Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Cư dân và đặc trưng văn hóa - Văn hóa sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.12 KB, 21 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đại học Quốc gia Hà Nội
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Khoa Quốc tế học
---------------
Bài giữa kỳ
Môn: So sánh văn hóa
Đề tài : Cư dân và đặc trưng văn hóa
- Văn hóa sản xuất
Hà Nội
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Dân cư là tiến chỉ hết sức quan trọng và có thể coi là tiêu chí đặc
trưng nhất để hình thành các sắc thái văn hóa hết sức phong phú, đa dạng.
Việt Nam là một đất nước nhiều tộc người và sự khác biệt về qui mô dân
số, hoàn cảnh sống, điều kiện lịch sử, truyền thống và bản sắc văn hóa.
Do vậy Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển toàn diện và chú ý tính
đặc thù và bản sắc của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Vấn đề này có vai trò quan trọng trong nghiên cứu thực tiễn, góp
phần không nhỏ vào việc hoạch định các chương trình phát triển kinh tế -
xã hội ở các địa phương, nhất là với các tộc người, địa phương còn ở trình
độ phát triển chậm, mang nhiều nét đặc thù.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I: CƯ DÂN VÀ ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA
I. Nguồn gốc dân tộc Việt Nam
Vấn đề nguồn gốc dân tộc và làm rõ nguồn gốc dân tộc Việt Nam có
tầm quan trọng đặc biệt không chỉ trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử, văn
hóa mà còn có ý nghĩa thiêng liêng đối với các thế hệ người Việt Nam. Ở
đây đưa ra hai cách giải thích nguồn gốc dân tộc Việt Nam đó là cách giải
thích nguồn gốc dân tộc thông qua các sự tích, truyền thuyết và thứ hai là
dựa trên quan điểm khoa học.


Từ xưa đến nay, nhiều dân tộc trên đất nước ta cũng đã tìm cách
giải thích nguồn gốc dân tộc mình thông qua các sự tích, truyền thuyết
như: Chàng hươu sao và nàng cá chép; Đẻ đất đẻ nước của dân tộc
Mường; Truyền thuyết Quả bầu của dân tộc Thái, Khơ Mú; Nhưng tiêu
biểu nhất là truyền thuyết Hùng Vương của dân tộc Việt (Kinh).
Truyền thuyết Hùng Vương kể rằng: Tương truyền cháu ba đời của vua
Thần Nông (Trung Quốc) là vua Đế Minh trong một chuyến tuần thú
phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh vào Động Đình Hồ gặp Tiên Nữ, tình cảm
nảy nở giữa người Bắc kẻ Nam dẫn đến nhân duyên sau đó sinh hạ được
thái tử đặt tên là Lộc Tục. Vua Đế Minh ở với Tiên Nữ được ít lâu rồi trở
về Phương Bắc trước khi về Ông cho lập đàn tế trời đất rồi nói:
"Ta nhất sinh có nhiều mĩ nữ, chỉ sinh được có thái tử là Đế Nghi.
Sau khi kết hôn với Tiên Nữ sinh thêm được một thái tử là Lộc Tục. Vậy
ta phong thái tử Đế Nghi làm vua phương Bắc đến núi Ngũ Lĩnh. Lộc Tục
làm vua phương Nam từ núi Ngũ Lĩnh về Nam hay còn gọi là đất Lĩnh
Nam".
Lộc Tục lên ngôi hiệu là Kinh An Dương Vương vào năm 2879
TCN. Sau đó Lộc Tục lại kết hôn với con gái của Động Đình Quân là
Long Nữ sinh thành được thái tử Sùng Lâm. Thái tử Sùng Lâm kế tục
ngôi vua hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lại kết hôn với Âu Cơ là
con vua Đế Lai sinh ra bọc có một trăm trứng sau nở thành một trăm
Website: Email : Tel : 0918.775.368
người con, năm mươi người lên rừng, năm mươi người xuống biển… Đến
thời Lạc Long Quân truyền ngôi cho con trưởng là Hùng Vương và đặt tên
nước là Văn Lang; Lại phong cho 99 người con mỗi người làm chủ một
ấp… Vì vậy đất Lĩnh Nam mới có trăm họ, đó là nguồn gốc của Bách
Việt. Nước Văn Lang do các Vua Hùng làm chủ được chia làm 15 bộ,
gồm :
Văn Lang, Tân Hưng, Lục Hải, Giao Chỉ, Hoài Hoan, Châu Diên,
Vũ Định, Ninh Hải, Cửu Chân, Cửu Đức, Phú Lộc, Vũ Ninh, Dương

Tuyền, Nhật Nam, Việt Thường...
Kể từ Kinh An Dương Vương lập quốc (2789 TCN) đến năm 257
TCN bị Thục Phán An Dương Vương lật đổ, nhà nước Văn Lang truyền
được 88 đời vua, kéo dài 2622 năm. Danh hiệu 88 đời vua nay chỉ nhớ và
lưu truyền được 18 đời, cụ thể là:
Lục Dương Vương (Kinh An Dương Vương), Hùng Hiền Vương,
Hùng Quốc Vương, Hùng Diệp Vương, Hùng Hy Vương, Hùng Huy
Vương, Hùng Chiêu Vương, Hùng Vi Vương, Hùng Anh Vương, Hùng
Nghi Vương, Hùng Trinh Vương, Hùng Vũ Vương, Hùng Việt Vương,
Hùng Anh Vương, Hùng Triệu Vương, Hùng Tạo Vương, Hùng Nghi
Vương, Hùng Tuyên Vương.
Vì thế, chúng ta thường quen gọi 18 đời Vua Hùng là do danh tính
còn lưu được của 18 đời vua này.
Bên cạnh những truyền thuyết lịch sử về nguồn gốc dân tộc của dân
gian, ngày nay các nhà nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học cũng đã tập trung
nghiên cứu làm rõ vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam; nhiều vấn đề khoa
học bước đầu cũng đã được làm rõ; Một trong số những kết quả tiêu biểu
đó là kết quả nghiên cứu của nhà khảo cổ học người Pháp Mácpêrô và Lê
Văn Siêu. Căn cứ vào những di chỉ khảo cổ học đã tìm thấy ở Việt Nam từ
thời kỳ đồ đá đến thời đại kim khí (tiêu biểu là các di chỉ khảo cổ học tìm
thấy ở Núi Đọ (Thanh Hóa) thuộc thời đại đá cũ cách ngày nay hàng chục
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vạn năm, đến di chỉ khảo cổ học Sơn Vi (Phú Thọ) thuộc thời đại đá giữa
cách ngày nay khoảng trên dưới 1 vạn năm, đến các di chỉ thuộc thời kỳ
đá mới cách ngày nay 5-6 nghìn năm; Sau đó là chuyển sang giai đoạn các
nền văn hóa kim khí Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn phát
triển hết sức rực rỡ, với những hiện vật tìm thấy rất phong phú trên một
địa bàn rộng...) nhóm nghiên cứu thuộc Viện Viễn Đông Bát Cổ (Hà Nội)
đã đưa ra quan điểm dân tộc Việt Nam có nguồn gốc bản địa.
Cùng với những công trình trên, học giả Đào Duy Anh, trên cơ sở

khảo đính về lịch sử Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc, thấy có
nước Việt bị nước Sở chinh phục; không chịu thần phục sự thống trị của
người Hán, một bộ phận cư dân nước Việt đã phiêu dạt xuống phương
Nam vào Bắc Đông Dương và miền Bắc Việt Nam sinh sống, dần dần bị
Việt hóa trở thành một bộ phận của cư dân Việt... Vì vậy, ông đã đưa ra
quan điểm người Việt vốn là một bộ phận của cư dân nước Việt thời Xuân
Thu - Chiến Quốc.
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu về thời đại Hùng Vương đã
được công bố, Bình Nguyên Lộc cũng đưa ra quan điểm, người Việt có
nguồn gốc từ Tây Tạng thiên di xuống sinh sống ở miền Nam Trung
Quốc, Bắc Đông Dương và Bắc Việt Nam, mà hiện diện của nhóm cư dân
này là cư dân nói tiếng Tày - Thái.
Cùng với Bình Nguyên Lộc, Giáo sư Văn Tân dựa trên cơ sở nghiên
cứu các nhóm cư dân cổ đã từng sinh sống ở bắc Đông Dương, Tây
Nguyên... ông nhận thấy các dân tộc: Khạ (Lào), Khơ Mú, Kháng, Mảng,
Xinh Mun, La Ha và các dân tộc ở Tây Nguyên... có nhiều nét tương đồng
với cư dân cổ ở châu đại dương, cả về thể tạng, tâm lí, ngôn ngữ... Trên
cơ sở đó ông đưa ra quan điểm, một bộ phận dân tộc Việt có nguồn gốc từ
châu Đại Dương thiên di vào.
Tuy nhiên, cho đến nay quan điểm được nhiều nhà sử học Việt
Nam, Đông Nam á thừa nhận nhất đó là quan điểm cho rằng: Tổ tiên
Website: Email : Tel : 0918.775.368
người Việt là kết quả của sự hỗn chủng khá phức tạp và quá trình đó diễn
ra trong một thời gian rất lâu dài. Cụ thể, vào thời kỳ Đá giữa cách ngày
nay khoảng 1vạn năm ở Đông Nam Á diễn ra sự hỗn chủng của hai chủng
tộc lớn Môngôlôit từ phía Bắc thiên di xuống (đại diện là nhóm người
thiên di từ Tây Tạng) và Otrâylôit từ phía Nam thiên di lên (đại diện là
nhóm người Mêlanesien) đưa đến sự ra đời của một chủng tộc mới là
Indosien. Sau đó chủng tộc mới là Indosien lại tiếp tục Môngôlôit hóa
(hỗn chủng với chủng Môngôlôit) đưa đến sự ra đời của chủng mới là cư

dân Nam Á (hay còn gọi là nhóm Bách Việt). Cư dân Nam Á bao gồm
nhiều tộc người, với những nhóm tiếng khác nhau như: Tày- Thái, Việt-
Mường, Môn- Khơ Me... Địa bàn sinh sống của cư dân Nam Á rất rộng
lớn, phía Bắc từ bờ nam sông Dương Tử trở xuống (hồ Động Đình); Phía
Tây bao gồm tòan bộ phần đất thuộc lưu vực sông Inđiravađi (Mianma),
Lào, Thái Lan... tiếp giáp với ấn Độ; Phía Nam gồm toàn bộ khu vực rộng
lớn Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo... Cư dân Nam Á có
nhiều nét tương đồng như cùng là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, về
thể tạng nhìn chung thấp bé, nhỏ con; Tóc đen hơi soăn, mắt đen; Về tính
cách dữ dằn, cấm cảu; Về mặt sinh lí nhóm cư dân này có khả năng sinh
sản rất lớn... Một bộ phận của người Bách Việt là người Lạc Việt- tổ tiên
của người Việt hiện đại. Còn nhánh khác không tiếp tục hỗn chủng với
Môngôlôit thì phát triển thành nhánh Indosien hiện đại (hay còn gọi là
Nam đảo).
Với quan điểm này cho phép chúng ta giải thích một cách khoa học
vì sao cư dân Nam Á lại có những nét tương đồng về kinh tế, văn hóa,
phong tục tập quán...
Việc nghiên cứu nguồn gốc các dân tộc Việt Nam giúp chúng ta xác
định được toạ độ không gian văn hoá Việt Nam; Phân biệt được không
gian chính trị đương đạivới không gian văn hoá. Không gian văn hoá
chính là địa bàn mà mà tổ tiên của cư dân hiện nay từng sống ở đó. Làm
Website: Email : Tel : 0918.775.368
rõ nguồn gốc dân tộc Việt Nam còn giúp chúng ta thấy được mối quan hệ
mật thiết hữu cơ giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa của các quốc gia
trong khu vực Đông Nam á, với những nét tương đồng về kinh tế, văn
hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán, lễ nghi...
II. Dân tộc Việt Nam
Đất nước Việt Nam trải dài trên vùng đất ven biển của Đông Nam
Á, từ xa xưa đã có nhiều dân tộc sinh sống, tổng cộng có 54 dân tộc sinh
sống. Ngoài dân tộc Việt (kinh) chiếm trên 80% dân số, sống chủ yếu ở

đồng bằng và trung du, 53 dân tộc người thiểu số sống chủ yếu ở vùng
đồng bằng và trung du. Ở phía Bắc và Tây Bắc, có người Thái, Tày,
Nùng, Mông, Dao, Cao Lan, Sán Dìu, Lô lô… , ở Tây Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ có các dân tộc Thái, Mường..., ở Tây Nguyên có người Ba-Na,
Xơ-Đăng, Gia-Va… ở Tây Nam Bộ có người Khơ-Me. Số lượng của mỗi
tộc nguời cũng rất khác nhau. Các dân tộc Mường, Thái, Tày… có số dân
trên dưới một triệu, ví dụ: Dân tộc mường có 1.137.515 người; Thái:
1.328.725; Tày: 1.477.514. Trong khi các dân tộc khác có tộc người chỉ
khoảng hơn 300 người như Brâu, Ơ Đu và Rơ- Mum.
Tiếng nói của các dân tộc Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn ngữ khác
nhau:
- Nhóm Việt- Mường có 4 dân tộc là: Chứt, Kinh, Mường, Thổ.
- Nhóm Tày- Thái có 8 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự. Nùng, Sán
Chay, Tày, Thái.
- Nhóm Mụn- Khơ me cú 21 dân tộc là: BaNa, Brâu,Bru- Vân kiều,
Chơ ro, Co, Cơ ho, Cơtu, Giộ_triờng, Hrờ, Kháng, Khme, Khomu, Mạ,
Mảng, M’nông, Ôđu, Rơ măn, Tà ôi, Xinh mun,Xơ đăng, Xtiêng.
- Nhóm Mông- Dao có 3 dân tộc: Dao, Mông, Pà Thẻn.
- Nhóm Kađai có 4 dân tộc: Cờ lao, La chí, Laha, Pu péo.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Nhóm Nam- Đảo có 5 nhóm dân tộc: Chăm, Churu, Êđê, Gia-rai,
Ragrai.
- Nhóm Hán có 3 dân tộc: Hoa, Ngái, Sán Dìu.
- Nhóm tạng có 6 dân tộc: Cống, Hà nhì, Lahủ, Lôlơ, Phù Lá, Sila.
Dân tộc Việt Nam là chủ thể sáng tạo văn hoá. 54 dân tộc sinh sống
trên đất nước Việt Nam thể hiện những bản sắc văn hóa đặc sắc, hội tụ
nhiều yếu tố bản địa và khu vực. Văn hoá của người Thái có vẻ đẹp tinh
tế mang tính hoà hợp với thiên nhiên; Văn hoá người H’mông_Dao có nét
khoẻ khoắn mang tính chế ngự thiên nhiên; Văn hoá người Khơ me_Nam
bộ hài hoà và bí ẩn trong lớp vỏ của phật giáo; Văn hóa người Kinh ở

đồng bằng và trung du có sự đa dạng nhờ vào đặc tính linh động và ưa
tiếp thu cái mới…
Mỗi dân tộc có số lượng cư dân, có tiếng nói, văn hoá khác nhau,
đặc trưng riêng cho từng dân tộc mình. Song do các dân tộc sống xen kẽ
nhau, nên một dân tộc còn biết tiếng, tập tuc của các dân tộc có quan hệ
hàng ngày. Và dù sống xen kẽ với nhau,giao lưu văn hoá với nhau nhưng
các dân tộc vẫn giữ được nét riêng văn hoá của dân tộc mình. Sự đa dạng
văn hóa của các dân tộc được thống nhất trong quy luật chung_quy luật
phát triển đi lên của đất nước.
Sự đa dạng văn hoá
Nền văn học Việt Nam là nền văn hóa mở phong phú và đa dạng.
Do địa lí vị trí và sự đa dạng sinh học cũng như quá trình lịch sử mà hình
thành nền văn hóa Việt Nam đa dang và giàu bản sắc như ngày nay. Sự đa
dạng này của văn hóa Việt Nam dựa trên cơ tần của văn hóa Trung Hoa,
văn hóa Ấn Độ, văn hóa phương Tây, dựa trên sự đa dạng về không gian
văn hóa và sự đa dạng sắc thái văn hóa tộc người. Đa dạng là giao lưu tiếp
biến văn hóa.

×