BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
______________
Nguyễn Thị Huệ
NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN
TRONG TIỂU THUYẾT ĐẮM THUYỀN
CỦA RABINDRANATH TAGORE
Chuyên ngành : Văn học nước ngoài
Mã số : 60 22 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THUÝ
Thnh phố Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CẢM ƠN
Với tấm lòng chân thành, tác giả luận văn xin bày tỏ sự biết ơn vô hạn đến
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THÚY. Trong suốt quá trình thực hiện đề tài, người viết có
được cái may mắn lớn nhất là đã nhận được sự hướng dẫn chu đáo, nhiệt tình và
tận tâm của cô. Một lần nữa, xin gửi đến cô lời cảm ơn sâu sắc nhất.
Đồng thời, người viết cũ
ng chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ văn học
nước ngoài đã nhiệt thành truyền thụ kiến thức; các thầy cô trong phòng Khoa học
công nghệ và sau Đại học trường ĐH Sư Phạm TP.Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện
thuận lợi để người viết hoàn thành luận văn này.
TP.Hồ Chí Minh, tháng 07 năm 2009.
Người viết luận văn
Nguyễn Thị Huệ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi đến đất nước Ấn Độ vĩ đại, chúng tôi rất cảm động và sung sướng được đến quê hương
của một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới. Văn hóa, triết học và nghệ thuật của nước
An Độ đã phát triển rực rỡ và có những cống hiến to lớn cho loài người. Nền tảng và truyền thống
của tri
ết học An Độ là lý tưởng hòa bình bác ái. Liên tiếp trong nhiều thế kỉ, tư tưởng Phật giáo,
nghệ thuật, khoa học An Độ đã lan tỏa khắp thế giới (Hồ Chí Minh).
Lời nhận định của Bác đã nói lên tất cả niềm yêu mến, tự hào cùng lòng cảm phục đất nước
và con người Ấn Độ. Ngay từ ban đầu, khi được tiếp xúc với nền văn hóa Ấn, người viết
đã thực sự
bị cuốn hút bởi tính chất đa dạng và phong phú của nó.
1.1. Là một quốc gia thuộc khu vực Nam Á, Ấn Độ từng là một trong những cái nôi văn
minh nhân loại, cùng với tính chất đa sắc tộc, đa tôn giáo, vùng đất này có sức hấp dẫn lớn lao và
riêng biệt. Với một di sản văn hóa phong phú và đặc trưng duy nhất, ngày nay, Ấn Độ vẫn đang tỏa
sáng trên nhiều lĩnh v
ực, trong đó có văn học.
1.2. Bước vào thế kỉ XIX, văn học hiện đại Ấn Độ đã chuyển mình dữ dội trước biến động
của thời cuộc.Trong tiến trình đổi mới ấy, Rabindranath Tagore nổi lên như một ngôi sao sáng của
An Độ phục hưng. Tài năng và tầm ảnh hưởng của ông đối với văn học Ấn là rất to lớn và vô cùng
sâu sắ
c. Năm 1913, R.Tagore nhận giải Nobel văn học cho tập thơ Lời dâng (Gitanjali) và trở thành
người Châu Á đầu tiên có được vinh dự này.
Có thể nói, thơ là thành tựu xuất sắc nhất của Tagore. Nhưng không vì thế mà chúng ta
thiếu quan tâm đến mảng sáng tác văn xuôi của ông. Chính những sáng tác nghệ thuật này đã góp
phần không nhỏ đưa văn học Ấn Độ hội nhập vào thế giới hiện đại. Tagore không chỉ là nhà thơ,
nhạ
c sĩ, họa sĩ, mà còn là một cây bút viết truyện ngắn, đặc biệt là một tiểu thuyết gia rất có tài.
1.3. Tagore đến với thể loại tiểu thuyết muộn hơn so với thơ ca và truyện ngắn, nhưng nó
cũng đã tạo cho R.Tagore vị trí và tầm vóc riêng biệt. Với hai cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Gôra và
Ngôi nhà và thế giới, ông đã mở ra hướng phát triển mới cho tiểu thuy
ết Bengal.
Chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết Đắm thuyền của
Rabindranath Tagore” vì những lí do sau:
Trước tiên là sự kính mến, ngưỡng mộ nhân cách và tài năng Tagore, một tài năng mang tầm
vóc nhân loại. Quả thật, Tagore đã để lại một ấn tượng sâu sắc đối với độc giả: Đằng sau dáng vẻ
như một vị thần là một tâm hồn rất con người, đằ
ng sau đôi mắt nhiều chiều sâu là một trái tim đau
đáu nỗi niềm nhân tình thế thái.
Không chỉ là một nhà thơ thiên tài, Tagore còn là một nhà văn rất thành công với thể loại
tiểu thuyết tâm lý xã hội. Đắm thuyền là tác phẩm tiêu biểu và nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm
là nét đặc sắc nổi trội, thu hút độc giả.
2. Lịch sử vấn đề
Trái với thơ ca, mảng sáng tác văn xuôi của Tagore, đặc biệt là tiểu thuyết còn chưa có được
nhiều sự quan tâm của người
đọc và các nhà nghiên cứu. Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi tập hợp
được một số ý kiến như sau:
Trong tác phẩm Ravinđranat Tagorơ, NXB Văn hoá Hà Nội, 1961, nhà nghiên cứu Cao Huy
Đỉnh đã đề cập ít nhiều đến tiểu thuyết Gora. Nhưng sự đề cập này lại chủ yếu quan tâm đến nội
dung tác phẩm, cụ thể là cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Ấn Độ, còn việc đánh giá dưới góc
độ nghệ thuật thì ch
ưa được bàn đến.
Giáo sư Lưu Đức Trung trong cuốn R. Tagore tuyển tập tác phẩm, NXB Lao Động Trung
Tâm Ngôn Ngữ Đông Tây, đã nhận định tiểu thuyết Tagore “đóng góp đáng kể vào sự nghiệp phát
triển chủ nghĩa hiện thực ở An Độ”; “chất hiện thực và lãng mạn trong tiểu thuyết của Tagore rất
sâu đậm”, lối miêu tả nội tâm nhân vật cùng yếu tố thiên nhiên là thủ pháp đặc s
ắc của ông.
Trong chuyên luận Rabindranath Tagore với thời đại phục hưng An Độ, NXB Đại học Quốc
Gia Hà Nội, 2006, tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh đã đánh giá cao ngòi bút tiểu thuyết của Tagore, cho
rằng những tác phẩm của nhà văn là “Một sự thể nghiệm thành công tiểu thuyết dòng ý thức mà
trước đó chưa từng được biết đến trong văn xuôi An Độ”. Trên cơ sở khả
o sát toàn bộ sáng tác của
Tagore, chuyên luận này cũng chỉ đưa ra những nhận xét có tính chất gợi mở chứ chưa đi sâu phân
tích cụ thể.
Các khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ của một số người học cũng đã khám phá Đắm
thuyền dưới góc nhìn nghệ thuật như: Khoá luận tốt nghiệp cử nhân của Trần Thị Loan, Trường Đại
Học Sư Ph
ạm Hà Nội I, năm 1994, với đề tài “Nghệ thuật miêu tả tâm lý qua nhân vật Ramesh
trong Đắm thuyền tiểu thuyết của Tagore”; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Huân, Trường Đại Học
Quốc Gia Hà Nội, Trường Đại Học Sư Phạm, năm 1999 với đề tài: “Thời gian nghệ thuật, không
gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Đắm thuyền của Tagore”. Những bài nghiên cứu này phần nào nói
lên được những đặc sắc về nghệ thuật viết tiểu thuyết của Tagore, nhưng cũng chỉ đề cập đến một
vài khía cạnh trong một chỉnh thể nghệ thuật phong phú.
Tóm lại, tại Việt Nam, nghiên cứu tiểu thuyết của R.Tagore là công việc còn nhiều mới mẻ.
Với hướng nghiên cứu của những công trình đi trước, trong hướng nghiên cứu cụ thể của đề tài,
chúng tôi s
ẽ đi sâu khảo sát những đặc điểm mới mẻ của nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết
Đắm Thuyền của R. Tagore.
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
3.1. Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu: “Nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết Đắm
thuyền”, phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là tiểu thuyết Đắm thuyền, đồng thời mở rộng sang
truyện ngắn và một số tiểu thuyết khác của Tagore.
3.2. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu: Dựa trên văn bản nghệ thuật tác phẩm, tiến hành
khảo sát th
ống kê, sau đó tiến hành phân tích các chi tiết thể hiện nghệ thuật kể chuyện. Đồng thời,
đối chiếu so sánh với một số truyện ngắn, tiểu thuyết khác của Tagore, để chỉ ra hiệu quả nghệ thuật
và nét hấp dẫn riêng của Đắm thuyền.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4.1. Đề tài nghiên cứu phong cách văn xuôi Tagore ở thể loại tiểu thuyết, kh
ẳng định những
sáng tạo và đóng góp của Tagore với tiến trình phát triển của văn học hiện đại Ấn Độ.
4.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Tìm hiểu phong cách tiểu thuyết Tagore, đồng thời mở
rộng việc dạy và học thể loại này trong nhà trường.
Chương 1: TAGORE VÀ “SỰ BẮT ĐẦU CON ĐƯỜNG MỚI
CHO VĂN XUÔI ẤN ĐỘ”
1.1. Tiểu thuyết R.Tagore trên hành trình sáng tạo
1.1.1. Sự khởi đầu mới
Ở Ấn Độ, dòng họ Thakur vùng Bengal thuộc số những lãnh chúa có thế lực. Tên của dòng
họ này trong tiếng Bengali có nghĩa là vị chúa đất. Thời thuộc địa, cách phát âm Thakur là một thử
thách rất lớn đối với người Anh. Một công chức người Anh, trong một lần ghi chép đã phiên âm chữ
Thakur thành Tagore. Từ đó, trên các công văn giấy tờ được Anh hóa, Thakur đã được phiên âm
thành Tagore. V
ậy là tên họ Tagore được sinh ra từ sự nhầm lẫn, cũng giống như nhiều điều cơ bản
của đời sống, đã được sinh ra từ nhầm lẫn, ngộ nhận. Và thế giới cũng sẽ chẳng biết đến sự nhầm
lẫn này nếu như dòng họ Thakur ở Bengal không sinh ra một nhân vật xuất chúng: Đại thi hào
Rabindranath Tagore.
Rabindranath Tagore (1861-1941) sinh ra và lớn lên trong một gia đình quý tộc Bà La Môn.
Cậ
u bé Rabi (tên thân mật của Tagore lúc nhỏ) đã nhận được sự giáo dục chu đáo và bài bản từ gia
đình. Cuộc sống trường học không thích hợp với cậu. Rabindranath Tagore luôn mở rộng để đón
nhận mọi kiến thức, từ thơ ca Anh đến những bài ru Bengal, từ khúc giao hưởng cổ điển chau chuốt
đến âm điệu mộc mạc giản dị. Tất cả đã hình thành nên một con người có trí tuệ
uyên thâm mà rất
khiêm nhường, một tính cách hiện đại nhưng rất dân tộc, một tâm hồn nhiều suy tư nhưng cũng rất
giàu tưởng tượng, một trái tim tinh tế và nhân đạo vô cùng. Có thể nói, Tagore đã dành trọn cuộc
đời mình cho nền nghệ thuật Bengal, khiến ngôn ngữ ấy âm vang mãi mãi những giai điệu: “Jana
gana mana adhinayyaka jaya he jaya he jaya he” (“Cất bước đi lên, chiến thắng, chiến thắng và
chiến thắng”- Quốc ca An Độ); “Amar sonar Bangla ami tomay bhalo basil” (“xứ s
ở Bengal vàng
mười, ta yêu người” –Quốc ca Banglades).
Vào thập niên chín mươi của thế kỉ XIX, R. Tagore bắt đầu chắp bút viết những dòng văn
xuôi đầu tiên. Với hai tác phẩm Ông chủ bưu điện và Sự trở lại của Khobababur, Tagore chính thức
xuất hiện với tư cách là nhà viết truyện ngắn.
Đến thập niên đầu của thế kỉ XX, nhà văn chuyển sang viết tiểu thuyết, với hai tác ph
ẩm đầu
tay là Bến bờ Bibkhi (1882) và Radia-Nhà thông thái (1887). Chuyển hướng sang sáng tác tiểu
thuyết thực sự là một trải nghiệm mới mẻ đối với Tagore. Dù đã rất thành danh với thơ và truyện
ngắn, nhưng bước sang tiểu thuyết, Tagore cũng phải trải qua giai đoạn tìm đường, thử nghiệm và
thay đổi. Viết tiểu thuyết, Tagore hướng đến mục đích hết sức cao cả: giả
i thoát văn học dân tộc
khỏi tình trạng khô cứng và nghèo nàn. Đồng thời, ông muốn chứng minh sự linh hoạt của tiếng
Bengali, một ngôn ngữ không chỉ dành riêng cho thơ ca. Thêm nữa, với một trái tim nhạy cảm,
Tagore hiểu rất rõ thực trạng bức bối, phức tạp của Ấn Độ lúc bấy giờ. Đó là bức tranh mà thơ
không thể phản ánh chi tiết, truyện ngắn không đủ chuyển tải tất cả, chỉ có tiểu thuyết, với tầm vóc
đồ sộ của mình mới có thể tái hiện mọi khía cạnh và tất cả những vấn đề cuộc sống hiện thực. Bởi
vì, “
Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn
không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh được số phận của nhiều cuộc đời, những bức
tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách
đa dạng” (Nhiều tác giả (1993), Từ
điển thuật ngữ văn học, NXB văn học, Hà Nội). Cho nên,
chuyển hướng sang tiểu thuyết là thi sĩ Tagore bắt đầu một chặng đường mới. Sự khởi đầu này buộc
Tagore phải lựa chọn những đề tài phù hợp. Đó không chỉ là đề tài trước đây ông đã từng thể hiện
trong thơ mà còn là những mảng đề tài rộng lớn của cuộc sống hiệ
n thực. Sự khởi đầu này cũng
khiến Tagore phải lựa chọn hình thức nghệ thuật tương xứng. Đó không chỉ là bút pháp khai thác
tâm lý và những biện pháp tu từ mà còn là cách tái hiện nhân vật cùng lối dẫn truyện đặc trưng.
Tagore bước chân sang tiểu thuyết không phải với tư cách của người mở đường cho thể loại mới
nhưng là người khai thông những bế tắc cho tiểu thuyết trong lòng đông đảo qu
ần chúng. Thế nên,
tiểu thuyết Tagore đến tay bạn đọc không tạo sự ngỡ ngàng về một thể loại hoàn toàn xa lạ, nhưng
là bắt đầu một chặng đường phát triển mới của thể loại này. Khi chuyển sang viết tiểu thuyết,
Tagore, với vị trí là một nhà thơ nổi tiếng, có lợi thế rất lớn trong những trường đoạn miêu tả nội
tâm, khắc họa thiên nhiên, như
ng lợi thế này không giúp ông tránh khỏi những khó khăn ban đầu.
Buổi đầu, Tagore đi vào lối mòn quen thuộc của các nhà viết tiểu thuyết lúc bấy giờ: Đề tài
khai thác chủ yếu là những vấn đề lịch sử, từ đó, kín đáo gửi gắm những vấn đề hiện đại; cảm hứng
chủ yếu là cảm hứng lãng mạn thể hiện qua việc ngợi ca người anh hùng lý tưởng. Sự
khởi đầu một
thể loại mới của Tagore chưa vượt qua được cái bóng của tiểu thuyết truyền thống. Do đó, những
tác phẩm ban đầu của ông không để lại ấn tượng đối với công chúng.
Cùng với tài năng, thái độ làm việc nghiêm túc, cần mẫn, tâm huyết, Tagore đã bắt đầu một
chặng đường mới để khẳng định dấu ấn cá nhân. Ông bắt đầu chuyển h
ướng đề tài từ việc khai thác
vấn đề lịch sử chuyển sang quan tâm đến những vấn đề của đời sống hiện thực, đồng thời, lựa chọn
phương thức biểu hiện riêng, phù hợp hơn. Điều này đã thổi luồng sinh khi mới vào những bộ tiểu
thuyết của ông. Nhà văn Pháp G. Duyamen cho rằng: “Một tiểu thuyết thực sự hứng thú là tiểu
thuy
ết không chỉ mua vui cho chúng ta mà chủ yếu hơn là giúp đỡ chúng ta nhận thức cuộc sống và
cắt nghĩa thế giới”. Các tác phẩm của Tagore đã tái hiện bức tranh toàn cảnh Ấn Độ thời phục
hưng, đồng thời thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc trong cách nhìn của ông về nỗi khổ đau của con
người, đặc biệt là người phụ nữ. Những bộ tiểu thuyết đặ
c sắc của Tagore có thể kể tới là Nàng
Binodini (1901), Đắm thuyền (1905), Gora (1910), Ngôi nhà và thế giới (1916).
Trong hành trình sáng tạo, Tagore đến với thể loại tiểu thuyết không phải như một sự thử
nghiệm, trái lại, đó là con đường tất yếu của một thiên tài toàn diện. Cho nên, có thể nói rằng, con
đường đến với tiểu thuyết của Rabindranath Tagore là một sự dấn thân thực sự.
1.1.2. Cuộc dấn thân vinh dự
Trong tự thuật My life, Tagore viết: “Tôi sinh năm 1861. Đó không phải là một ngày quan
trong của lịch sử
nhưng nó thuộc về giai đoạn lớn lao trong lịch sử Bengal”. Giai đoạn lớn lao mà
Tagore muốn nói tới là giai đoạn trỗi dậy của tinh thần Ấn Độ với hàng loạt các cuộc cải cách trên
nhiều lĩnh vực.
Năm 1858, khi thực dân Anh chính thức tiến hành những chính sách khai thác thuộc địa, Ấn
Độ lâm vào giai đoạn bị tàn phá về cả vật chất lẫn tinh thần. Bị đẩy vào th
ời đại của những mất mát,
ý thức dân tộc của mỗi con người Ấn trỗi dậy mạnh mẽ. Và công cuộc phục hưng toàn diện đã diễn
ra, trong đó có văn học nghệ thuật.
Trong sự giao thoa với Phương Tây, nền văn học Ấn ngày càng lộ rõ sự tụt hậu. Về cơ bản,
truyền thống văn học dân tộc là truyền thống thơ ca, v
ăn xuôi không có chỗ đứng. Có thể nói, văn
học Ấn Độ trong thời hiện đại bị bó hẹp trong những khuôn khổ cứng nhắc, như có lần Tagore đã
nói: “Chúng tôi phải tìm thấy tự do không chỉ trong tư tưởng mà còn trong những biểu hiện văn học
nữa. Nhưng nền văn học của chúng tôi đã để cho sự sáng tạo tan biến. Nó thiếu phong trào và bị
ràng buộc trong một thứ tu từ h
ọc cứng nhắc”. Sự đổi mới, vì thế, là một nhu cầu tất yếu. Và người
khai thông nguồn mạch để văn học An Độ theo kịp dòng chảy thế giới chính là Bankim Chadra.
Cuộc cải cách văn học do B.Chandra khởi xướng đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm của tầng
lớp trí thức yêu nước, trong đó có Tagore.
Với sự am hiểu uyên thâm, cùng lòng yêu nước nhiệt thành và tinh thần cầu tiến, R.Tagore
đã hòa mình vào th
ời kỳ phục hưng Ấn Độ. Việc chuyển hướng sang tiểu thuyết nói riêng và văn
xuôi nói chung cũng là một cách đổi mới văn học dân tộc. Với sự chuyển hướng này, Tagore đã dấn
bước vào một con đường nhiều thử thách và khó khăn.
Cái khó khăn mà nhà văn phải đối diện là thái độ tiếp nhận của công chúng đối với thể loại
văn học và ngôn ngữ mới. Từ
ngàn xưa, người Ấn luôn tự hào về tiếng Bengali, một ngôn ngữ có
nguồn gốc tôn giáo cao quý, ngôn ngữ dành riêng cho thơ ca. Cho nên trong thời phục hưng văn học
được thể hiện trong lớp vỏ ngôn ngữ mới là tiếng Anh thì lập tức nó đã bị những tư tưởng bài ngoài
phê phán. Thêm vào đó, lịch sử văn học Ấn Độ, về cơ bản là lịch sử của thơ ca. Vì thế, tiểu thuyết
đến với công chúng trong tư cách là một thể loại mới đã tạo ra phản ứng nhất định. Trước Tagore,
Bankim Chandra và những nhà văn lớp trước đã cố gắng đem thể loại tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu
thuyết bằng tiếng Bengal lên văn đàn đương đại, nhưng sự hưởng ứng của công chúng là rất khiêm
nhường.
Như vậy, chuyển sang tiểu thuyết là con đường nhiều thử thách đối với Tagore ngay từ
những bước chân đầu tiên. Khó khăn nối tiếp khó khăn, hai tiểu thuyết đầu tay lấy đề tài lịch sử của
thế kỉ 17 đã không gây ấn tượng với độc giả và không thoát được cái bóng quá lớn của Bankim
Chandra. Sau hai tiểu thuyết trình làng, phải mất tới mười lăm năm tác phẩm tiếp theo mới xuấ
t bản.
Mười lăm năm không phải là khoảng thời gian dài trong đời người nhưng đủ dài trong cuộc đời
nghệ thuật và đủ để Tagore suy ngẫm tìm hướng đi phù hợp cho hành trình mới này. Năm 1902, tiểu
thuyết Cokher bàli ra đời. Không còn mang đề tài lịch sử xưa cũ, tác phẩm tập trung khai thác
những va chạm trong tư tưởng cá nhân, những hành động và phản ứng của nhân vật trong mối xung
đột. Từ tác phẩm này,
đông đảo công chúng đã tiếp nhận tiểu thuyết của ông.
Dù không phải là người viết tiểu thuyết bằng tiếng Bengal đầu tiên và khi dấn thân vào con
đường này, ông gặp phải rất nhiều những khó khăn, nhưng càng về sau, những bộ tiểu thuyết của
Tagore càng gặt hái được rất nhiều thành tựu, được đánh giá rất cao về cả nội dung lẫn hình thức.
Năm 1902, Đắm thuyền ra đời. Tác phẩ
m đã đặt nhân vật trong những mối xung đột, những
trăn trở triền miên nội tâm trên hành trình đi tìm hạnh phúc. Đây là bộ tiểu thuyết được giới phê
bình đánh giá rất thành công trong việc khai thác và phân tích tâm lý nhân vật, góp phần thể hiện
tiểu thuyết dòng ý thức, một dạng tiểu thuyết hiện đại rất mới đối trong văn học Ấn Độ bấy giờ.
Năm 1910, Tagore cho ra đời bộ tiểu thuy
ết lớn nhất của mình, tiểu thuyết Gora. Bối cảnh
của tác phẩm là thời kì đấu tranh sôi động của các phong trào cải cách xã hội. Đồng thời, đây cũng
là lời tiên đoán về cuộc đấu tranh bất hợp tác trong hòa bình chống lại chính quyền đô hộ mà một
thập niên sau, nó mới diễn ra dưới sự lãnh đạo của Mahatma Gandhi.
Với nội dung đồ sộ và hình thức nghệ thuật đổ
i mới, Gôra được đánh giá như là
Mahabharata của An Độ hiện đại. Câu chuyện của hai thời đại khác biệt đã gặp nhau ở điểm chung
trong tinh thần nhân văn đượm chất Ấn: Đó là tinh thần hòa hợp gắn kết mọi con người. Trải qua
bao năm tháng thăng trầm của lịch, thông điệp kết thúc câu chuyện sử thi “Trên thiên giới không có
chỗ cho lòng hận thù”, đã được ti
ếp nối trong sự đốn ngộ của nhân vật Gora “Cả thế giới là nhà tôi,
mọi người là anh em tôi”.
Theo dòng cảm hứng, Tagore tiếp tục cho ra đời bộ tiểu thuyết Ngôi nhà và thế giới (At
home and Outside). Cũng giống như Gora, tác phẩm là hình ảnh thu nhỏ của cả thời đại trong
những vấn đề của cá nhân và gia đình. Với những xung đột không ngừng của các nhân vật, tác phẩm
đã cho thấ
y toàn cảnh những mâu thuẫn bên ngoài gia đình. Và số phận mỗi nhân vật cũng là biểu
tượng cho những tầng lớp trong xã hội trước làn sóng văn hóa Phương Tây. Hiếm có bộ tiểu thuyết
nào trong giai đoạn ấy, có một sức khái quát vĩ mô như Ngôi nhà và thế giới.
Năm 1901, Tagore cho ra đời tác phẩm Chokher Bali viết bằng tiếng Bengali (Năm 1959
được đổi tên là Nàng Binodini). Đây không phải là bộ tiểu thuyế
t đầu tiên viết về người phụ nữ.
Trước đó, Bankim Chandra đã tái hiện hình ảnh đau thương của người góa phụ vào những năm 70
của thế kỉ XIX như Cây độc, Di chúc của Krixnasan. Nhưng bộ tiểu thuyết này của Tagore đã được
đón nhận nồng nhiệt và được đánh giá là “Tác phẩm đầu tiên và hay nhất về tâm lý phụ nữ trong
văn học Bengal” (Lời nhận xét của Humanyun Kabir), là “Sự bắt đầu con đường mớ
i cho văn xuôi
An Độ” (đánh giá của Bhabani Bhâttcharrya). Với tiểu thuyết Nàng Binodini, Tagore đã khai mở
thành công tiểu thuyết dòng ý thức, một kiểu tiểu thuyết hoàn toàn mới mẻ bấy giờ.
Như vậy, trên hành trình sáng tạo của mình, Tagore dấn bước sang con đường tiểu thuyết
như hướng đi tất yếu của một con người toàn tài. Tagore với tình yêu nghệ thuật và tinh thần
nghiêm túc, ông đã không ngừng đổi mới, sáng tạo
để cho ra đời những bộ tiểu thuyết đặc sắc.
Con đường tiểu thuyết của Tagore trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trước khi đạt được
những thành công, nhà văn đã phải đối diện với không ít thử thách. Bộ mặt mới của tiểu thuyết
Tagore bắt đầu khi ông có những bước đổi mới từ nội dung đến nghệ thuật thể hiện, bắt đầu là sự
chuyển hướng đề tài.
1.1.3. Sự chuyển hướng đề tài
Văn học có chức năng phản ánh cuộc sống. Các hiện tượng, sự việc của hiện thực là nguồn
đề tài vô tận cho văn học. Trong thời kì đầu, đến với tiểu thuyết, Tagore chú trọng khai tác các vấn
đề của lịch sử. Điều này đã hòa tan tác phẩm của ông vào những tác phẩm cùng thời. Không ai có
thể nhận ra diệ
n mạo riêng của tiểu thuyết Tagore cho đến khi nhà văn chuyển hướng đề tài. Tagore
bắt đầu khai thác các đề tài hiện thực thay cho các vấn đề lịch sử trước đây. Nắm bắt hơi thở thời
đại, R.Tagore đã tạo thành những chất liệu văn học sống động và chân thực. Hiện thực cuộc sống
trong tác phẩm của Tagore là những mảng sáng tối, những vấn nạn còn tồn t
ại trong xã hội Ấn Độ
hiện đại, tình yêu đôi lứa và đặc biệt là hình ảnh đời sống gia đình với tất cả những yêu thương và
xung đột.
1.1.3.1. Những vấn nạn của xã hội và thời đại
Đất nước An Độ những năm đầu thế kỉ XIX trở nên hết sức trì trệ và ngột ngạt. J.Nehru nói:
“Cuộc sống An Độ trở thành một dòng nước lờ
đờ, sống trong quá khứ, di chuyển chậm chạp qua
những thế kỉ chết chồng chất. Gánh nặng quá khứ đè bẹp nó và một thứ hồn mê xâm nhập nó”. Lối
sống bảo thủ, ít sáng tạo của người Ấn bắt nguồn từ niềm thỏa mãn đối với quá khứ, từ những tập
tục hà khắc cổ hủ. Do vậy, sức kìm hãm của những cái xưa cũ
cộng thêm sự cai trị thực dân làm bức
tranh hiện thực Ấn Độ bao trùm sự đen tối.
Là một người có cái nhìn tinh tế về hiện thực, Tagore đã chỉ cho độc giả Ấn Độ thấy được
những vấn nạn trong nội bộ tư tưởng của dân tộc mình. Đó là tình trạng cưỡng hôn, những luật tục
hà khắc đối với người phụ nữ và cả nh
ững vấn đề nóng bỏng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong truyện ngắn Lá số tử vi, nhà văn đã từng bày tỏ quan niệm: “Hôn nhân là một bản
nhạc mà người ta diễn tấu trọn đời. Lời ca chỉ là một điệp khúc đơn giản nhưng có hàng ngàn cách
ứng tấu khác nhau hàng ngày”. Và hôn nhân lại là vấn đề trung tâm trong nhiều tác phẩm văn học.
Nàng Giribala (Mây và mặt trời) và Mahamaya (Dàn hỏa thiêu) đều cất bước theo chồng
trong nỗi u sầu sâu khuất. Trên chi
ếc thuyền hoa, Giribala đã không một lần nào “ngẩng đầu nhìn
lên, những giọt nước mắt rơi lã chã trong nỗi sầu muộn âm thầm”. Còn đám cưới của Mahamaya
lại diễn ra trong một không gian đầy mùi chết chóc: “Chính tại gian phòng tối om, lờ mờ ánh lửa
của hai giàn hòa thiêu gần đấy, lễ cưới của Mahamaya được cử hành với tiếng lầm rầm đọc kinh
hành lễ hòa lẫn tiếng rên rỉ của k
ẻ sắp chết” (Dàn hỏa thiêu).
Cưỡng hôn đã khiến bao nhiêu người phụ nữ trở thành quả phụ khi tuổi đời còn quá trẻ.
Nàng Binodini trong bộ tiểu thuyết cùng tên đã phải dằn vặt trong đau khổ, khao khát trong tuyệt
vọng. Nó đã khiến Mahamaya (Dàn hỏa thiêu) trở thành quả phụ ngay sau đêm cưới.
Sự phân biệt đẳng cấp trong hôn nhân cũng là vấn đề được nhà văn hết sức quan tâm. Trong
truyện ngắn Dàn hỏa thiêu, Rajib đã chua chát nhận ra hàng rào đẳng cấp khi anh cầu hôn
Mahamaya: “Liệu có bao giờ nàng có thể bằng lòng chịu lấy Rajib tuy cũng thuộc đẳng cấp
Bàlamôn nhưng ở hàng thấp hơn? Tình yêu là một chuyện, hôn nhân lại là một chuyện khác”.
Không chỉ đẳng cấp, tôn giáo còn là vật cản đối với hôn nhân tự nguyện. Lời tâm sự đầy than
vãn của Kuxum trong truyện ngắn Từ con đã là một lờ
i tổng hợp xác đáng về thực trạng này: “Vừa
mới đụng vào tôn giáo, tình yêu vĩnh cửu của ta đã tan vụn ra thành những nhúm nhỏ”.
Truyền thống cưỡng hôn trong nếp sống gia đình của người Ấn và những định kiến gay gắt
trong hôn nhân đã đẩy đưa biết bao nhiêu số phận con người rơi vào bi kịch. Vì thế, nó trở thành
vấn đề nhức nhối trên các trang văn học và hiện di
ện trong tác phẩm Tagore như một nỗi ám ảnh
khôn nguôi trong lòng người qua bao thế hệ.
Vào những năm đầu thế kỉ XIX, vấn đề giải phóng người phụ nữ được các nhà cải cách xã
hội như Ram Mohan Roy, Issorchandra Biddsagor hết sức quan tâm. Theo tục lệ tôn giáo, người
phụ nữ Ấn Độ thường đeo vòng kiềng ở chân và trùm khăn mặt để nhắc nhớ về bổn phận của mình.
Cái vòng chân như cái xiề
ng đã xích họ lại trong những công việc nội trợ quần quật hằng ngày, cái
khăn che mặt khiến họ không bao giờ dám ngẩng mặt đối diện với bất kì ai. Với lòng yêu mến và
cảm thông chân thành, Tagore dùng ngòi bút của mình để gióng lên tiếng nói đấu tranh cho quyền
phụ nữ. Đặc biệt, hình tượng người phụ nữ góa bụa khốn cùng đã tìm được sự tái hiện trong hầu hết
các tác phẩm văn xuôi củ
a nhà văn. Đó là người góa phụ trẻ (Người láng giềng xinh đẹp) với ánh
nhìn xa xăm trong đôi mắt khao khát vô vọng “Tổ ấm trong một trái tim người”. Đó là nàng
Binodini trong tiểu thuyết cùng tên với tình yêu cháy bỏng, nồng nàn nhưng tuyệt vọng. Đó là
Mahamaya (Dàn hỏa thiêu) với những vết thương thể xác và tinh thần hằn sâu vĩnh viễn suốt cuộc
đời.
Hơi thở của thời đại cũng đã thổi vào sáng tác của Tagore với một luồng sinh khí mới. Trong
tiểu thuyết lớn nhất của mình, Gora (1910), ông đã đề cập đến những vấn đề chính trị đất nước. Sự
thành công của bộ tiểu thuyết không chỉ
bởi dung lượng mà còn bởi nội dung to lớn mà nó chuyển
tải.
Càng về cuối, những sáng tác của Tagore càng gần gũi với cuộc sống, theo sát, bắt nhịp và
phản ánh kịp thời những biến cố của xã hội và con người. Những bộ tiểu thuyết của ông không còn
đi bên lề cuộc sống mà thực sự tham gia vào cuộc sống tạo thành một sức hút đối với độc giả.
1.1.3.2. Đề
tài giới trẻ và tầng lớp trí thức Ấn Độ
Giới trẻ và tầng lớp trí thức Ấn đã tìm được sự thể hiện nghệ thuật trong các sáng tác của
Tagore. Ông tỏ ra rất quan tâm và am tường đời sống của họ. Trong trang văn của Tagore, họ hiện
lên với rất nhiều hình tượng, từ những người trí thức là bác sĩ, luật sư, thầy giáo, sinh viên đến
những người nông dân chất phác, nh
ững kẻ làm công hiền lành. Trên những trang tiểu thuyết hay
truyện ngắn của ông, không hề có sự phân biệt đẳng cấp. Viết về họ, bao giờ ngòi bút của ông cũng
thể hiện niềm cảm thông che chở, sự yêu thương chân thành và đặc biệt là niềm tin vào nhân cách
của họ.
Trước hết, họ đều là những con người hành động. Trong Đắm thuyền, Ramesh đau đớn nhận
ra sự nhầm lẫn như
ng anh không bao giờ buông xuôi để xem con tạo xoay vần ra sao. Ngược xuôi
đến nhiều vùng đất của Ramesh là hành trình đi tìm lời giải cho bài toán tương lai. Hành động
không ngừng suy tư, trăn trở nội tâm của anh cho thấy tính chất con người chủ động và sẵn sàng
đón nhận mọi thử thách của cuộc đời. Khi sự thật trả tất cả những gì trước đây nhầm lẫn về đúng vị
trí thì anh bước ra đường v
ới lời tự nhủ: “Giờ đây, không ai cần mình nữa, trừ chính mình ra, mình
phải bước vào đời và sống cuộc sống của chính mìnhi” [61, 358].
Trong Đắm thuyền, ta còn bắt gặp hình ảnh Kamala cương quyết dấn thân tìm chồng trong
bóng tối nhá nhem đáng sợ. Dũng cảm gạt sang nỗi đau, kiên cường trước bóng đêm mà trước đây
đã từng là nỗi sợ, Kamala cất bước ra đi. Hành động kiên quyết, không chút lưỡ
ng lự ấy đã làm vụt
sáng tính cách mạnh mẽ tiềm tàng bấy lâu trong con người nàng.
Kiên cường đấu tranh với nghịch cảnh, không ngừng hành động để kiếm tìm hạnh phúc,
những người trẻ trong tác phẩm của Tagore đã làm đúng như lời tuyên ngôn của ông trong tiểu
thuyết Đắm thuyền: “Lúc thịnh cũng như lúc suy, đời người là cuộc đấu tranh không ngừng chống
lại những rủi ro” [16, 73].
Là con người của hành động, người góa phụ trẻ Binodini trong tác phẩm cùng tên, đã đấu
tranh không ngừng để tìm kiếm hạnh phúc. Tagore viết: “Cái viễn cảnh ảm đạm phải sống cả đời
trong cái hang tẻ ngắt chẳng chút tình yêu thương trong hẻm vắng suốt những ngày dài không hoạt
động, không mục đích làm bản tính nổi loạn trong nàng được khơi dậy, phản kháng” [40, 616].
Yêu Bihari, Binobini chủ động bày tỏ tình yêu với anh bằng những bứ
c thư chân thành,
không ngần ngại bày tỏ trước tình cảm của mình. Hành động ấy khiến bao nhiêu người phụ nữ thế
kỉ 21 phải ngỡ ngàng.
Giới trẻ và tầng lớp trí thức Ấn, trong tác phẩm của Tagore có đời sống nội tâm hết sức
phong phú. Khi phát hiện Kamala không phải là cô dâu của mình, nội tâm Ramesh (Đắm thuyền)
bắt đầu đặt ra những câu hỏi. Rồi những chặng đường sau này, mỗi khi chiều xuố
ng, trước hoàng
hôn hay dưới ánh trăng, Ramesh thường đắm mình trong suy ngẫm. Những suy ngẫm của anh chảy
dài như một dòng sông: mênh mông và vô tận. Người đọc, nếu không quen với kiểu tiểu thuyết của
nhà văn, sẽ băn khoăn tự hỏi, tại sao nhân vật lại có nhiều lần trăn trở đến thế. Trong trọn bộ tiểu
thuyết, các nhân vật chính như Ramesh, Kamala hay Hemnalini thể hiện tâm trạng nội tâm của mình
chiế
m tới một nửa số lần xuất hiện trong tác phẩm.
Những trăn trở của nhân vật làm cho họ dần trưởng thành. Đó cũng là một cách sống tích
cực. Mâu thuẫn là động lực của sự phát triển. Đấu tranh với mâu thuẫn nội tâm là cách phá bỏ
những hàng rào giam hãm cuộc đời, để từng giây phút trôi qua, con người được tái sinh và cảm
nhận đời sống bao la còn mình là một phần của thế giới.
Không chỉ là những con người hành động, những con người có đời sống nội tâm phong phú,
giới trẻ và tầng lớp trí thức Ấn Độ còn là những con người giàu nghĩa tình, sống trách nhiệm và ý
thức sâu sắc về bổn phận.
Người đọc yêu mến Ramesh vì tấm lòng tràn đầy tình yêu thương. Chính vì yêu thương, anh
không nỡ đẩy người con gái mồ côi ra ngoài xã hội. Trong nỗi trăn trở của Ramesh luôn có sự cân
đo giữa tình yêu và tình thương, luôn có sự hiệ
n diện tiếng nói của con tim và lý trí. Anh không biết
lựa chọn ra sao khi Kamala gắn với lòng nhân ái và trách nhiệm còn Hemnalini là tình yêu và hạnh
phúc. Con người anh, vì thế, như trôi dạt vào tận cùng vũ trụ không phải để thấy mình nhỏ bé mà là
để thấy rằng con người đôi khi phải hi sinh tình yêu và hạnh phúc riêng vì tình thương và trách
nhiệm.
Các nhân vật trong mọi sáng tác của Tagore luôn có cái nhìn nhân ái và sống tràn đầy tình
yêu thương. Kamala (Đắm thuyền) đã che chở cho cuộc đời mồ côi của cậu bé Umesh; Hemnalini
hế
t sức yêu thương cha mình, tình yêu ấy chỉ có một phần nhỏ là nghĩa vụ còn tất cả đều xuất phát
từ trái tim. Cũng vậy, tình yêu thương mẹ của Nalinaksha rất vô bờ bến. Cho nên, mỗi khi nhắc tới
mẹ, trong mắt anh ánh lên niềm vui khôn tả, cái niềm vui khiến người đối diện phải ngỡ ngàng khi
thấy niềm “yêu mến trang trọng và thiết tha bừng sáng trên gương mặt anh khi nhắc đến người mẹ”
[42, 227].
Trong tác phẩm Thực nghiệm tâm linh, Tagore đã nhấn mạnh: “Trong toàn thiện vô biên,
không thể có đẳng cấp (…) Người là tuyệt đối độc nhất, không thể có hơn hay kém”. Vấn đề đẳng
cấp và những khác biệt tôn giáo đã từng là hành rào ngăn cách thế giới con người. Nhưng những
nhân vật trong tiểu thuy
ết Đắm thuyền chưa bao giờ suy tư, nghĩ ngợi về điều này khi đến với nhau.
Ramesh theo Hindu giáo chính thống còn Hemnalini theo phái Brahmo Samaj (giáo phái thành lập
năm 1828, thờ thần Brahma, chủ trương cải cách đạo Hindu và xã hội), thế nhưng tình yêu giữa họ
vẫn nẩy nở một cách tự nhiên và trong sáng. Câu chuyện Người láng giềng xinh đẹp chỉ có ba nhân
vật: hai người nhân vật trí thức nam và một người phụ nữ góa bụa. Nhân vậ
t xưng tôi trong tác
phẩm, ngay từ ban đầu đã thể hiện cái nhìn cảm thông chân thành đối với số phận góa bụa của
người phụ nữ, anh nói: “Đối với cậu, đứng xa mà lí tưởng hóa cuộc sống góa bụa thì rất dễ, nhưng
cậu phải nhớ rằng, trong cuộc sống góa bụa kia, có một trái tim đập dồn dập vì đau khổ và khao
khát”. Người bạn của anh tuy ban đầu cho rằng tái hôn sẽ làm mấ
t đi cái ý nghĩa thanh khiết của
cuộc đời người góa bụa, nhưng sau cùng, chính anh là người đã mạnh dạn cầu hôn người phụ nữ
mất chồng cạnh nhà và dũng cảm cãi lời cha để lựa chọn hạnh phúc cho mình.
Câu chuyện nhỏ trong Từ con đã chuyển tải thông điệp lớn lao. Trước sức ép của người cha,
nhân vật Hêmanta đã phải phân vân chọn lựa hạnh phúc hay đẳng cấ
p. Nhưng cuối cùng, anh đã
kiên quyết: “Thưa cha, con không bỏ vợ đâu (…) Con bất cần đẳng cấp”. Lời dõng dạc tuyên bố
của anh thực sự tạo ra chấn động. Nó đánh thẳng vào thành trì tồn tại hành ngàn năm qua của tư
tưởng đẳng cấp. Biết bao nhiêu hạnh phúc bị vùi dập, biết bao nhiêu mối tình bị rơi vào tấn bi kịch
tan vỡ chỉ vì đẳng cấp. Lời tuyên bố b
ất cần đẳng cấp đã dội một gáo nước lạnh vào những định
kiến khắt khe và mở ra con đường mới cho những tư tưởng tiến bộ.
Cùng với những chuyển biến của thời đại, người thanh niên Ấn Độ còn là những người có lý
tưởng cao đẹp, sống và đấu tranh vì một mục đích lớn lao. Năm 1910, Tagore xuất bản tiểu thuyết
Gora. Tác phẩm là lời tiên
đoán về cuộc cách mạng bất hợp tác với thực dân Anh để giải phóng dân
tộc mà sau này được lãnh đạo bởi M. Gandhi. Nổi bật trong bộ tiểu thuyết đồ sộ này là hình tượng
nhân vật Gora. Anh là người gốc Anh, mồ côi cha mẹ và sống với bố mẹ nuôi người Ấn Độ. Người
thanh niên trẻ Gora tích cực tham gia hoạt động trong các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Hình tượng nhân vật Gora là lời kêu gọi và cổ vũ tầ
ng lớp thanh niên, trí thức Ấn Độ vùng dậy đấu
tranh giải phóng đất nước.
Hình ảnh giới trẻ và tầng lớp trí thức Ấn đã tạo ra luồng sinh khí mới trong mảng đề tài về
hiện thực. Khi tái hiện, Tagore không lôi bật họ ra khỏi đời sống dân tộc và cố khoác vào họ những
cái áo tân thời. Họ vẫn là những con người rất Ấn, với những ý thức sâu sắc về bổ
n phận và nghĩa
vụ, nhưng họ không sống thụ động, họ đã biết hành động để khẳng định và kiếm tìm con đường đi
đến hạnh phúc. Đời sống của họ là đời sống của con người biết yêu thương, và chia sẻ. Thế giới nội
tâm của họ đầy những biến động, phức tạp và trăn trở khôn nguôi. Đó thực sự là cuộc đấu tranh, đấu
tranh để t
ừng ngày hoàn thiện bản thân, đấu tranh để trưởng thành và tìm nguồn an ủi trên con
đường phía trước.
1.1.3.3. Đề tài tình yêu đôi lứa
Tình yêu là một đề tài xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Tagore.
Tagore viết: “Thiếu tình yêu là một thứ chai đá, vì tình yêu là sự toàn thiện của tâm thức. Ta
không yêu vì ta không hiểu, hay nói đúng ra là ta không hiểu vì ta không yêu. Thật vậy, tình yêu là ý
nghĩa cuối cùng của tất cả những gì chung quanh ta. Chẳng phải chỉ là một tình cảm thế thôi, mà là
chân lý, niề
m vui ở tại nguồn gốc của mọi sự sáng tạo” (Thực nghiệm tâm linh). Đã nhiều lần,
Tagore khẳng định ông đến với đời trong tư cách của một tình nhân. Cho nên, dù sáng tác thơ ca
hay truyện ngắn, kịch hay tiểu thuyết, đề tài tình yêu là nguồn mạch vô tận. Có thể nói, tình yêu đã
tìm được sự thể hiện toàn diện trong nghệ thuật trên các tác phẩm của Tagore.
Tình yêu đến trong những rung cảm sâu xa từ ánh nhìn củ
a đôi mắt: “Tay xiết trong tay, mắt
vờn theo mắt, từ đó lịch sử tâm tình đôi ta bắt đầu” (Bài 16, Người làm vườn). Để nói lên màu sắc
tình yêu, Tagore thường mượn hình ảnh của đôi mắt và ánh đèn. Dường như luồng ánh sánh nồng
ấm và lan tỏa của đèn rất phù hợp với tính chất ngọt ngào hạnh phúc của tình yêu:
Tình yêu ơi! Khi người đến
Với ngọn đèn khổ đ
au bừng sáng ở trong tim
Thì ta có thể nhìn thấy mặt người
Và biết người là tuyệt vời hạnh phúc.
(Bài 62, Những con chim bay lạc)
Đôi mắt nhìn nhau, như Tagore đã nói: “Đôi mắt ta liên hệ với nhau trong một sự hòa đồng
khiến chúng động tác tuy hai mà một” (Thực nghiệm tâm linh), và đôi mắt với tư cách là cửa sổ tâm
hồn, mới có thể nói hết tâm trạng khi yêu mà không một ngôn ngữ nào có thể chuyển tải:
Đ
ôi mắt băn khoăn của em buồn
Đôi mắt em nhìn sâu vào tâm tưởng của anh
Như trăng kia muốn vào sâu trong biển cả.
(Bài 28, Người làm vườn)
Đôi mắt em còn là nơi chốn bình yên để cuộc đời anh trải dài trong niềm vui và hạnh phúc:
Tim tôi, cánh chim vùng hoang dại, đã thấy trong mắt em cả một phương trời. Mắt ấy là nôi
ngủ của bình minh; mắt ấy là vương quốc của các vì sao đêm.
(Bài 31,
Người làm vườn)
Thế nên, trong niềm khao khát cháy bỏng, anh bao giờ cũng muốn chiếm trọn em cho riêng
anh, riêng mình anh mà thôi: “Em là mây chiều lững lờ trôi trên bầu trời mộng ước của tôi. Đem
tình yêu thèm khát, tôi hằng vẽ em, hằng tạo ra em. Em là của riêng, của riêng tôi, đang ngự trị
đỉnh mộng đẹp vô bờ tôi ấp ủ!” (Bài 30, Người làm vườn)
Tình yêu trong bản chất không chỉ có mật ngọt và hạnh phúc mà còn có cả những buồn đau
tan vỡ. Dù có những kh
ổ đau khi yêu, nhưng thơ tình Tagore không làm người đọc rơi vào bi lụy.
Điều này được bắt nguồn từ quan niệm về nỗi u buồn của ông: “Không sợ chết cũng chẳng sợ đau
khổ, và chỉ thấy ở đau khổ một phương diện của niềm vui (…) Chúng ta hiểu rằng đau khổ là cái
giá phải trả cho bất cứ cái gì có giá trị trong đời sống: quyền năng, minh tri
ết, tình yêu” (Thực
nghiệm tâm linh). Cho nên, thơ tình Tagore khi thể hiện tận cùng nỗi đau, niềm tin vẫn luôn luôn
hiện hữu:
Hãy đặt lòng tin vào tình yêu cho dẫu tình yêu mang lại khổ đau. Chẳng nên khép kín lòng
mình như thế …
Em ơi! Trái tim ta có cũng chỉ để đem cho người đời với giọt lệ với bài ca…
Nguồn vui mong manh như giọt sương mai vừa mới nở cười đã vội vàng chết yểu. Nhưng u
buồ
n thường dai dẳng khó tan. Hãy để tình yêu trong mắt em bừng sáng.
(Bài 30, Người làm vườn).
Tiếp nối mạch chảy tình yêu trong thơ, các tác phẩm văn xuôi của Tagore cũng đi sâu khai
thác đề tài này. Nhưng nếu trong thơ, tình yêu được thể hiện với những cung bậc thuộc về bản chất,
thì khi bước sang truyện ngắn hay tiểu thuyết, tình yêu được gắn với số phận, gắn với đời sống xã
hộ
i mà ở đó, nó phải đối diện với những mối quan hệ khác nhau. Trong thơ, tình yêu thể hiện tất cả
những gì là hỉ nộ, là buồn vui và hạnh phúc, nhưng khi sang văn xuôi, tình yêu có một đời sống cụ
thể. Đời sống ấy không thể tách rời khỏi tôn giáo và đẳng cấp, bổn phận và gia đình. Trong những
mối quan hệ này tình yêu chưa tìm được tiếng nói đồng điệu. Chính vì thế, tình yêu cũng phả
i đấu
tranh để thay đổi số phận mà xã hội dành cho mình.
Đối diện với đẳng cấp và tôn giáo, tình yêu đôi lứa đứng trên bờ vực thẳm. Những luật tục hà
khắc của xã hội An Độ không thừa nhận tình yêu tự do. Mối tình trong sáng của Rajib và
Mahamaya trong Dàn hỏa thiêu cũng vì đẳng cấp mà ta vỡ.
Tình yêu trong Ảo ảnh tan vỡ lại mòn mỏi dưới sức nặng của tôn giáo. Người con gái tiểu
vương
đã yêu người theo đạo Hindu trong sự say mê và tôn kính: “Nếp sống sùng đạo và phong thái
tự chủ của chàng trai Hindu đưa đầu óc ngây thơ của cô gái Hồi là tôi vào một trạng thái ngây
ngất, vừa tôn kính vừa yêu thương”. Khác biệt tôn giáo đã biến tình yêu thành những ảo vọng trong
cuộc chơi trốn tìm. Người con gái tiểu vương và Kasáclan tồn tại trên hai đường thẳng song song
mà khoảng cách giữa họ là tôn giáo. Họ có thể đối diện thật gần nhưng không bao giờ
gặp gỡ và đến
được với nhau. Những khác biệt tôn giáo ngăn cách hai con người ấy bằng khoảng không gian vô
tận. Và dù “một ngàn năm có qua đi nữa, cũng không sao dịch hai người gần nhau bằng một
khoảng rộng của bàn tay” (Đắc đạo).
Đắm thuyền đặt tình yêu trong mối quan hệ với bổn phận. Ramesh vì bổn phận làm con
không thể cãi lời cha. Anh đau đớn hi sinh mối tình đầu tuyệt đẹp của mình vì nghĩa vụ làm con
trong gia đình Hindu giáo. Nế
u không có tình huống đắm thuyền và không biết được sự nhầm lẫn
thì anh không dám nuôi hi vọng tình yêu với Hemnalini. Nhưng hi vọng để thất vọng. Trách nhiệm
đối với cuộc sống của Kamala không cho phép anh có được niềm khao khát yêu đương. Nhiều lần
anh từng đặt lên bàn cân bổn phận và tình yêu nhưng bao giờ bổn phận cũng nặng hơn. Cuối cùng,
khi đã trải qua nhiều biến cố cùng nhiều lần trăn trở, một l
ần nữa anh đành chấp nhận hi sinh tình
yêu của mình.
Câu chuyện về nàng Binodini trong bộ tiểu thuyết cùng tên đã đặt tình yêu trong mối quan hệ
với những định kiến xã hội. Là người phụ nữ góa bụa, Binodini rất yêu Bihari. Nàng tìm đủ mọi
cách để bày tỏ tình cảm của mình. Nhưng cuối cùng, tình yêu ấy cũng phải nhường chỗ cho luật tục
khắt khe. Sự góa bụa trong tiểu sử của nàng đã không cho phép nàng có được h
ạnh phúc trong cuộc
đời. Lời nói cuối cùng của nàng trong tác phẩm khiến người đọc day dứt khôn nguôi: “Anh sẽ không
bao giờ được hạnh phúc nếu anh lấy em. Anh sẽ mất hết lòng kiêu hãnh và tự trọng, mà ở em cũng
sẽ không còn. Anh hãy tiếp tục cuộc đời anh như anh đã sống, trong sáng và tự do…”[47, 662].
Tình yêu vợ chồng của Mahendra và Asa cũng có những va chạm trong mối quan hệ với gia
đình. Chính sự quấn quýt bên nhau không rời đã làm phật lòng ng
ười mẹ và người thím góa bụa.
Mahendra vì quá yêu người vợ của mình mà không còn quan tâm đến những thành viên trong gia
đình, gần như bỏ quên người mẹ già đã hết lòng yêu thương anh, còn Asa không hoàn thành trọn
vẹn vai trò dâu con. Chính vì thế, họ tự đưa tình yêu của mình tới chỗ mâu thuẫn với gia đình, tạo ra
bầu không khí bất hòa gay gắt. Và từ đó, ngày qua ngày nó trở nên nhàm chán và lỏng lẻo, nó không
đủ sức níu trái tim. Do vậy, Mahendra mới có những bước chân lầm lạc khi bỏ lại sau l
ưng tất cả để
chạy theo Binodini.
Cũng về đề tài tình yêu, nhưng truyện ngắn Đắc đạo lại mang đến một hương vị khác cho
người đọc. Câu chuyện kể một vị tu sĩ trong rừng sâu chìm đắm trong tu luyện khổ hạnh. Hằng ngày
người sơn nữ dâng hoa quả cho ngài. Mải mê với mục đích tu hành, ngài không hề quan tâm đến
tấm chân tình của cô gái. Cuối cùng đạo sĩ đắc đạ
o, đạt được quyền nhập vào cõi niết bàn thì ngài
nhận ra rằng cái mình cần duy nhất lúc này đó chính là người sơn nữ.
Trong sự nghiệp văn chương của Tagore, tình yêu là mảng đề tài xuyên suốt. Nếu thơ tình
Tagore là những cung bậc nội tâm khi ngây ngất khi đau khổ thì tình yêu trong văn xuôi của ông có
hình hài cuộc sống và mang hơi thở thời đại. Khắc họa tình yêu, các trang văn xuôi của Tagore có
rất nhiều giọng điệu, lúc tự sự sâu lắng lúc trữ tình thiết tha. Trong mọi giọng điệu, tình yêu ở tiểu
thuyết và truyện ngắn của ông được gắn kết với một số phận riêng. Và dù trong tư cách là một nhà
thơ hay một nhà văn, Tagore luôn luôn là người thể hiện rất thành công về tình yêu.
Bên cạnh tình yêu đôi lứa, bức tranh về hiện trạng gia đình cũng được tái hiện m
ột cách sâu
sắc và cụ thể.
1.1.3.4. Đề tài gia đình
Là tế bào của xã hội, gia đình trở thành điểm tựa nuôi dưỡng tình cảm và tâm hồn mỗi con
người. Với vai trò to lớn ấy, gia đình có một ý nghĩa hết sức quan trọng sự phát triển của xã hội.
Chính vì thế mối quan hệ giữa gia đình và xã hội là mối quan hệ khắng khít và biện chứng. Do đó,
những biến động trong bứ
c tranh xã hội Ấn Độ đương thời tác động sâu sắc đến gia đình. Chưa bao
giờ như bây giờ, gia đình đứng trước nhiều vấn đề thử thách.
Vấn đề gia đình không phải là một đề tài mới trong văn xuôi Bengal, nhưng Tagore đã biết
làm mới khi đặt nó dưới nhiều góc độ và những mối quan hệ khác nhau. Hơn thế, từ ngôi nhà Ấn
Độ, ông đã mở ra cả một thế
giới. Đó là thế giới với sự bình yên và xung đột, với tình cảm yêu
thương tha thiết và sự mâu thuẫn gay gắt không thể tránh khỏi.
Khi tái hiện các nhân vật của mình, Tagore thường đặt họ trong không gian gia đình. Không
gian ấy tuy nhỏ hẹp nhưng đã tạo những nền tảng đầu tiên để nhân vật đối diện với không gian rộng
lớn ngoài xã hội. Với sợi dây yêu thương, các thành viên trong gia đình đã gắn kết t
ạo thành những
trang truyện nhiều xúc động. Trong các trang tiểu thuyết, hình ảnh gia đình Ấn Độ truyền thống đã
được nhà văn miêu tả khá tập trung.
Đọc Đắm thuyền, tình phụ tử và mẫu tử thực sự tạo cho người đọc những ấn tượng mạnh mẽ.
Nhân vật người cha Babu Annada rất yêu và hết lòng lo lắng cho các con. Vì thế đứng trước nỗi đau
của con “tim ông như thắt l
ại vì lo lắng cho cô con gái mà bao nhiêu năm nay ông đã thay bà chăm
sóc” [ 20, 97]. Đến tuổi gần đất xa trời, ông chỉ mong mình có thể hoàn thành tâm nguyện cuối đời
được nhìn thấy con hạnh phúc: “Con ơi! Cha cầu trời gạt bỏ tất cả những chướng ngại trên đường
con đi, cầu cho con suốt đời hạnh phúc. Cha cầu sao cho trước lúc đi gặp mẹ con, cha được thấy
con sung sướng toại nguyện, êm ấm chung đôi với người con yêu”
[20, 97]. Và niềm vui của con
cũng chính là niềm vui của ông. Đời người là sự đan xen của cả niềm vui và nỗi buồn, nụ cười và
nước mắt. Những đau khổ và hạnh phúc của nhân vật babu Annada đều khởi nguồn từ tấm lòng ông
dành cho con mình. Có thể nói, trong hệ thống nhân vật của Tagore, babu Annada là một trong
những hình tượng người cha cao quý nhất. Nó rất khác so với hình ảnh người cha trong gia đình Ấn
Độ truyền thống. N
ếu những người cha truyền thống thường lấy quyền uy và mệnh lệnh thay thế
cho tình thương và sự thấu hiểu thì babu Annada lại ngược lại. Lòng yêu thương con của ông đã đạt
tới độ hòa hợp thấu hiểu. Có thể nói hình ảnh hai cha con babu Annada trên sân thượng là sự tái
hiện đẹp đẽ nhất về hình ảnh gia đình: “Trong khi họ trò chuyện thì trời đã xế tà, bầu trời chuyển
sang xin xỉn màu đồng. Cái giây phút giao cảm thầm lặng trên sân thượng giữa bao nhiêu ồn ào
náo động của thành phố lớn nói lên lòng yêu thương nhau giữa cha và con, giữa già và trẻ. Họ nấn
ná mãi cho đến khi nhập nhòa bóng tối và những giọt sương êm ái rơi xuống mặt như những giọt
nước mắt” [38,195].
Đáp lại lòng yêu thương của cha, Hemnalini là một người con rất hiếu thảo. Rất nhiều lần,
khi nhìn thấy những u sầu trên khuôn mặt cha, mọi nỗi muộn phiền riêng tư nội tâm đều tan biến
nhanh chóng. Lòng nàng chỉ còn một nỗi xúc động tràn ngập về cha, chỉ còn duy nhất tình yêu
thương và kính trọng cha.
Không chỉ có hình tượng người cha cao quý, tác phẩm còn thể hiện sâu sắc về tình mẫu tử
thiêng liêng mà nhẹ nhàng. Thường xuyên phải đố
i diện với những trận ốm của tuổi già, bà
Kshemankari hiểu rằng thời gian trần thế của bà đã sắp hết. Nhưng điều lo lắng duy nhất trong lòng
của người mẹ này không phải là bệnh tật, là sự sống và cái chết mà là hạnh phúc của Nalinaksha,
người con duy nhất của bà. Bà nôn nóng hăm hở sắp đặt cuộc hôn nhân giữa Nalinaksha và
Hemnalini chỉ vì hạnh phúc của con. Bà nói với con việc cưới xin bằng gi
ọng điệu phân trần tha
thiết chứ không phải bằng mệnh lệnh ép buộc khắt khe: “Con hãy làm ơn theo lời mẹ, con hãy cưới
vợ đi” [49, 263].
Nalinaksha, con trai bà, xuất hiện trong tác phẩm như là hình ảnh của một con người mộ đạo,
say mê những lễ nghi tôn giáo. Người ngoài nhìn vào sẽ chỉ thấy Nalin là một nhà tu khổ hạnh
nhưng với trái tim người mẹ, bà Kshemankari đã nhìn thấy ở con mình một trái tim trần tục.
Đó là
cái nhìn thấu hiểu xuất phát từ tình yêu thương vô bờ dành cho con. Bà nói với Hemnalini: “Chỉ
nhìn nó bề ngoài, cứ tưởng nó không thể nào yêu được, nhưng như thế là người ta nhầm (…) Nó có
thể xúc cảm mạnh mẽ đến nỗi, nó đâm sợ phải cố kiềm chế khắt khe tình cảm của mình. Ai vượt qua
được lớp vỏ khổ hạnh ấy tìm thấy con đường đi vào tâm hồn nó, thì nhất định khám phá ra đấy là
m
ột người rất nồng nhiệt” [55, 322]. Tình yêu con của bà còn tìm thấy trong mỗi lời nói về con.
Nói về con, trong từng câu chữ, lòng bà bao giờ cũng tràn ngập cảm xúc tự hào: “Bởi vì nó là đứa
con duy nhất của bác, cháu yêu quý ạ, và cũng không phải nhiều bà mẹ có con như Nalin đâu. Cháu
biết không, bác thấy mình tưởng tượng nó là cha của bác và đến khi nó già yếu, bác có thể làm mọi
việc mà nó đã làm vì bác” [55, 319]. Phải có tình yêu thương sâu sắc người mẹ ấy m
ới có được cái
nhìn thấu hiểu chân tình và hãnh diện. Và cũng giống như babu Annada, bà phải yêu con lắm thì
mới có cái nhìn hiện đại là không dùng uy quyền ép buộc con theo con đường do định sẵn.
Có lẽ tình mẫu tử giống như sợi dây, hai đầu kết nối là hai đầu yêu thương. Đáp lại tình cảm
của mẹ, Nalinaksha rất yêu và chăm lo cho mẹ. Tình yêu ấy thể hiện trong ánh mắt ngời sáng khi
nói về mẹ, trong nỗi lo hốt hoảng khi hay tin mẹ
bệnh và trong từng hành động động chăm sóc nhỏ
nhặt hằng ngày: “Nalinaksha hễ về nhà là bao giờ cũng phải đi thăm mẹ đã, rồi mới làm bất kì việc
gì khác, vì anh luôn luôn lo lắng về sức khỏe của mẹ” [55, 316]. Những hành động chăm sóc nhỏ
nhặt nhất sẽ thể hiện một tình yêu thương lớn lao nhất. Vì thế, điều ấn tượng trước tiên mà Nalin tạo
được trong lòng người đọc, không phải là trái tim một con người nồng nhi
ệt ra sao mà là tấm lòng
của một người con yêu mẹ nhất mực như thế nào.
Nhưng những thay đổi của xã hội đã đẩy gia đình đến các mối xung đột dữ dội.
Khi đọc tiểu thuyết Nàng Binodini, trong nỗi xúc động trước tình mẫu tử thiêng liêng của bà
Railasmi, trước khao khát hạnh phúc của Binodini, người đọc thấy thấp thoáng đâu đó những rạn
vỡ. Những rạn vỡ
ấy chắc chắn sẽ tạo ra đổ vỡ dù nhà văn đã cố gắng hàn gắn nó bằng kết thúc có
hậu.
Những xung đột trong tác phẩm bắt đầu từ ngày Asa bước chân về nhà chồng. Mái gia đình
êm ấm thuận hòa bắt đầu những dấu hiệu rạn vỡ, mà nguyên nhân sâu xa của nó không phải vì mâu
thuẫn mẹ chồng nàng dâu. Mối bất hòa giữa bà Railasmi và Asa ngày càng sâu sắc không hẳn vì hai
người không tìm được tiế
ng nói chung mà vì bàn tay Mahendra vô tình đẩy họ về hai đầu của một
con đường. Mahendra một mặt mâu thuẫn với mẹ, một mặt dẫn dắt người vợ ngây thơ theo cách của
riêng anh. Là tầng lớp trí thức, quan niệm và cách nghĩ của anh khác biệt hẳn với mẹ. Anh thẳng
thắn phê phán: “Cái cách mẹ cháu đang làm với cô vợ khốn khổ của cháu chết dần chết mòn thật là
tồi tệ, thật là quá quắt”
[5, 385]. Anh bất chấp những nỗi buồn của mẹ mà tuyên bố: “Chấm dứt trò
dớ dẩn này…Từ giờ trở đi, tôi phải có trách nhiệm với vợ tôi. Tôi vẫn còn thiếu với cô ấy điều này”
[5, 386]. Những khác biệt trong lối sống giữa hai thế hệ thật khó tồn tại dưới một mái nhà. Sự rạn
vỡ này xuất phát từ những thay đổi quá đột ngộ
t trong gia đình. Trong khi bà Rai đã quen với cách
nghĩ về vị trí dâu con truyền thống thì Mahendra đã đặt vợ mình ở một vị trí đối chọi. Đặc biệt hơn,
anh đưa tình yêu của mình vào một khung trời lãng mạn quên hết cả thực tại, đến độ, nhà văn phải
thốt lên: “Mehendra đã tận hưởng hạnh phúc lứa đôi, công khai coi thường cả gia đình và lề thói”
[8, 406].
Câu chuyện trong Từ con dù tình ti
ết hết sức nhẹ nhàng nhưng lại vô cùng ngột ngạt khi đặt ra
vấn đề vấn đề hôn nhân trong mối quan hệ gia đình. Mâu thuẫn gia đình lên đến đỉnh điểm khi
người con quyết không thể từ bỏ hôn nhân và hạnh phúc của mình vì đẳng cấp. Nếu người con bất
tuân lệnh cha, sẵn sàng từ bỏ cả đẳng cấp vì hạnh phúc chính đáng thì người cha sẵn sàng từ bỏ con
vì quy định củ
a đẳng cấp. Đó là hai sự từ bỏ trong một mối xung đột và cũng là thực trạng phổ biến
của gia đình Ấn Độ lúc ấy.
Cũng như tình yêu đôi lứa, đề tài gia đình trở thành mạch chảy gần như xuyên suốt trong mỗi
sáng tác của Tagore. Câu chuyện nhiều ẩn ý trong Ngôi nhà và thế giới (1916) một lần nữa đặt ra
những câu hỏi về thực trạ
ng đổ vỡ trong nhiều mái nhà Ấn Độ. Vẫn là những mâu thuẫn giữa cái cũ
và cái mới, giữa cái truyền thống và cái hiện đại nhưng từ cánh cửa gia đình nhỏ bé, tác phẩm đã
mở ra cửa ngõ để đến với thế giới mênh mông bên ngoài. Câu chuyện xoay quanh ba nhân vật chính
là Nikhil, Bimala, Sandip như là ba đỉnh của một tam giác xung đột. Là một địa chủ giàu có, nhưng
Nikhil tràn đầy tình yêu thương và có mục đích sống cao cả. Trái lại, Sandip là con người của
những dục vọng tầm thường, tôn thờ máy móc lối sống Ph
ương Tây. Nhưng sự đối chọi trong tính
cách con người của hai nhân vật này không phải mang tính cá nhân đơn thuần. Rộng lớn hơn, đó là
sự xung đột giữa hai luồng văn hóa và các quan niệm. Nikhil đại diện cho những giá trị truyền
thống, trong khi Sandip tượng trưng những ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa nước ngoài đối với giới
trẻ Ấn Độ. Nhân vật nữ chính Bimala là hình tượng để lại nhiều ấ
n tượng sâu sắc. Cuộc sống bỗng
đổi thay kể từ khi nàng gặp gỡ Sandip. Con người cá nhân của nàng thức tỉnh, khao khát khẳng định
bản ngã trỗi dậy đã đưa nàng đến bên Sandip. Và thất bại của nàng khi nhận ra bộ mặt thực của
Sandip cũng là tấn bi kịch vỡ mộng của những con người trẻ tuổi chạy theo lối sống văn hóa
Phương Tây, quay lưng lại với nhữ
ng giá trị truyền thống. Những cái gì thuộc về truyền thống
không phải không còn giá trị và những cái hiện đại không hẳn lúc nào cũng tốt đẹp. Và dù thế nào
đi nữa, xung đột giữa cái mới và cũ là một tất yếu để phát triển và phục hưng. Nói đúng hơn, trong
sự du nhập văn hóa, gia đình Ấn Độ cần phải thay đổi để phù hợp và dung hòa mọi mâu thuẫn. Sự
đổ vỡ h
ạnh phúc trong mái ấm gia đình Nikhil và Bimala là tất yếu. Đó cũng là thực trạng phá sản
của nhiều mái nhà Ấn Độ. Nói rộng ra, đó cũng là rạn vỡ của nhiều giá trị dân tộc trong bối cảnh
mới. Từ ngôi nhà của hai nhân vật trong tác phẩm trước trào lưu mới, Tagore đã mở ra ngôi nhà dân
tộc Ấn trong một thế giới hiện đại đang biến đổi từng ngày. Từ một không gian nhỏ gia
đình,
Tagore đã hướng cái nhìn ra không gian bên ngoài rộng lớn hơn, đúng với tựa đề của bộ tiểu thuyết.
Trong sự giao thoa văn hóa, cái được và cái mất luôn song hành cùng nhau. Những giá trị
truyền thống trong gia đình đang bị phá vỡ, mà không phải mọi cái xưa cũ đều là đã là lạc hậu, cần
phải xóa bỏ. Thông thường, khi đi sâu vào đề tài gia đình và lặp đi lặp lại trong nhiều tác phẩm, nó
sẽ
dẫn đến tình trạng nhàm chán và lẩn quẩn. Nhưng hình ảnh gia đình thể hiện trên các trang truyện
của Tagore luôn luôn hấp dẫn. Ông đã biết tìm cho nó một hình thức thể hiện phù hợp và biến hóa
trong một đề tài cũ.
Không phải là người đầu tiên viết văn xuôi bằng tiếng Bengali nhưng Tagore có được vinh
hạnh khi các sáng tác của ông lần lượt được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Thành công này của
ông, một phần xuất phát từ
sự chuyển hướng đề tài một cách sáng tạo. Trên những trang văn, ông đã
tái hiện những vấn đề nóng bỏng và nhức nhối của thời đại. Cảm hứng sáng tác, như có lần ông
từng chia sẻ, không gì khác ngoài cảm hứng hiện thực: “Tôi cảm thấy sự thôi thúc khi viết truyện,
lần lượt và trong cách riêng của mình, trong những cuộc sống nghèo hèn, và những số phận bất
hạnh nhỏ bé, trong những vấ
n đề thường tình nhỏ nhoi”.
Có thể nói rằng, hướng khai thác mảng đề tài hiện thực là ngã rẽ thành công trong sáng tác
văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng của nhà văn Tagore. Trong Vài nét về truyện ngắn của
Tagore, GS Lưu Đức Trung đã có những đánh giá nhận định xác đáng về sự nghiệp văn xuôi của
ông như sau: “Ngòi bút hiện thực của Tagore luôn hướng về mục đích vạch trần, phê phán bản chất
xã hội, thức tỉnh quần chúng nhân dân, tìm cách giả
i phóng tâm hồn tư tưởng người An cận đại ra
khỏi thòng lọng của tôn giáo, ra khỏi sự kìm hãm của bạo lực và cường quyền”. Mục đích sáng tác
cao cả cùng tình yêu nghệ thuật nồng nhiệt đã đưa tên tuổi Tagore thành ngôi sao sáng của thời
phục hưng An Độ. Thêm vào đó, sự tìm tòi, sáng tạo không ngưng nghỉ đã góp phần đưa tiểu thuyết
nói riêng và văn xuôi An Độ nói chung hội nhập với thế
giới. Đặc biệt, tiểu thuyết của ông là một sự
thể nghiệm thành công dạng tiểu thuyết dòng ý thức, một hình thức tiểu thuyết hoàn toàn mới mẻ ở
Ấn Độ lúc bấy giờ.
1.1 . Sự thể nghiệm thủ pháp dòng ý thức
Dòng ý thức (Stream of Consciousness) được nhà tâm lý học người Mỹ William James đưa
ra trong cuốn The Pinceples of Psychology (Cơ sở tâm lý học) xuất bản năm 1890. Ông cho rằ
ng ý
thức là một dòng chảy, một dòng sông mà ở đó những tư tưởng, cảm xúc, liên tưởng bất chợt luôn
lấn át nhau và đan xen một cách kì quặc, phi logic.
Những nhà văn đầu tiên ứng dụng thủ pháp dòng ý thức trong văn chương có thể kể ra
Laurence Sterne, Lev Nikplayevich Tolstoy. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tiểu thuyết dòng ý
thức đạt đến mức phát triển rực rỡ trong sáng tác của trường phái Tiểu thuyết mới (Nouveau
Roman) ở Pháp, trong ti
ểu thuyết “đề tài nhỏ” ở Anh, trong thể nghiệm tiểu thuyết tâm lý học ở
Đức. Châu Á cũng chứng kiến sự thể nghiệm thành công những sáng tác văn học dòng ý thức trong
các tác phẩm của Lỗ Tấn, Kawabata Yasunari…
Đầu thế kỉ hai mươi, trước nhu cầu hiện đại hóa nền văn học dân tộc, Tagore, với những
kiến thức uyên thâm về nền văn học Phương Tây, đã thể hi
ện dấu ấn tiểu thuyết dòng ý thức trong
các sáng tác của mình như một cách thức để thu nhỏ khoảng cách giữa văn học Ấn Độ và thế giới.
Dấu ấn này được biểu hiện qua cách thể hiện tính chất phi thời gian, cách thức phân tích tâm lý
nhân vật theo kiểu hiện thực tinh thần và sự lỏng lẻo về kết cấu qua thủ pháp sử dụng yếu tố tình cờ,
ngẫu nhiên.
1.2.1. Tính chất phi thời gian
Tính chất phi thời gian xuất hiện khi các nhân vật chìm đắm trong thế giới nội tâm, triền
miên và trải dài theo dòng cảm xúc, không quan tâm tới vạn vật xung quanh và, dòng thời gian đối
với họ không còn chảy trôi theo đúng ý nghĩa của nó. Phi thời gian là một đặc trưng của tiểu thuyết
dòng ý thức. Khái niệm không thời gian, đối với các nhân vật trong kiểu tiểu thuyết này, là tiền đề
để những trăn trơ, băn khoăn, những suy tư, day dứt có đất biểu hiện.
Đắm thuyền là câu chuyện về số phận tình yêu và đời sống nội tâm của con người. Ramesh
tốt nghiệp đại học luật tại Calcutta. Ở đây, mối tình đầu đã chớm nở với người con gái trí th
ức
Hemnalini. Nhưng theo lệnh cha, anh buộc phải về quê, và thuận theo một cuộc hôn nhân đã được
sắp đặt trước. Không còn con đường nào khác, và cũng vì bổn phận làm con, Ramesh đành phải từ
bỏ tình yêu để tiến hành cuộc hôn nhân với người con gái anh chưa hề biết mặt. Đám rước dâu đi
trên bốn thuyền hối hả trở về nhà. Lúc đó, đồng thời cũng diễn ra đám rước dâu của Kamala, mộ
t
người con gái mồ côi xinh đẹp. Cơn giông ghê gớm bất ngờ ập tới nhấn chìm tất cả, đánh dạt
Ramesh và Kamala vào bờ. Vì hiểu lầm, họ đã bên nhau sống những tháng ngày vui vẻ. Tình cờ biết
được sự thật, Ramesh đau khổ, băn khoăn không biết phải làm sao. Anh đành cùng Kamala trôi dạt
đến nhiều nơi. Nhưng dù ở bất cứ nơi nào, tình yêu của anh dành cho Hemnalini vẫn nồng cháy
trong tim. Cuối cùng, mọi sự
thật cũng được khám phá. Trải qua nhiều biến cố hiểu lầm, mỗi người
đã về đúng lại vị trí của mình. Câu chuyện kết thúc có hậu như một bài ca về tình yêu và về những
con người chân chính.
Từ đề tài tình yêu, Tagore tập trung khai thác các gấp khúc trong chiều sâu tâm hồn con
người, đó là mạch chảy chính trong bộ tiểu thuyết Đắm thuyền. Đây là một câu chuyện không hẳn
dễ đọc, nhấ
t là đối với những người mê tiểu thuyết hành động hay trinh thám. Nó khó đọc không
phải vì tính chất phức tạp, đa chiều của các tình tiết mà vì tính chất nội cảm của các nhân vật. Trong
tác phẩm, dường như mỗi nhân vật khi xuất hiện đều có thế giới nội tâm riêng. Liên tục trong nhiều
trường đoạn, các nhân vật miên man suy nghĩ và chiêm nghiệm. Và cũng vì thế mà dòng thời gian,
với họ, có khi ngừng trôi, có lúc xáo trộn.
Tính chấ
t phi thời gian trong tiểu thuyết Đắm thuyền nhiều lần được tác giả diễn đạt trực tiếp
bằng lời, nhưng nhiều nhất là ở cảm giác ngưng đọng khi các nhân vật trôi dạt vào thế giới nội tâm
nhiều trăn trở của mình.
Trong nỗi đau khi biết được sự nhầm lẫn, Kamala “đờ đẫn như một pho tượng, không nhỏ
một giọt nước mắ
t hay thốt lên một tiếng. Nàng không đếm xỉa đến dòng thời gian” [36, 182].
Cảm giác lãng quên thời gian rất thường trực trong dòng chảy tâm trạng Kamala: “Trước mắt nàng,
cả đất lẫn trời, bồng bềnh trong một lớp sương mù, và nàng không còn biết thời gian trôi qua bao
lâu nữa” [62, 363].
Và thời gian trong những lần Hemnalini suy tư cũng ngưng đọng: “Hemnalini ngồi ở ngoài
hiên tăm tối, mặc cho thời khắc trôi qua” [49, 265]. Hemnalini không ch
ỉ bỏ mặc thời gian, nàng
đã bỏ mặc tất cả những gì tồn tại xung quanh mình. Trong dòng chảy nội tâm, nàng ngụp lặn theo
quá khứ, và thực ra, dù thân xác tồn tại trong hiện tại, nhưng tâm hồn nàng lại trôi tận sâu vào kỉ
niệm xưa cũ.
Tính chất phi thời gian trong Đắm thuyền còn thể hiện trong những cảm nhận về thời gian
của nhân vật. Có lúc, họ thấy thời gian kéo lê chậm rãi, có lúc lại hối hả đến hụt hơi theo nhịp thời
gian.
Trong mớ bòng bong hỗn loạn của sự nhầm lẫn, Ramesh là người
đầu tiên khám phá ra sự
thật. Từ thời khắc ấy, anh không ngừng đối diện với những trăn trở chọn lựa. Thời gian, vì thế theo
cung bậc tâm trạng Ramesh luôn co giãn bất thường. Có khi anh để mình trôi dạt vào tận một
khoảng không vô định nào đó: “Con người sâu thẳm trong anh như trôi dạt vào tận một vũ trụ, ở
đó, hết thảy đều vĩnh hằng, yên tĩnh và cùng khắp” [16, 72]. Nhưng cũng có khi h
ối hả, vội vã:
“Ramesh từ Allahabad trở lại Ghazipur vào sáng sớm. Phố xá gần như không có ai (…), khi đi qua
những đường phố vắng vẻ để về nhà, trùm một chiếc áo khoác to sù sụ, Ramesh không biết gì hết,
ngoài nhịp đập của con tim” [45, 239]..
Giống như Ramesh, sự trôi chảy của thời gian cũng đổi thay trong miền cảm xúc của
Kamala. Những ngày đi trên tàu về Tây Bắc cùng Ramesh là những ngày diễn ra nhiều biến cố.
Thờ
i gian trên tàu, đối với nàng là khoảng thời gian ngột ngạt nhất. Ở đó có “những buổi chiều lê
thê không có việc gì làm” [28, 144]), có những buổi tối “kéo lê chầm chậm: Ramesh đã ngủ say ở
cabin bên cạnh, Kamala không còn nằm yên được nữa; nàng chậm rãi đứng dậy, bước ra ngoài và
đứng bên lan can, đăm đăm nhìn bờ sông” [27, 139], có những lúc thời gian nặng nề trôi khi vô tình
Kamala nhìn thấy trên gương mặt sầu tư của chồng, không có chỗ cho nàng. Khoảng cách giữ
a tâm
hồn người này và tâm hồn người kia, đôi khi là độ dài vô tận của thời gian.
Tất cả bao nhiêu cái chậm rãi như dồn thành một lực đẩy để khi Kamala biết được sự thật,
nàng đã không một thoáng do dự, “không thể nấn ná thêm phút nào nữa” [51, 275] vội vã ra đi tìm
chồng trong bóng tối nhá nhem. Và khi biết tin về chồng, tâm trạng nôn nóng khiến nàng vội vã
muốn vượt ra khỏi bức tường giam hãm trong nhà mụ Nabinkali: “Nàng không thể chị
u ở lại dưới
mái nhà của kẻ xa lạ thêm một phút nào nữa khi mà chồng mình đang sống cùng một thành phố”
[52, 285].
Trong Đắm thuyền, có những lát cắt thời gian hiện tại trở thành vĩnh cửu. Đó là giây phút
bên khung cửa mùa thu giữa Ramesh và Hemnalini: “Chỉ trong vòng vài phút, họ lại trao nhau lời
thề chung thủy, rơi nước mắt với nhau, chỉ đứng bên nhau thay vì trò chuyện, và nàng đã không
nhận thức nổi điều đ
ó sẽ dẫn đến niềm thanh thản trọn vẹn, vô bờ trong tâm hồn và sự tin cậy nhau
đến chừng nào” [14, 67]. Rõ ràng, thời gian hiện tại trong vòng vài phút đã làm nên điều kì diệu của
tình yêu. Đôi khi đâu cần đến ngôn ngữ, người ta vẫn có thể hiểu thấu tâm hồn nhau. Và cũng cần
chi đến thời gian dông dài, chỉ vài giọt thời gian, trái tim vẫn tìm đến lối đi vào trái tim. Buổi gặp gỡ
giữa Kamala và chồng cũng diễn ra trong thời gian ngưng đọng như vậy: “Nàng quên bẵng tấm
mạng đã rơi, và nàng cũng không nhận ra Nalinaksha đang đăm đắm nhìn say sưa, không dời
khuôn mặt mình. Nàng còn đang hoàn toàn không hay biết mọi vật bên ngoài, thì đột nhiên một
niềm hứng khởi vụt qua óc nàng như một tia chớp” [62, 364]. Trạng thái ngây ngất bất ngờ giáp mặt
chồng khiến Kamala dường như quên mọi điề
u xung quanh. Họ đã từng làm đám cưới và từng trải
qua nghi lễ nhận mặt, nhưng đây là lần đầu tiên, họ thực sự giáp mặt và nhận ra nhau. Nếu không
gian trong buổi hòa hợp giữa Ramesh và Hemnalini mang tính lãng mạn thì không gian nhận mặt
của Kamala và Nalinaksha lại linh thiêng và trang trọng hơn. Nhưng dù có những khác biệt thì
khoảnh khắc thời gian lúc ấy đều ngưng đọng và tạo cho độc giả cảm giác phi thời gian.
Câu chuyện Đắm thuyề
n diễn ra trong một năm. Đó là thời gian sự kiện. Một năm, thời gian
đủ để định mệnh thể hiện sức mạnh: “Theo các nhà chiêm tinh, sau cái ngày ấn định lễ cưới là cả
một năm rủi ro” [2, 19], và con người, vì thế, không ngừng phải vật lộn trước bao nhiêu biến cố,
phải đối diện với nội tâm đầy đau khổ và mâu thuẫn. Theo dòng chảy cảm xúc của các nhân vậ
t, có
những lát cắt phi thời gian.
So với những tác phẩm khác, Đắm thuyền thể hiện rất thành công tính chất phi thời gian của
tiểu thuyết dòng ý thức. Từ đó, chứng minh thế mạnh của Tagore trong nghệ thuật phân tích tâm lý
nhân vật. Đó là phương pháp nội cảm hóa tình tiết và đi sâu khắc họa cả một hiện thực tinh thần của
nhân vật.
1.2.2. Phương thức phân tích tâm lí nhân vật
Tiểu thuy
ết Tagore có sức hút mãnh liệt. Sức hút ấy không khởi nguồn từ những tình tiết ly
kì, từ tính chất căng thẳng, bí ẩn của câu chuyện, mà từ phương cách khai thác chiều sâu tâm hồn
nhân vật. Tagore tỏ ra rất tinh tế, nhạy cảm trong việc nắm bắt những cung bậc và các nếp gấp nội
tâm. Trong các tác phẩm của ông, tâm lý nhân vật trở thành hạt nhân trung tâm, bao trùm mọi chi
tiết, sự kiện. Từ thiên nhiên cho đến hình ảnh con người, từ
tính cách nhân vật đến những khao khát
ước mơ, từ những mâu thuẫn, bất hòa đến những định kiến khắt khe của xã hội, tất cả đều được nhìn
nhận dưới góc nhìn tâm trạng, nói cách khác là đã được nội cảm hóa. Và điều này đã tạo thành tính
chất đặc biệt trong tiểu thuyết của nhà văn, đó là tính “hiện thực tinh thần”.
Trước tiên là hình ảnh thiên nhiên qua cái nhìn tâm trạng của nhân vật.
Khung cảnh ngày m
ới đối với tâm trạng mong ngóng Ramesh của Hemnalini trở nên u ám và
nhợt nhạt: “Mặt trời chầm chậm nhô lên trên lớp lớp mái nhà đằng Đông, nhưng đối với
Hemnalini, ngày mới dường như ảm đạm quá, thờ ơ quá, buồn bã và thê lương quá” [22, 105].
Buổi sáng hôm nay cũng có khác gì bao nhiêu buổi sáng trước, nhưng tâm hồn trống trải của
Hemnalini đã vương cả nỗi sầu thê lương vào khung cảnh sớm mai.