm được phân loại thành: hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng bảo hiểm

tài sản, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng bảo hiểm cũng được quy định như : doanh nghiệp bảo hiểm có
quyền thu phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, yêu cầu bên bảo
hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện
hợp đồng bảo hiểm…; có nghĩa vụ giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều
kiện, điều khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm, trả tiền bảo
hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi
xảy ra sự kiện bảo hiểm… Ngoài ra, Luật kinh doanh bảo hiểm cũng quy định các
điều kiện thành lập và hoạt động, phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp bảo
hiểm có vốn đầu tư nước ngoài…
- Luật hàng hải 2005:
Trong giao lưu thương mại quốc tế, hoạt động vận chuyển hành khách, hàng
hóa bằng đường biển là một hoạt động phổ biến, thiết yếu và thường xuyên diễn ra.
Đặc biệt, Việt Nam là đất nước có địa hình đường bờ biển dài, biển là một kênh
giao thông quan trọng của Việt Nam với nước ngoài. Nhưng vận tải đường biển
cũng ẩn chứa nhiều rủi ro thiên tai, cướp biển… Vì vậy, bảo hiểm hàng hải đóng vai
trò quan trọng trong thị trường bảo hiểm Việt Nam. Một phần lớn số hợp đồng bảo
hiểm có yếu tố nước ngoài được kí kết là hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Những quan
hệ hợp đồng này được điều chỉnh bởi chương XVI Luật hàng hải 2005.
Theo Luật hàng hải, các qui định chung như khái niệm “hợp đồng bảo hiểm
hàng hải”, “đối tượng bảo hiểm hàng hải” được nêu ra, qui định về đơn bảo hiểm,
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
15
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
giấy chứng nhận bảo hiểm, quyền chấm dứt hợp đồng bảo hiểm,…; qui định về giá
trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm; thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hải; chuyển
quyền đòi bồi thường.
- Luật hàng không dân dụng 2006:
Cũng giống như vận tải đường biển, vận tải hàng không cũng tiềm ẩn nhiều
rủi ro. Vì vậy, Luật hàng không dân dụng 2006 cũng có những qui định liên quan

đến bảo hiểm cho tính mạng, sức khỏe của hành khách, bảo hiểm đối với hàng hóa,
hành lý của hành khách. Những quan hệ hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
có liên quan cũng phải tuân thủ các qui định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của người vận chuyển (Điều 163), của người khai thác tàu bay
(Điều 176) ….
b. Luật quốc tế:
Ngoài các qui phạm pháp luật do quốc gia ban hành, hợp đồng bảo hiểm có
yếu tố nước ngoài còn chịu sự điều chỉnh của hệ thống các điều ước quốc tế mà
quốc gia tham gia). Khoản 2 Điều 2 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 qui định:
“…2. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng
quy định của điều ước quốc tế đó”
Hiện nay, hệ thống điều ước quốc tế có sự tác động lớn nhất, điều chỉnh quan
hệ hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài là các cam kết của Việt Nam khi gia
nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. Theo đó, kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam
cam kết: không hạn chế tiêu dùng dịch vụ bảo hiểm ở nước ngoài, cho phép cung
cấp bảo hiểm qua biên giới cho các doanh nghiệp FDI và cá nhân người nước ngoài
làm việc tại Việt Nam, vận tải quốc tế, cho phép thành lập công ty bảo hiểm 100%
vốn đầu tư nước ngoài kể từ khi gia nhập và cho phép thành lập chi nhánh của các
Công ty bảo hiểm nước ngoài sau 5 năm gia nhập đối với dịch vụ bảo hiểm phi
nhân thọ, không hạn chế về số lượng chi nhánh trong nước, đối tượng cung cấp dịch
vụ… Cũng theo cam kết với WTO, Việt Nam không hạn chế loại doanh nghiệp bảo
hiểm có thể cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường
biển đi hoặc đến Việt Nam. Vì vậy, chủ hàng Việt Nam có thể kí kết hợp đồng bảo
hiểm cho hàng hóa của mình tại các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hay doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài (dù họ không có hiện diện tại Việt Nam).
Ngoài các cam kết với WTO, các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam là thành
viên như Hiệp định thương mại Việt Mỹ (phụ lục G), Hiệp định khung Asean về
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
16

Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
dịch vụ… cũng có giá trị điều chỉnh các hợp đồng bảo hiểm tương ứng.
Bên cạnh Điều ước quốc tế, Tập quán quốc tế cũng có thể được thỏa thuận áp
dụng đối với hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài. Khoản 3 Điều 2 Luật kinh
doanh bảo hiểm 2000 quy định: “3. Các bên tham gia bảo hiểm có thể thỏa thuận
áp dụng tập quán quốc tế, nếu tập quán đó không trái với pháp luật Việt Nam.”
Trên thực tế, hiện nay, những quy định liên quan đến bảo hiểm trong bộ quy tắc
Incoterms được thỏa thuận áp dụng một cách phổ biến.
c. Luật nước ngoài:
Như đã phân tích ở phần trên, vì là một quan hệ tư pháp quốc tế nên hợp đồng
quan hệ quốc tế còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước ngoài liên quan. Hiện
nay, trên thế giới, sự tác động của pháp luật các nước phải tuân theo một số hệ
thuộc cơ bản:
- Luật nhân thân: điều chỉnh đối với hoạt động của các chủ thể bằng luật của
nước mà người đó/ pháp nhân đó mang quốc tịch hoặc nơi người đó cư trú/ pháp
nhân đó đăng kí trụ sở chính.
- Luật nơi có vật: áp dụng pháp luật nơi đối tượng của hợp đồng đang tồn tại.
- Luật nơi thực hiện hành vi: Luật nơi giao kết hợp đồng, luật nơi vi phạm, nơi
thực hiện hợp đồng được áp dụng.
- Luật tòa án: Luật của nước có Tòa án có thẩm quyền giải quyết được áp
dụng đối với hợp đồng.
- Luật do các bên kí kết hợp đồng lựa chọn.
1.2.3. Nội dung hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài:
Nội dung của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài là tổng hợp các điều
khoản mà các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó
xác định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong hợp đồng. Chúng được
chia thành 3 loại, tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên: điều khoản cơ bản, điều
khoản thông thường, điều khoản tùy nghi.
- Điều khoản cơ bản: là các điều khoản chủ yếu xác định nội dung của hợp
đồng. Các điều khoản cơ bản của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài gồm: đối

tượng bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều kiện loại trừ trách
nhiệm bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo
hiểm, thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm…
- Điều khoản thông thường: là những điều khoản được pháp luật quy định
trước. Khi giao kết hợp đồng, các bên không thỏa thuận những điều kiện này thì có
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
17
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
nghĩa hai bên đã mặc nhiên thỏa thuận và được thực hiện như pháp luật đã quy
định. Điều khoản thông thường của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài có thể
là các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm có yếu
tố nước ngoài, thời hiệu khởi kiện…
- Điều khoản tùy nghi là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp
đồng tự ý lựa chọn và thỏa thuận với nhau để xác định quyền, nghĩa vụ của các bên:
điều kiện gia hạn nộp phí, điều kiện chuyển nhượng hợp đồng, điều kiện khôi phục
hiệu lực của hợp đồng…
Nội dung của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài bao gồm những nội
dung cơ bản sau:
a. Về chủ thể hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài:
Một trong các yếu tố cơ bản cấu thành nên một hợp đồng bảo hiểm là chủ thể
của hợp đồng. Chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài gồm hai
bên: bên nhận bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm.
- Bên nhận bảo hiểm:
Bên nhận bảo hiểm là bên đã nhận phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm
và cam kết nhận rủi ro bảo hiểm về phía mình. Theo qui định của pháp luật kinh
doanh bảo hiểm Việt Nam, bên nhận bảo hiểm chỉ có thể là một tổ chức có tư cách
pháp nhân và được phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm, được gọi là doanh nghiệp
bảo hiểm, bao gồm các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm: doanh nghiệp bảo hiểm
nhà nước, công ty cổ phần bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tương hỗ, doanh nghiệp bảo
hiểm liên doanh, doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài.

8
Những
doanh nghiệp này dù mang quốc tịch Việt Nam hay quốc tịch nước ngoài đều có thể
là chủ thể của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, chủ thể mang
yếu tố nước ngoài trong hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài thì phải mang
quốc tịch nước ngoài.
Pháp luật các nước trên thế giới đều quy định về việc xác định quốc tịch của
một pháp nhân. Theo pháp luật của Pháp, của Đức, pháp nhân đặt trung tâm quản lý
ở nước nào thì mang quốc tịch nước đó, không phân biệt nơi đăng kí thành lập hay
nơi tiến hành hoạt động của pháp nhân. Còn theo pháp luật của Anh và Mỹ, quốc
tịch của pháp nhân tùy thuộc vào nơi đăng ký điều lệ của pháp nhân khi thành lập,
bất kể nơi đặt trụ sở chính hoặc nơi hoạt động của nó. Trong khi đó, pháp luật của
Ai Cập, Xi-ri lại quy định áp dụng nguyên tắc quốc tịch tùy thuộc vào nơi trung tâm
hoạt động của pháp nhân. Pháp luật Việt Nam không quy định nguyên tắc xác định
8
Điều 59 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000.
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
18
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
quốc tịch của pháp nhân. Nhưng khi xem xét vấn đề năng lực dân sự của pháp nhân
nước ngoài, khoản 1 Điều 765 của Bộ luật dân sự 2005 quy định phải căn cứ vào
pháp luật của nước nơi pháp nhân đó thành lập. Như vậy, Bộ luật dân sự Việt Nam
đã gián tiếp thừa nhận nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân tùy thuộc vào
nơi thành lập pháp nhân. Với tinh thần này, những doanh nghiệp bảo hiểm được
thành lập tại Việt Nam, theo pháp luật Việt Nam đều mang quốc tịch Việt Nam. Kể
cả các doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh, doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư
nước ngoài thành lập tại Việt Nam cũng là doanh nghiệp bảo hiểm có quốc tịch Việt
Nam. Còn những doanh nghiệp bảo hiểm không mang quốc tịch Việt Nam được coi
là doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài.
Theo qui định của Luật kinh doanh bảo hiểm 2000, doanh nghiệp bảo hiểm

nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức: doanh nghiệp bảo
hiểm liên doanh, doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài. Những doanh nghiệp
bảo hiểm này phải được thành lập, tổ chức và hoạt động theo pháp luật Việt Nam. Do
đó, chúng mang quốc tịch Việt Nam. Như vậy, theo Luật kinh doanh bảo hiểm 2000,
trong các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam thì không
bao gồm doanh nghiệp bảo hiểm có quốc tịch nước ngoài. Tuy nhiên, do nhu cầu hội
nhập kinh tế thế giới và yêu cầu về sự phù hợp của pháp luật trong nước với các cam kết
trong lĩnh vực bảo hiểm khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, năm
2010, Quốc Hội Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh
doanh bảo hiểm 2000. Luật này có hiệu lực từ ngày 1/7/2011. Theo đó, Các tổ chức
kinh doanh bảo hiểm bao gồm: công ty cổ phần bảo hiểm, công ty trách nhiệm hữu
hạn bảo hiểm, hợp tác xã bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tương hỗ
9
. Trong đó, doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam dưới các hình
thức: công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ nước ngoài. Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được phép cung cấp dịch
vụ bảo hiểm qua biên giới.
10
Trong các chủ thể trên đây, chỉ có doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới và chi nhánh doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài là mang quốc tịch nước ngoài.
Cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới là việc doanh nghiệp bảo hiểm nước
ngoài, không cần thành lập pháp nhân tại Việt Nam, không cần có hiện diện thương
mại tại Việt Nam nhưng vẫn được phép cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Khi
doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài kí kết hợp đồng bảo hiểm cung cấp dịch vụ bảo
9
Điều 7 Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật kinh doanh bảo hiểm 2000
10

Điều 12 Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật kinh doanh bảo hiểm 2000
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
19
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
hiểm qua biên giới với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì hợp
đồng này là hợp đồng có yếu tố chủ thể là yếu tố nước ngoài. Hoặc khi doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài kí kết hợp đồng bảo hiểm cung cấp dịch bảo hiểm qua
biên giới với cá nhân là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, mà hợp đồng
được ký kết tại Việt Nam hoặc hợp đồng có đối tượng bảo hiểm tồn tại ở Việt Nam
thì hợp đồng này cũng là hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài.
Đối với chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài: Theo pháp
luật Việt Nam, chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực
hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện
theo ủy quyền
11
. Do vậy, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm được quyền ký kết hợp
đồng bảo hiểm theo ủy quyền của doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên, căn cứ theo
Ðiều 84 Bộ Luật dân sự 2005 thì một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có
đủ các điều kiện sau đây:
- Ðược thành lập hợp pháp;
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó;
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Do đó, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm không có tư cách pháp nhân. Chủ thể của
hợp đồng bảo hiểm do chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài kí
kết theo ủy quyền là doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, mang quốc tịch nước
ngoài. Do đó, những hợp đồng bảo hiểm mà chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ nước ngoài kí kết tại Việt Nam, hoặc kí kết với cá nhân, pháp nhân có
quốc tịch Việt Nam, hoặc được kí kết để bảo hiểm cho tài sản tại Việt Nam đều là

những hợp đồng bảo hiểm có yếu tố chủ thể là yếu tố nước ngoài.
Như vậy, bên nhận bảo hiểm – một bên chủ thể của hợp đồng bảo hiểm có yếu
tố nước ngoài có thể là doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hoặc doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài. Trong đó, chủ thể mang yếu tố nước ngoài có thể là doanh nghiệp
bảo hiểm nước ngoài trong hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới hoặc
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài có chi nhánh tại Việt Nam ký kết
hợp đồng bảo hiểm theo ủy quyền.
Điều kiện để những chủ thể này trở thành chủ thể của hợp đồng bảo hiểm có
yếu tố nước ngoài như sau:
+ Các doanh nghiệp bảo hiểm phải được thành lập và hoạt động theo Luật kinh
11
Điều 37 Luật doanh nghiệp 2005.
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
20
Những vấn đề lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm có yếu tố nước ngoài
doanh bảo hiểm 2000, Luật doanh nghiệp 2005 và các quy định khác. Theo đó, điều
kiện để doanh nghiệp bảo hiểm được cấp giấy phép thành lập và hoạt động như sau:
12
+ Không thuộc các đối tượng bị cấm theo quy định tại khoản 2 Điều 13 của
Luật Doanh nghiệp
+ Có số vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định theo quy định
của Chính phủ:
Đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ: 300.000.000.000
đồng Việt Nam;
Đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ: 600.000.000.000 đồng
Việt Nam.
+ Có hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định
+ Có loại hình doanh nghiệp và điều lệ phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Người quản trị, điều hành có năng lực quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ về
bảo hiểm.

Ngoài những điều kiện trên, doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài
còn phải đáp ứng các điều kiện:
13
+ Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động hợp pháp và trong tình
trạng tài chính bình thường;
+ Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền của nước
ngoài cho phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong lĩnh vực dự kiến tiến hành ở
Việt Nam.
+ Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động hợp pháp ít nhất 10 năm
theo quy định của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính tính tới thời điểm nộp
hồ sơ xin cấp Giấy phép;
+ Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài có tổng tài sản tối thiểu tương đương 2
tỷ đô la Mỹ vào năm trước năm nộp hồ sơ xin cấp Giấy phép;
+ Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không vi phạm nghiêm trọng các quy
định về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và các quy định pháp luật khác của nước
12
Xem Điều 63 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000;
Khoản 1 Điều 6 Nghị định 45/2007/NĐ – CP quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật kinh doanh bảo
hiểm;
Khoản 1 Điều 4 Nghị định 46/2007/NĐ – CP quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.
13
Xem Điều 63 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000;
Khoản 2 Điều 6 Nghị định 45/2007/NĐ – CP quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật kinh doanh bảo
hiểm.
Viện ĐH Mở Hà Nội Cao Thị Kim Anh
21

×