Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ ẤN ĐỘ TRONG TIỂU THUYẾT “ĐẮM THUYỀN” CỦA ĐẠI THI HÀO R. TAGORE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.84 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
------

TIỂU LUẬN
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ ẤN ĐỘ TRONG TIỂU THUYẾT
“ĐẮM THUYỀN” CỦA ĐẠI THI HÀO R. TAGORE
Giáo viên hướng dẫn : TS. Đỗ Thu Hà
Sinh viên : Nguyễn Thị Tuyết Nhung
Lớp : K47-Văn học
Hà Nội - 2004
1
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Từ xa xưa Ấn Độ đã được coi là cái nôi của nền văn minh nhân
loại. Không chỉ giàu đẹp bởi nguồn của cải từ thiên nhiên mà Ấn Độ còn
có một kho tàng văn hoá rất có giá trị - từ đây Ấn Độ đã góp phần cho sự
phong phú và đa dạng của nền văn học Ấn Độ nói riêng và văn học
phương Đông nói chung. Bên cạnh những công trình nghệ thuật tuyệt vời
cùng giá trị tinh thần cao quý đó là sự góp mặt của các thiên tài như
Mahatma Găng đi, G.Nêru, R.Tagore... Chính vì lí do đó mà để hiểu biết
sâu hơn về đất nước và con người Ấn Độ ta sẽ bắt đầu tìm hiểu từ nền
văn học của nước này - qua đó ta sẽ hiểu sâu hơn về giá trị tinh thần của
văn minh phương Đông, phong phú đa dạng nhưng cũng đậm đà bản sắc
riêng.
Đặc biệt ở đây ta đi tiàm hiểu thêm về người phụ nữ Ấn Độ từ
trước đến nay luôn bị kìm toả bởi lề thói hà khắc. Đứng trước sự tiếp
nhận của nền văn hoá mới cũng như dưới con mắt nhìn tiến bộ của R.
Tagore - một nhà thơ, nhà văn... Ấn Độ ta sẽ thấy hình tượng người phụ
nữ Ấn Độ hoàn toàn mới trong quan điểm về tình yêu và hôn nhân.


II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Cuộc đời sáng tác của Tagore gắn liền với vận mệnh Bengal và Ấn
Độ, với lý tưởng giải phóng con người và tổ quốc ông. Trên văn đàn văn
học Ấn Độ, Tagore đá sớm toả sáng và là một trong những người có
công đóng góp lớn trong sự nghiệp phát triển nền văn học Ấn Độ. Đến
năm 1913, Tagore đã làm cả thế giới biết đến khi mà tập “Lời dâng”
(Gitanjali) do ông sáng tác và dịch từ tiếng Bengal ra tiếng Anh được
giải thưởng Nobel - ông cũng là người châu Á đầu tiên được vinh dự
này. Gần một thế kỷ đã qua giới nghiên cứu đã tốn biết bao giấy mực đi
sâu tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của con người đa tài này mà vẫn chưa
tìm hiểu hết. Tiêng ở Việt Nam từ trước đến nay giới nghiên cứu chủ yếu
2
tìm hiểu về ông với cương vị là một nhà thơ lớn ngay cả trên một số báo,
tạp chí, luận văn cũng chỉ tìm hiểu những sáng tác thơ của ông. Còn
những bài bàn bề các thể loại khác của Tagore nhất là tiểu thuyết còn rất
ít ỏi.
Cao Huy Đỉnh với bài tiểu luận viết về “Ravin đrathát Tagore” đã
đề cập ít nhiều đến lĩnh vực tiểu thuyết của Tagore, ông cho chúng ta
thấy thế mạnh của tiểu thuyết Tagore là chú ý tới các cụ thể và hiện thực
nhiều hơn truyện ngắn và thơ.
Lưu Đức Trung cũng viết một số công trình khoa học của mình về
các vấn để sau: “Tagore người kế thừa truyền thống nhân đạo chủ nghĩa
trong nền văn học dân tộc Ấn Độ”, và “Tagore với người phụ nữ Ấn Độ”
và “vài nét về truyện ngắn của Tagore” Ông nhận xét:
“Ngòi bút nghệ thuật của Tagore luôn hướng về mục đích vạch
trần, phê phán bản chất xã hội, thức tỉnh quần chúng nhân dân, tìm cách
giải phóng tâm hồn tư tưởng người Ấn Độ cận đại ra khỏi thòng lọng của
tôn giáo, ra khỏi sự kìm hãm của bạo lực và cường quyền?. (Trong bài
viết về truyện ngắn “Nây và mặt trời” của Tagore).
Lưu Đức Trung cũng chính là người dịch và giới thiệu với bạn đọc

Việt Nam về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết “Đắm thuyền”
(1989). Đây cũng là sự gợi mở cho công tác nghiên cứu tiểu thuyết
Tagore cho những ai có tâm huyết và say mê. Qua lời dịch của ông nghệ
thuật đặc sắc cũng như nội dung phong phú dẫn đến với người đọc, nhất
là hình tượng sinh động của hai người phụ nữ Kamala và Hemnalini.
Hay nhận xét của tác giả Đào Anh Kha về phong cách nghệ thuật
của Tagore. “Tagore thường tránh cách dùng lý trí để miêu tả và phân
tích tâm lí các nhân vật như một số đông các nhà văn khác, ở đây ông sử
dụng tài tình phương tiện của thiên nhiên. Dưới ngòi bút của ông thiên
nhiên có mặt khắp nơi, mọi lúc và bao giờ cũng mang nặng tâm tư, mọi
sắc thái của cảnh vật đều phản ánh những biến động của tâm hồn”.
3
Từ các công trình nghiên cứu của các tác giả lớn đến các khoá luận
của các sinh viên đều muốn đi sâu tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp cũng như
sáng tác của Tagore: Trịch Bích Liên với luận văn tìm hiểu đặc sắc nghệ
thuật trong truyện ngắn. “Mây và mặt trời” của Tagore, năm 1992 Đỗ
Thị Quỳnh Hương với luận văn viết về đề tài “thiên nhiên” trong tập
truyện “Mây và mặt trời” của Tagore. Và đến năm 1994 Trần Thị Loan
với bài luận về “Nghệ thuật miêu tả tâm lý qua nhân vật Ramesh trong
“Đắm thuyền” tiểu thuyết của Tagore đã bước đầu đi sâu tìm hiểu phong
cách Tagore trong thể loại tiểu thuyết.
Ở phạm vi nhỏ của bài niên luận này người viết muốn tiếp bước
những người đi trước: khai thác một đề tài cũ trong thơ văn xưa nay
nhưng lại rất mới trong thơ văn Tagore - đó là hình tượng người phụ nữ
Ấn Độ trong tiểu thuyết “Đắm thuyền” của đại thi hào Tagore.
III. MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA ĐỀ TÀI:
Như ta đã biết: “Ảnh hưởng của Tagore đối với tinh thần Ấn Độ và
đặc biệt các thế hệ đang kế tiếp nhau lớn lên là to lớn. Không chỉ tiếng
Bengal là ngôn ngữ ông dùng để viết mà tất cả các ngôn ngữ của Ấn Độ
đã được nhào nặn một phần bởi những tác phẩm của ông. Hơn bất cứ

người Ấn Độ nào khác, ông đã góp phần mang lại sự hài hoà cho các lí
tưởng của Đông và Tây “(J.Neru - Ấn Độ). Có thể nói R. Tagore là “ngôi
sao sáng Ấn Độ phục hưng” và được cả thế giới này biết đến trên mọi
cương vị, là nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch lớn, hoạ sĩ có tài và thậm chí
ông còn là một nhạc sĩ nổi tiếng... Ông đúng là một thiên tài của Ấn Độ
và của cả thế giới.
Ở Việt Nam ta đa số mọi người biết đến Tagore là một nhà thơ nổi
tiếng hơn là một nàh văn. Có thể tiểu thuyết là lĩnh vực ít được biết đến
của Tagore. Mặc dù về số lượng và tiếng vang không bằng thơ nhưng về
mức độ lắng sâu và tinh thần nhân văn cao cả của Tagore lại được thể
hiện rất rõ trong thể loại này. Qua một bài niên luận nhỏ, người viết
muốn đóng góp một phần nhỏ trong việc khám phá ngòi bút văn xuôi
4
tinh thế của con người đa tài này. Cụ thể hơn đó là việc công nghệ về
nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ Ấn Độ đi từ truyền thống
đến hiện đại trong “Đắm thuyền”. Người viết hiểu rõ về bút pháp miêu tả
tâm lí nhân vật thông qua hình thức ngôn ngữ độc thoại và bức tranh
thiên nhiên... Cũng từ đó được hiểu thêm nghệ thuật viết văn xuôi của
Tagore - một người luôn được biết đến là một nhà thơ vĩ đại của văn học
Ấn Độ và giúp cho bản thân trong việc làm quen và hiểu rõ hơn trong
công tác nghiên cứu văn học.
IV. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Tiểu thuyết “Đắm thuyền” cảu Tagore mang nội dung chủ yếu về
tình yêu và cuộc sống. Nổi bật trong đó là hình tượng hai người phụ nữ
tuy với hai nét tính cách trái ngược nhau, nhưng lại tìm được sự đồng
cảm trong số phận bi kịch về tình yêu và hôn nhân. Ở họ ta thấy điển
hình cho người phụ nữ Ấn Độ theo quan điểm nhân dậo của nhà văn - họ
bước đầu được giải phóng khỏi sự kìm kẹp của tôn giáo và quan niệm hà
khắc với phụ nữ của lễ giáo Ấn Độ từ trước đến nay. Đó là một sự
chuyển bước từ người phụ nữ truyền thống đến người phụ nữ hiện đại.

Trong bài viết này, người viết chủ yếu dựa vào bản dịch “Đắm
thuyền” của Lưu Đức Trung, Trương Thị Thu Vân và Hoàng Dũng. Bên
cạnh đó người viết còn tham khảo cuốn tiểu thuyết “nàng Binôdini” cùng
một số truyện ngắn của Tagore cũng viết về đề tài người phụ nữ (“Cô
dâu bé nhỏ” - Nguyễn Văn dịch ; “Mây và mặt trời” - Hoàng Cường dịch
của Tagore.
Nghiên cứu đề tài này người viết dựa vào một số phương pháp chủ
yếu sau:
1. Đặt “Đắm thuyền” trong mối tương quan với các tiểu thuyết và
truyện gnắn của Tagore để làm nổi bật hình tượng người phụ nữ Ấn Độ
trong bút pháp của nhà văn.
2. Kết hợp phân tích với tổng hợp để làm rõ vấn đề trong đề tài.
5
3. Sử dụng phương pháp liên hệ đối chiếu so sánh qua cách cảm
nhận riêng mà làm nổi bật hơn nữa hình tượng người phụ nữ trong tác
phẩm.
6
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I R. TAGORE VÀ TIỂU THUYẾT “ĐẮM THUYỀN”
I. RABINDRÂNGHỆ THUẬT TAGORE.
1. Vài nét về tác giả R. tagore.
Rabindranath Tagore (1861 - 1941), nhà văn hoá lỗi lạc của Ấn Độ
và thế giới. Trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật ông đã cống hiến nhiều
thành tựu xuất sắc. Ông đã để lại 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 bộ tiểu
thuyết, hàng trăm truyện ngắn, bút kí, tiểu luận, diễn văn, hồi ức, thư tín
cùng hàng ngàn ca khúc, hàng ngàn tranh vẽ vô giá.
Tập lời dâng (Gitanjah) do ông sáng tác và dịch từ tiếng Bengalrra
tiếng Anh được giải thưởng Nobel năm 1913, không chỉ là niềm tự hào
của nhân dân Ấn Độ mà của cả châu Á, Tagore là người châu Á đầu tiên
được vinh dự này. Lời dâng là “kì công thứ hai” trong lịch sử văn học

Ấn Độ, kể từ khi Sahuntala, “kì công thứ nhất” của nhà thơ cổ điền
Kaliđasa ở thế kỉ V, ra đời. Lời dâng là những khúc ca yêu tự do, yêu
cuộc sống dâng cho đời, cho con người. Lời dâng của Tagore lần lượt
được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới với số lượng ngày càng nhiều.
Riêng ở Pháp, lời dâng do Andre Gide dịch đã được tái bản 107 lần. Ở
Anh, Mỹ, Pháp, Nga, Đức, Ý, Trung Quốc... cũng đã nhiều lần tái bản.
Từ đó trở đi nhiều tuyển tập R. Tagore ra đời; ở Liên Xô (trước đây) đã
ba lần xuất bản, năm 1955 có 8 tập, năm 1961 có 12 tập, năm 1981 có 4
tập, Trung Quốc có 10 tập xuất bản năm 1957. Ở Việt Nam, năm 1961
nhân dịp thế giới kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Tagore, dù gặp khó
khăn về tài liệu nhưng Nhà xuất bản Văn học cũng đã cố gắng xuất bản
một tuyển tập nhỏ gồm những sáng tác của Tagore trên 150 trang do nhà
nghiên cứu Cao Huy Đỉnh tuyển chọn và giới thiệu. Cuốn sách đó đã
giúp bạn đọc hiểu và bắt đầu yêu thích Tagore. Trước năm 1975, một số
nhà xuất bản ở Sai Gòn cũng đã xuất bản nhiều tập thơ chủ yếu của R.
Tagore như Lời dâng (Gitanjali), Tâm tình hiến dâng (The gardener) ,
Tặng vật (Lover’s gijt), Mảnh trăng non (The crescont moon) và tác
7
phẩm triết học Sadhana (Thực hiện toàn mãn) của ông. Tới năm 2004
nhà xuất bản lao động - trung tâm văn hoá ngôn ngữ đông tây đã xuất
bản tuyển tập tác phẩm R. Tagore do dịch giả Lưu Đức Trung tuyển chọn
và giới thiệu. Tuyển tập tác phẩm R. Tagore này tuy chưa tuyển chọn
được toàn bộ trước tác của Gagore nhưng ít nhiều cũng giúp bạn đọc có
trong tay một số ít tài sản tinh thần vô giá của Rabindranath Tagore- bậc
thiên tài mà “cả thế giới đều biết đến”.
Tagore say sưa làm thơ lúc 8 tuổi cho đến lúc qua đời. Bài thơ cuối
cùng Tagore sáng tác trên giường bệnh ngày 30 tháng 7 năm 1941, trước
khi ông mất 8 ngày. Ông đọc cho người khác chép, không kịp xem lại.
Thơ Tagore vốn dồi dào tứ, hàm súc ý, giàu hình ảnh, giàu tính nhạc và
uyển chuyển về vần điệu. Thơ ông được viết ra trong nhiều hoàn cảnh

cùng với bút pháp nghệ thuật khác nhau. Nội dung luôn luôn hướng về
tinh thần nhân đạo và lòng yêu tự do.
Tagore viết Truyện ngắn muộn hơn làm thơ. Năm 16 tuổi (1887)
ông cho ra mắt bạn đọc truyện ngắn đầu tay. “người ăn mày kì dị”. Từ đó
trở đi truyện ngắn của ông ngày càng sâu sắc. Với những đề tài phong
phú mang nhiều màu sắc lấy từ trong đời sống thực tế xã hội hoặc lấy từ
thần thoại, cổ tích, truyền thuyết lịch sử... Tagore đã hướng ngòi bút của
mình về mục đích vạch trần bản chất xã hội phong kiến thuộc địa, thức
tỉnh nhân dân Ấn Độ giải phóng mình ra khỏi áp bức, bóc lột. Với tinh
thần nhân đạo sâu sắc cùng cái nhìn tinh tế ông đã nhẹ nhàng kín đáo
phơi bày bộ mặt tàn ác của thế lực đen tối trong xã hội qua nhiều câu
chuyện thật cảm động, đau xót, uất hận, tràn đầy nước mặt. Ông dành
cho nhân dân lao động cùng khổ một địa vị xứng đáng trong tác phẩm.
Đặc biệt người phụ nữ Ấn Độ được ông đồng cảm và quý trọng, ông
miêu tả một cách chân thực sâu sắc cảnh ngộ của họ. Từ xưa phụ nữ Ấn
Độ là nạn nhân cùng cực trong xã hội phân biệt đẳng cấp. Họ là đối
tượng thường bị lễ giáo phong kiến giày vò, đày đoạ, áp bức, họ là vật hi
sinh của tăng lữ Bàlamôn. Câu chuyện Dàn hoả thiêu và quan chánh án...
8
là những tác phẩm tiêu biểu. Bên cạnh đó ta cũng bắt gặp hình ảnh trí
thức Ấn Độ trong truyện ngắn Tagore (những sinh viên, luật sư, bác sĩ,
công chức, thầy kí...) những người ít nhiều bị chính sách nô dịch của
thực dân lừa phỉnh. Kết quả truyện ngắn Tagore đa dạng phức tạp (có
truyện rất dài mà có truyện rất ngắn độ mấy chục dòng) mang tính hiện
thực rất sâu sắc. Ông còn kết hợp tính huyền ảo và hiện thực khiến cho
tác phảm đều có dứcgợi cảm và hấp dẫn.
Tuy trong sự nghiệp sáng tác Tagore không thành công lắm trong
thể loại tiểu thuyết nhưng ít nhiều ông cũng để lại những tác phẩm mang
đậm tính nhân văn và tinh thần nhân đạo lớn. Nội dung tiểu thuyết ông
thương hướng tới sự nghiệp giải phóng dân tộc, thức tỉnh nhân dân Ấn

Độ nhất là tầng lớp thanh niên trí thức (tiểu thuyết Gôra - 1907). Ngoài
nội dung đấu tranh chính trị ra, tiểu thuyết của ông thường thiên về miêu
tả tình yêu hôn nhân, tâm lí xã hội, ca ngợi lòng nhân đạo, tình yêu
thương, cách ứng xử giữa con người trong xã hội. Nàng Binôdini, Đắm
thuyền, là những tiểu thuyết xuất sắc về mặt này.
Tagore còn có một niềm đam mê nữa đó là ông vừa là nhà soạn
kịch, vừa là đạo diễn vừa là diễn viên. Nhiều vở kịch của ông đã được
dàn dựng trên sân khấu ở Calcutta, Bom bay, New Delhi và một số thành
phố khác trên thế giới. Kịch của Tagore thường tập trung miêu tả mối
xung đột lớn trong xã hội Ấn Độ cận đại giữa thiện và ác, giữa tôn giáo
với con người, giữa áp bức và tự do, giữa chiến tranh và hoà bình. Năm
1883 vở kịch đầu tay của ông “Sự trả thù của tự nhiên” ra đời. Vở kịch
đã làm cho giới sân khấu hồi bấy giờ chú ý đến tài năng của ông. Năm
1916 ông sửa chữa lại, dịch ra tiếng Anh mang tên Thầy tu khổ hạnh
(Xaniaxi) với đề tựa: “Xin dẫn dắt chúng tôi từ hư vô về thực tại”. Vở
kịch là bản tuyên chiến của ông với tôn giáo, với chủ nghĩa khổ hạnh ở
Ấn Độ. Sau đó Tagore liên tiếp ra đời nhiều vở kịch khác, nội dung ngày
càng phong phú, thể hiện rõ tư tưởng tiến bộ của ông. Ông coi kịch là
thứ vũ khí đấu tranh nhạy bén, là những bài học thiết thực nâng cao nhận
9
thức xã hội của công chúng. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 -
1918) xảy ra, Tagore đã đem vở kịch “Lễ máu” viết năm 1890 dịch ra
tiếngAnh năm 1917 với lời đề tựa “Tôi tặng vở kịch này cho những
chiến sĩ dũng cảm bảo vệ hoà bình khi có kẻ đổi lấy máu nhân loại làm
lễ dâng Nữ thần Chiến tranh”. Kịch của Tagore có sức sống mãnh liệt,
thu hút được nhiều người xem. Thành công đó là do Tagore kết hợp chặt
chẽ truyền thống kịch dân gian với kịch hiện đại, biết kế thừa và cách
tân trong nghệ thuật, kết hợp kịch phương Tây và Ấn Độ một cách sáng
tạo.
Tagore không chỉ là nhà văn mà còn là một triết gia, một nhà lí

luận và nhà giáo dục học xuất sắc. Các tiểu luận, Diễn văn, Hồi ức, Thư
tín của ông đã thể hiện rõ điều đó. Tagore vốn xuất thân trong một gia
đình quý tộc theo tôn giáo Bàlamôn, về sau cả gia đình ông đều ra khỏi
tôn giáo này. Tagore tự tìm cho mình một thứ tôn giáo, đó là “tôn giáo
của con người” (Religion of man). Những quan niệm về tôngiáo của con
người thường được ông trình bày bằng những tiểu luận, bài nói chuyện,
bài giảng ở trường Santiniketan và các nơi khác trên thế giới. Về sau
được tập lại trong cuốn Sacthana (Thực hiện toàn mãn). Về mặt lí luận
văn học có những tác phẩm sau: “nghệ thuật là gì?”, “Thơ ca hiện đại”…
Bên cạnh đó ông cũng thể hiện tư tưởng của một nhà giáo dục học xuất
sắc. Vào những năm đầu thế kỉ XX đã có nhà nghiên cứu E.Fieczinska
viết bằng tiếng Pháp công trình “Gagore - nhà giáo dục” (Tagore -
E’ducateur). Qua bài (Trường học của tôi” nổi tiếng của Tagore viết sau
những năm thành lập trường Santiniketan, ông đã thể hiện một quan
điểm giáo dục rất tiến bộ, giáo dục toàn diện, học và hành, kết hợp với
lao động sản xuất.
Tagore đã có những chuyển đi thăm nhiều nơi trên thế giới tham
gia các buổi nói chuyện, diễn thuyết (trong đó có cả Việt Nam) từ năm
1916 đến 1930. Không chỉ được bộc lộ quan điểm lên án chủ nghĩa thực
dân, đề cao chủ nghĩa dân tộc, kêu gọi đông tây hoà hợp… ông còn có
10
dịp làm quen với rất nhiều nhân vật nổi tiếng trên văn đàn thế giới (như
nhà văn Pháp Romain Rolland, nhà thơ Anh Sturge Meore, nhà văn Đức
Thomas Mann, nhà thơ Mỹ Rober t Frost) cũng như trên các lĩnh vực
khoa học (nhà vật lí Albert Einstein, nhà giáo dục học John Dewey…).
Rabindranath Tagore là con người đa cảm, đa tình, giàu lòng yêu
thương con người. Tuy xuất thân trong gia đình quý tộc cao quý, nhưng
ông đã vượt qua hàng rào đẳng cấp để kết hôn với một cô gái con của
một tá điền trong trang trại của cha ông là nàng Mrinalim Devi. Tình
cảm giữa vợ chồng ông rất thắm thiết. Nhưng bức thư gửi cho vợ của

Tagore đã thể hiện rõ điều đó. Ông còn ghi lại một cách chân thực về
bản thân mình thông qua tập “hồi ức” của ông. Bài “Đời tôi” là bài nói
chuyện vào năm 1924 tại Trung Quốc, ông kể lại bước trưởng thành và
những cảm giác của ông đối với cuộc đời.
Như vậy, cuộc đời Tagore là sự phản ánh chân thực nhất tư tưởng
cũng như quan điểm nhân dậo sâu sắc trong tác phẩm của ông. Tác phẩm
của Tagore dễ đi vào lòng người đọc một cách dung dị mà sâu lẵng.
2. Quan niệm về tiểu thuyết của Tagore.
Như chúng ta đã biét: “Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn, đặc
biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện dậi”. Với những giới hạn rộng
rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của
nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ
thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng.
Không phải ngẫu nhiên mà thể loại tiểu thuyết chiếm vị trí trung tâm
trong hệ thống thể loại văn học cận đại, hiện đại”.
Riêng đối với Tagore thì trong sự nghiệp sáng tác ông lại không
thành công nhiều về thể loại tiểu thuyết (so với thơ của ông). Nhưng
không ít bộ tiểu thuyết của ông cũng đã đóng góp đáng kể vào sự phát
triển chủ nghĩa hiện thực ở Ấn Độ. Vì sao lại như vậy? Có lẽ vì trong
mỗi trang tiểu thuyết là thấm đượm tinh thần nhân văn sâu sắc cũng như
ngòi bút tinh tế của nhà văn.
11
Nội dung các cuốn tiểu thuyết của Tagore cũng đã thể hiện rõ tư
tưởng của ông. Từ lòng căm thù bọn thực dân cướp nước cúng sự đồng
cảm xót thương với những người dân sống trong cảnh nô lệ ông đã
hướng ngòi bút của mình vào mục đích chính trị (tiểu thuyết Gôra - 1907
là sự thức tỉnh nhân dân Ấn Độ nhất là tầng lớp thanh niên cũng vậy đấu
tranh giải phóng dân tộc). Với tình yêu thương con người cũng như sự
nhân ái đặc biệt với phụ nữ Ấn Độ ông thường viết về đề tài tình yêu hôn
nhân, tâm lí xã hội, ca ngợi lòng nhân đạo tình yêu thương, cách ứng xử

giữa con người trong xã hội (“Nàng Binôdini”, “Đắm thuyền”, là những
tiểu thuyết xuất sắc về mặt này.
Để hiểu rõ hơn nữa về quan niệm của Tagore trong thể loại diễn
thuyết này có lẽ ta bắt đầu từ quan niệm về thơ của chính tác giả.
Là một nhà thơ nổi tiếng, Tagore đã từng quan niệm về thơ như
sau:
“Đâu phải thơ được viết chỉ để cắt nghĩa một điều gì đó, khi tình
cảm tự tìm cho mình một hình thức để bộc lộ ra ngoài, chúng ta có thơ.
Cũng như nụ cười và nước mắt thực chất cảu thơ là phản ánh một cái gì
được hoàn thiện từ bên trong”.
Nhưng đến thể loại tiểu thuyết ông đã im lặng để cho tác phẩm của
mình lên tiếng. Chẳng vì thế mà ông đã đặt giải Nobel văn học với mười
hai bộ tiểu thuyết đó sao?
Đúng như Cheliev (Liên Xô cũ) nhận xét.
“Tagore là một tổng hợp thiên tài kì diệu của văn học Ấn Độ từ
Upanishad qua tài liệu Phật giáo đến thơ Kalidasa rồi tinh thần nhân đạo
thời trang cổ, cùng với tính chất lãng mạn tiến bộ trong văn học Anh và
tinh thần đấu tranh chống đế quốc giành độc lập của nhân dân Ấn Độ”.
Ta thấy trong tiểu thuyết của Tagore một tư tưởng thần bí của tôn
giáo, lãng mạn của thơ ca, triết lý nhân văn hay tính giáo dục lớn…
Cũng như truyện ngắn, chất hiện thực và lãng mạn trong tiểu thuyết của
Tagore rất sâu đậm, lối miêu tả nội tâm nhân vật là thủ pháp đặc sắc của
12
ông. Yếu tố thiên nhiên trong tiểu thuyết cúng là nét đặc sắc. Thiên
nhiên trở thành “như im lặng” thường đồng cảm, chứng kiến, hoà hợp
với tâm trạng nhân vật trong tuyện, tạo nên chất trữ tình nồng thắm.
Có lẽ tư tưởng nổi bật nhất trong tiểu thuyết Tagore là chủ nghiã
nhân đạo lớn. Ở cấp độ thế giới quan, chủ nghĩa nhân đạo (còn gọi là chủ
nghĩa nhân văn), “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, tình cảm quý
trọng các giá trị người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sắc mạnh, vẻ đẹp.

Chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần mà
còn bao hàm cả cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt (vị trí,
vai trò, khả năng, bản chất…) trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và
đồng loại…”. Với hiện thực xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ cùng với những
điều Tagore nhìn thấy và cảm nhận được thì những gì đi vào tiểu thuyết
của ông rất chân thực phản ánh tư tưởng nhân văn sâu sắc. Con người và
cuộc sống đa dạng của Ấn Độ hiện lên một cách sống động trong tiểu
thuyết của Tagore.
Bên cạnh đó nhân vật trong tiểu thuyết của Tagore hiện lên rất “cá
tính”. Điều đó được thể hiện qua “đặc trưng về tâm lí, khí chất, tác
phong, ngôn ngữ...” Nhân vật trong tiểu thuyết của Tagore chủ yếu hiện
lên một cách sinh động qua bút pháp miêu tả tâm lý một cách sâu sắc của
nhà văn. Ta gặp nàng Binôdini sắc sảo tinh ranh luôn khao khát được
yêu, nàng Asa ngây thơ trong sáng yêu hết mình (tiểu thuyết “Nàng
Binôdini”) hay nàng Hemnalini thông minh yêu bằng lý trí, nang Kamala
đặt tình yêu cùng với niềm tôn thờ... (tiểu thuyết “Đắm thuyền”). đó chỉ
là sự điểm qua vài nhân vật nữ chính trong tiểu thuyết Tagore. Nét độc
đáo ở đây có lẽ là cá tính mỗi nhân vật đan lồng trong các quan hệ và
tình huống phức tạp.
Yếu tố thiên nhiên cũng là một phần không thể thiếu trong tiểu
thuyết Tagore. Ở đây thiên nhiên như là một bức tranh tâm trạng - một
nét đồng điệu với cá tính như trong tác phẩm. Sự chuyển biến tâm trạng
như (từ vui đến buồn, từ lòng văn hận đến lòng vị tha, từ xót xa đến
13
thương cảm...) song song cùng với những nét đổi thay tinh tế của bức
tranh thiên nhiên.
Trên đây chỉ là một phần rất nhỏ so với sự tìm hiểu về quan niệm
trong tiểu thuyết của Tagore. Nhưng có lẽ từ đây ta có thể hiểu thêm hơn
nữa về R. Tagore - một thiên tài của thời đại ông mãi sống cùng với tư
tưởng nhân văn của mình trong tác phẩm của mình.

II. TIỂU THUYẾT “ĐẮM THUYỀN”.
Nếu nói về đề tài tình yêu trong tiểu thuyết Tagore ta không thể
không nói đến “Đắm thuyền” - một tiểu thuyết được coi là xuất sắc về đề
tài tình yêu của Tagore. Tác phẩm được viết trong khoảng thời gian từ
1905 - 1908 (cùng với hai tiểu thuyết “Nàng Binôdini” và “Gô-ra”). Tiểu
thuyết này ra đời trong hoàn cảnh phong trào chống bọn thống trị Anh ở
Ấn Độ trở nên sôi nổi. Nhưng nội dung cuốn tiểu thuyết lại là một thiên
tình sử diễm lệ: đầy trắc trở mà không kém phần hấp dẫn trong mối quan
hệ phưc stạp cùng tình huống độc đáo giữa chàng Ramesh với nàng
Hemnalini và nàng Kamala có thêm sự xuất hiện của chàng Nalinasha -
mối gỡ cho thắt nút của vấn đề.
“Đắm thuyền” (The wereck) là một tỏng những tiểu thuyết xuất sắc
của ông viết về tình yêu. Câu chuyện khá rắc rối. Ramesh tốt nghiệp luật
khoa đang yêu Hemnalim, một nữ sinh ở Calutta. Bỗng nhiên cha anh ở
quê lên gọi anh về cưới vợ. Không thể trái lệnh cha, Ramesh đành quay
trở về làng quê cưới một cô vợ mà anh chưa hề biết mặt. Hôm rước dâu
về làng, đám cưới phải đi bằng thuyền. Giữa đường gặp bão, thuyền
đắm, Ramesh bị sóng đẩy lên bờ cát nằm bất tỉnh, khi tỉnh dậy thấy một
cô gái sống sót nằm gần mình. Ramesh tưởng đó là vợ, còn cô gái tên là
Kamala cũng tưởng Ramesh là chồng. Hai người dắt nhau trở về làng lo
tang cho cha và những người thân xong thì quay trở lại Calcutta. sông
chung với nhau vài ngày đầu, Ramesh mới phát hiện ra rằng Kamala
không phải là người vợ do cha cưới cho mình.
14

×