Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Tiểu luận môn phương pháp nghiên cứu khoa học PHÂN TÍCH SỰ PHÁT TRIỂN HỆ ĐIỀU HÀNH ANDROID QUA PHƯƠNG PHÁP SCAMPER

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (889.87 KB, 46 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

PHÒNG ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ TƯ DUY
SÁNG TẠO TRONG TIN HỌC
PHÂN TÍCH SỰ PHÁT TRIỂN HỆ ĐIỀU HÀNH
ANDROID QUA PHƯƠNG PHÁP SCAMPER
Giảng viên hướng dẫn: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
Học viên thực hiện: NGUYỄN VĂN KIỆT
Khóa: CAO HỌC 08
Mã số học viên: CH1301095
PPNCKH & TDST TRONG TIN HỌC Trang 1
TP. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2014
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm, người Thầy giảng
dạy và hướng dẫn những kinh nghiệm nghiên cứu khoa học đầy tâm huyết. Thầy
không những giảng dạy những nguyên lý và phương pháp nghiên cứu khoa học mà
còn truyền đạt những kinh nghiệm trong đời sống cũng như trong nghiên cứu khoa
học. Thầy luôn tạo điều kiện tốt nhất để chúng tôi phát huy khả năng học tập và ứng
dụng những công cụ, phương pháp nghiên cứu.
Xin cảm ơn tất bạn bè đã và đang động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập và hoàn thành đồ án môn học này.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2014

Nguyễn Văn Kiệt
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt


MỞ ĐẦU
Trong báo cáo này, tôi trình bày các nội dung:
- Cơ sở lý thuyết: Phương pháp sáng tạo SCAMPER
- Quá trình hình thành và phát triển hệ điều hành Android.
- Hệ điều hành Android dưới góc nhìn của phương pháp sáng tạo SCAMPER.
- Một số đề xuất hướng phát triển hệ điều hành Android trong tương lai.
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
CHƯƠNG 1
PHƯƠNG PHÁP SÁNG TẠO SCAMPER
1.1. Giới thiệu phương pháp sáng tạo SCAMPER
Robert F. Eberle là một nhà quản lý giáo dục ở Edwardsille, IL. Ông đã viết
sự sáng tạo của học sinh và giáo viên. Quyển sách suy nghĩ sáng tạo nổi tiếng nhất
của ông về việc hướng dẫn sáng tạo là SCAMPER.
Hiện nay, có khá nhiều phương pháp sáng tạo khác nhau nhưng không có
phương pháp nào vượt trội trong mọi tình huống, trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên,
phương pháp sáng tạo SCAMPER tỏ ra có nhiều ưu điểm trong việc phát triển hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hai trọng tâm sáng tạo trong doanh nghiệp
là sáng tạo trong phát triển/đổi mới sản phẩm và sáng tạo trong tiếp thị/kinh doanh
sản phẩm.
Phương pháp sáng tạo SCAMPER được giáo sư Michael Mikalko phát
triển. SCAMPER là ghép các chữ cái đầu của nhóm từ sau: Substitute (thay
thế), Combine (kết hợp), Adapt (thích nghi), Modify (hiệu chỉnh), Put (thêm
vào), Eliminate (loại bỏ) và Reverse (đảo ngược). SCAMPER là phương pháp
tư duy sáng tạo nhằm cải thiện sản phẩm, quy trình, dịch vụ, …đã có hay dự
tính phát triển, dựa vào kỹ thuật tập kích não (Brainstorming) để tìm ra nhiều
phương án giải đáp hàng loạt câu hỏi được đặt ra theo trình tự với mục tiêu thu
nhập nhiều ý tưởng theo khả năng cho phép.
Phương pháp sáng tạo SCAMPER dễ lĩnh hội, dễ vận dụng nhưng khá
hữu hiệu nên ngày càng được sử dụng phổ biến rộng rãi, nhất là trong các doanh
nghiệp.

GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
1.2. Các kỹ thuật trong phương pháp sáng tạo SCAMPER
Bảng 1.1 – Bảng tóm tắc các kỹ thuật sáng tạo trong phương pháp SCAMPER
STT Phép Nội dung
1
Phép thay thế
(Substitute)
Thay thế thành tố hiện có của hệ thống bằng thành
tố khác.
2
Phép kết hợp
(Combine)
Kết hợp thành tố của các hệ thống khác nhau để
tạo ra hệ thống mới.
3
Phép thích ứng
(Adapt)
Thích ứng hệ thống trong một bối cảnh khác.
4
Phép điều chỉnh
(Modify)
Điều chỉnh qui mô thành tố của hệ thống.
5
Phép thêm vào
(Put)
Thêm thành tố mới vào hệ thống.
6
Phép Loại bỏ
(Eliminate)
Loại bỏ thành tố khỏi hệ thống.

7
Phép đảo ngược
(Reverse)
Đảo ngược trật tự các thành tố của hệ thống.
1.2.1. Phép thay thế (Subtitude)
Kỹ thuật thay thế giúp chúng ta suy nghĩ về việc thay thế một tiến trình, sản
phẩm hoặc một phần nào đó bằng một cái khác. Chúng ta cần suy nghĩ và trả
lời một số câu hỏi như:
- Ai hoặc cái gì có thể thay thế mà không ảnh hưởng đến tiến độ hoặc yêu cầu
sản phẩm ?
- Ai có thể thay thế X ?
- Cái gì dùng để thay thế X ?
- Chất liệu, thành phần, cách tiến hành, năng lượng, âm thanh, cách tiếp cận,
lực lượng nào khác có thể cho sản phẩm tương tự hoặc tốt hơn ?
- Có chỗ nào có thể thực hiện quá trình tốt hơn ?
- Điều gì xảy ra nếu hoán đổi X và Y ?
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
Những câu hỏi như vậy tạo ra sự khác biệt rõ ràng. Chúng ta có cái nhìn tổng
quát và so sánh với những thay đổi trước đó khi quyết định làm như thế nào. Người
quản trị dự án có thể đưa ra một loạt câu hỏi giúp các thành viên trong nhóm có thể
đưa ra ý tưởng của mình. Điều này giúp khá nhiều trong việc tìm kiếm ý tưởng phát
triển các dự án công nghệ thông tin.
1.2.2. Phép kết hợp (Combine)
Kỹ thuật kết hợp giúp chúng ta suy nghĩ về việc kết hợp hai hay nhiều tiến
trình, sản phẩm, ý tưởng hoặc có thể là bất cứ cái gì để tạo ra sản phẩm tốt nhất, tận
dụng tất cả những điểm mạnh có thể tạo ra sản phẩm. Một số câu hỏi giúp chúng ta
suy nghĩ:
− Chất liệu, đặc tính, quá trình, con người, sản phẩm hoặc thành phần nào có
thể kết hợp tạo ra sản phẩm tốt nhất ?
− Pha trộn hoặc sử dụng những sản phẩm nào cho kết quả tốt hơn ?

− X có thể trộn hoặc dùng cùng với Y không ?
− Một ý tưởng có thể làm việc thống nhất với một ý tưởng khác không ?
− X trong với Y có thể làm việc không ?
− X có thể đưa vào trong Y không ?
Việc sử dụng kỹ thuật này giúp tạo ra những sản phẩm đa dạng (điện thoại,
laptop) với những tính năng và màu sắc khác nhau, và việc kết hợp nào phù hợp
nhất có thể cho ra những sản phẩm tốt nhất.
1.2.3. Phép thích ứng (Adapt)
Kỹ thuật này hỏi phải động não về một phần của sản phẩm hoặc quá trình
thay đổi hoặc tinh chỉnh cho kết quả tốt hơn, hoặc để mang lại những thay đổi triệt
để toàn bộ quá trình hoặc sản phẩm. Một số câu hỏi giúp cho kỹ thuật này là:
- Phẩn nào của sản phẩm có thể thay đổi và thay đổi như thế nào ?
- Điều gì sẽ xảy ra khi thay đổi một phần xác định của sản phẩm ?
- Cái gì không thể điều khiển và liên kết thuộc tính không đúng ?
- Có ý tưởng nào từ một quá trình khác ?
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
- Những kinh nghiệm trong những sự kiện trước có thể áp dụng ở hiện tại
hay không ?
- Những gì điều chỉnh sẽ dẫn đến kết quả mong muốn ?
- Ai hoặc cái gì có thể tạo ra sự cạnh tranh ?
- Làm thế nào để áp dụng một ý tưởng đặc biệt vào vấn đề hiện tại ?
Giải quyết vấn đề thông qua áp dụng hay điều chỉnh đòi hỏi phải suy nghĩ
nhiều hướng, sử dụng những công cụ đang có vào những tình huống và không gian
mới.
1.2.4. Phép điều chỉnh (Modify)
Kỹ thuật này giải quyết một vấn đề là bằng cách sửa đổi hiện trạng. Xem xét
quá trình ở một góc độ vi mô và vĩ mô có thể tìm ra thực tế hay khả năng mới. Một
số câu hỏi giúp cho kỹ thuật này:
- Điều gì sẽ xảy ra khi hoán đổi hai bộ phận hay đặc tính ?
- Sửa đổi quy trình kết quả sẽ thay đổi như thế nào ?

- Mở rộng quá trình có tạo ra sự khác biệt ?
- Thay đổi tính chất có làm thay đổi hình dạng hoặc chất lượng của sản
phẩm không ?
Hầu hết các cải tiến về chất lượng và phương pháp xử lý sự cố nhằm mục
đích thay đổi quá trình hoặc sản phẩm.
1.2.5. Phép thêm vào (Put)
Kỹ thuật này tạo ra cái mới bằng cách đưa giải pháp, sản phẩm hoặc quá trình
hiện tại vào mục đích hoặc sử dụng khác; hoặc là có thể sử dụng lại ở đâu đó để giải
quyết vấn đề. Một số câu hỏi giúp cho kỹ thuật này:
- Những thị trường khác dành cho sản phẩm ?
- Những kết quả nào khác của quá trình này có thể tạo ra ?
- Nơi nào khác có thể triển khai quá trình này ?
- Có bao nhiêu cách sản phẩm có thể được sử dụng ?
- Sản phẩm này có làm việc ở nơi khác hay không ?
- Ai có thể sử dụng sản phẩm này hữu ích ?
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
Với kỹ thuật này giúp ta tìm ra được những công dụng mới của sản phẩm.
Mặc dù mục đích ban đầu là hoàn toàn khác.
1.2.6. Phép loại bỏ (Eliminate)
Vấn đề có thể là một quá trình hay một phần của quá trình mà nếu loại bỏ sẽ
làm cho phần còn lại của quá trình làm việc được liền mạch. Ngoài ra, chúng ta có
thể xây một quá trình đặc biệt làm nhiệm vụ loại bỏ các quá trình khác. Một số câu
hỏi giúp cho kỹ thuật này:
- Điều gì sẽ xảy ra khi loại bỏ thành phần này ?
- Làm thế nào đạt được các mục đích tương tự mà không có thành phần
này ?
- Loại bỏ quá trình hoặc đối tượng này có làm kết quả thay đổi ?
- Việc tinh giản quá trình này giúp cải thiện dòng quá trình không ?
Làm giảm sự phức tạp của sản phẩm hoặc là vượt qua được khó khăn hiện tại
trong một quá trình nào đó của sản xuất sản phẩm.

1.2.7. Phép đảo ngược (Reverse)
Kỹ thuật này chúng ta sẽ xem xét quá trình hoặc sản phẩm trong sự đảo
ngược lại. Đây là một kỷ thuật khá phức tạp. Một số câu hỏi có thể giúp cho kỹ thuật
này:
- Chuyện gì xảy ra khi ta đảo ngược quá trình ?
- Làm thế nào đạt được những điều ngược với những gì đang xảy ra bây
giờ ?
- Điều gì có thể quay lại hoặc đặt ngược lại cho kết quả mong muốn ?
- Làm thế nào tốt nhất để sắp xếp lại các quá trình ?
- Mô hình, bố trí, hay trình tự khác nào sẽ cải thiện kết quả?
- Có thể trao đổi cách bố trí hoặc các mẫu ?
- Có thể đảo ngược vai trò mà không có bất kỳ hậu quả nghiêm trọng ?
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
CHƯƠNG 2
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ ĐIỀU HÀNH
ANDROID
Hệ điều hành Android đã có một quá trình phát triển dài kể từ khi thiết bị đầu
tiên – điện thoại T-Mobile G1 dùng hệ điều hành này xuất hiện. Trong quãng thời
gian ấy, thế giới đã chứng kiến sự xuất hiện của rất nhiều phiên bản Android, giúp
nó dần biến đổi thành một nền tảng di động mạnh mẽ cho tới ngày hôm nay. Trước
khi đi vào chi tiết, tôi sẽ điểm lại những tính năng và đặc điểm nổi bật từ phiên bản
Android sơ khai nhất đến hiện tại để xem Google đã tạo ra được những dấu ấn gì
trên thị trường smartphone thế giới.
Hình 2.1: Biểu tượng Android qua từng phiên bản
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
2.1. Điểm khởi đầu của hệ điều hành Android
Hình 2.2: Điện thoại T-Mobile G1 sử dụng hệ điều hành Android đầu tiên
Android chính thức khởi động vào ngày 22/10/2008 với chiếc điện thoại T-
Mobile G1. Thời kỳ này, có nhiều tính năng cơ bản cho một smartphone bị thiếu sót

như bàn phím ảo, cảm ứng đa điểm hay khả năng mua ứng dụng. Tuy nhiên, vai trò
của phiên bản đầu tiên này vô cùng quan trọng. Nó đã đặt nền móng cho các tính
năng có thể xem là đặc điểm nhận dạng của Android ngày nay.
 Thanh thông báo kéo từ trên xuống: Ngay từ khi trình làng, Android đã
được tích hợp một hệ thống cảnh báo vô cùng hữu dụng so với những đối thủ
cạnh tranh thời bấy giờ mặc dù nó không được tốt như Notification Bar trên
các thế hệ Android mới. Người dùng có thể xem những tin nhắn đến, xem ai
mới gọi nhỡ hoặc bất cứ thứ gì mà phần mềm trên đang máy muốn người
dùng biết một cách nhanh nhất. Tất cả thông báo đều tập hợp trong một danh
sách duy nhất. Thanh trạng thái, bao gồm đồng hồ, biểu tượng pin, biểu
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
tượng cho các kết nối cũng được tích hợp vào nơi đây, giúp tiết kiệm tối đa
không gian màn hình nhưng vẫn phục vụ đầy đủ nhu cầu thông tin cho người
sử dụng.
 Màn hình chính và widget: Màn hình chính của Android thật sự rất phong
phú. Bạn có thể thay đổi hình nền (Windows Phone không làm được điều
này), đặt icon ra màn hình chính, sử dụng widget và hơn hết là thay luôn cả
cái màn hình chính nếu muốn. Màn hình chính trên Android có thể xem khả
năng tùy biến là cao nhất trong các hệ điều hành di động hiện nay. Về phần
widget, nó cho phép người dùng nhanh chóng truy cập đến một số tính năng
nào đó hoặc xem nhanh các thông tin cập nhật chi tiết một cách nhanh nhất.
Widget cũng đóng vai trò trang trí cho màn hình chính nữa.
 Tích hợp chặt chẽ với Gmail: Lúc chiếc G1 ra mắt, Gmail đã hỗ trợ giao
thức POP và IMAP để dùng được với các trình gửi nhận email trên thiết bị di
động, nhưng vấn đề nằm ở chỗ không có giao thức nào được tận dụng tối đa
để phục vụ những tính năng độc đáo của Gmail (ví dụ như lưu trữ, đánh nhãn
cho email). Android 1.0 ra mắt đã khắc phục được vấn đề này và có thể nói
chiếc G1 đã mang lại trải nghiệm Gmail tốt nhất trên thị trường vào thời điểm
đó.
 Về mặt giao diện: Google xây dựng giao diện của Android 1.0 với hỗ trợ

một công ty thiết kế đến từ Thụy Điển – The Astonishing Tribe (TAT). Từ
Android 1.0 đến 2.2, bạn có thể thấy sự xuất hiện của một widget đồng hồ
quen thuộc, tuy đơn giản nhưng khá đẹp mắt, đó chính là dấu ấn của TAT.
Một thời gian sau, TAT được RIM mua lại để tập trung phát triển cho nền
tảng BlackBerry OS. Mối quan hệ của TAT với Google Android cũng chấm.
2.2. Các phiên bản của Android
Android 1.1
Tháng 2/2009, bản nâng cấp đầu tiên của Android được trình làng, khoảng ba
tháng sau khi G1 được bán ra. Phiên bản 1.1 không phải là một cuộc cách mạng gì
to lớn bởi tính năng chính của nó là sửa một danh sách lỗi khá dài. Tuy nhiên, nó đã
cho thấy khả năng nâng cấp thiết bị di động qua phương pháp Over-The-Air (có thể
tải về và cài đặt bản cập nhật ngay trên smartphone, không cần kết nối với máy
tính). Ở thời điểm đó, rất ít hệ điều hành di động có thể làm được việc này, hầu hết
đều phải nhờ đến một phần mềm chuyên dùng nào đó trên PC.
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
Android 1.5 Cupcake
Android 1.5 có lẽ có vai trò cực kì quan trọng trong quá trình trưởng thành
của Android khi nó bổ sung cho hệ điều hành này những tính năng nổi bật giúp nó
cạnh tranh với các nền tảng đối thủ khác. Đây cũng là bản Android đầu tiên được
Google gọi tên theo các món đồ ăn với chữ cái bắt đầu được xếp theo thứ tự
alphabet. Cupcake là một loại bánh nhỏ, hơi giống bánh bông lan và có kem bên
trên. Sau này ta có thêm Donut, Eclair (bánh su kem nhưng dài, nhân chocolate),
FroYo (ya-ua đá), Gingerbread (bánh gừng), Honeycomb (một loại bánh có hình tổ
ong), Ice Cream Sandwich (bánh sandwich kem), Jelly Bean (một loại kẹo dẻo viên
nhỏ, hình hạt đậu) và gần đây nhất là Kitkat (bánh xốp bọc chocolate của hãng
Nestle).
Về mặt giao diện, Android 1.5 không có nhiều điểm thay đổi so với phiên bản
trước. Google chỉ điểm thêm vài điểm để làm giao diện trông bóng bẩy, mượt mà
hơn một tí, chẳng hạn như widget tìm kiếm có độ trong suốt nhẹ, biểu tượng app
drawer có một số hoa văn nhỏ mới, … . Nói chung, giao diện không phải là một

điểm nhấn của Android 1.5 mà người ta quan tâm nhiều hơn đến các tính năng mới
như:
 Bàn phím ảo: Nhiều bạn sẽ ngạc nhiên vì tại sao Google không cho những
bản Android đầu tiên bàn phím mềm? Đâu phải là họ không có khả năng làm
đâu? Thực chất, mục tiêu ban đầu của Android là cạnh tranh với BlackBerry.
Vào thời điểm đó, BlackBerry đang rất nổi và được nhiều người dùng quan
tâm, nhất là ở Mỹ, bởi chính bàn phím vật lí của nó. Bởi vậy, G1 có một bàn
phím QWERTY trượt ngang. Mãi đến phiên bản Cupcake này mới có một
chiếc điện thoại Android thuần cảm ứng là HTC Magic được giới thiệu (vào
tháng 4/2009, gần nửa năm sau khi G1 được công bố).
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
Hình 2.3: Bàn phím ảo đầu tiên của hệ điều hành Android
 Google tích hợp vào Cupcake những "cái móc", dân lập trình gọi là hook, để
họ có thể tự do viết phần mềm bàn phím của riêng mình cho Android. Lại
thêm một điểm nữa khiến cho Android trở nên khác biệt với các hệ điều hành
đối thủ khác. Lúc Cupcake xuất hiện, bàn phím ảo mặc định rất chậm và
không chính xác khi so sánh với iOS, chính vì thế mà những hãng sản xuất
phần cứng như HTC đã phát triển riêng một biện pháp khắc phục, cũng may
là có hook do Google mở ra.
 Mở rộng khả năng cho widget: Android 1.0 và 1.1 có tích hợp widget,
nhưng tiềm năng của nó chưa được khai thác hết vì Google chưa đưa bộ phát
triển phần mềm cho lập trình viên. Từ phiên bản Android 1.5 trở đi thì
chuyện đã thay đổi và đến thời điểm hiện tại, kho widget của Android đã rất
phong phú, đó là chưa kể đến những ứng dụng của bên thứ ba cũng mang sẵn
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
trong mình widget nữa. Nhờ có khả năng này mà việc tùy biến giao diện của
Android càng được đẩy mạnh hơn nữa.
 Cải tiến clipboard: Thật ra Android đã hỗ trợ việc copy và paste ngay từ
những ngày đầu tiên rồi, nhưng nó bị giới hạn lại ở textbox (là những chỗ nào
chúng ta có thể gõ chữ được) và sao chép các đường link mà thôi. Ví dụ bạn

đang đọc mail hay đang duyệt web thì chịu, chúng ta không cách gì sao chép
được. Với Cupcake thì Google cho phép sao chép nội dung của web, một cải
tiến được đánh giá là tốt. Còn với Gmail thì phải đến vài bản nâng cấp sau
mới có được tính năng này.
 Khả năng quay phim: Thật khó mà tưởng tượng được chiếc smartphone
“xịn” lại bán ra mà không hề có tính năng quay phim, nhưng đó là những gì
mà chiếc T-Mobile G1 phải "hứng chịu" (cũng hơi giống iPhone những đời
đầu). Mãi đến Android 1.5 thì Android mới quay phim được. Nhưng cũng
giống với bàn phím, trình camera mặc định của Android không tốt nên các
hãng phần cứng phải nhanh chóng thay nó với ứng dụng của riêng mình với
các chế độ quay theo cảnh, chạm để lấy nét, tùy chỉnh thông số video.
 Và còn nhiều thứ khác như khả năng xóa hoặc di chuyển hàng loạt email
trong Gmail, cho phép tải ảnh, video lên YouTube, Picasa, truy cập danh bạ
trong Google Talk từ nhiều ứng dụng khác.
Android 1.6 Donut
Trong phiên bản này, một vài điểm trong giao diện được cải thiện, vài tính
năng nhỏ được thêm vào, cuối cùng là hỗ trợ cho mạng CDMA. Động thái này cho
phép nhiều nhà mạng hơn có thể sử dụng với Android, giúp cho Android có thêm
một số lượng lớn người dùng ở Mỹ và ở cả Châu Á nữa. Nhưng có lẽ điểm thú vị
nhất của Donut đó là hỗ trợ các thành phần đồ họa độc lập với độ phân giải. Lần đầu
tiên, Android có thể chạy trên nhiều độ phân giải và tỉ lệ màn hình khá nhau, cho
phép những thiết bị có nhiều độ phân giải hơn là 320 x 480. Hiện nay, chúng ta có
những chiếc smartphone Android chạy ở độ phân giải QVGA, HVGA, WVGA,
FWVGA, qHD, 720p, … .
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
Hình 2.4: Kích cỡ màn hình và độ phân giải
Tính năng Quick Search Box, được biết nhiều hơn trong thế giới điện thoại
với cái tên Universal Search, cũng là một điểm mà Android nhận được nhiều lời
khen. Bạn có thể tìm kiếm danh bạ, ứng dụng, nhạc, tin nhắn,…, tất cả đều chỉ thao
tác trong một hộp tìm kiếm mà thôi. Trước Donut, khi nhấn nút Search trên máy

Android thì bạn chỉ có thể tìm kiếm thông qua google.com mà thôi. Google cũng
cho phép những lập trình viên tích hợp tính năng tìm kiếm mới này vào ứng dụng
của mình để mở rộng thêm khả năng của Quick Search Box.
Android 1.6 còn có gì mới? Đó là một Android Market với thiết kế mang tông
màu xanh trắng đặc trưng của Android, có thể hiển thị các ứng dụng free và trả phí
hàng đầu. Những ứng dụng bên thứ ba cũng bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Giao diện
camera mới, tích hợp với trình xem ảnh tốt hơn, giảm thời gian chờ giữa hai lần
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
chụp ảnh. Nhưng cũng thường thì các nhà sản xuất cũng thay thế bằng ứng dụng của
riêng mình.
Android 2.0 và Android 2.1 Eclair
Đầu tháng 9 năm 2009, một năm sau khi G1 chào đời, Android 2.0 đã được ra
mắt. Thật sự không ngoa khi mô tả Android 2.1 bằng một chữ "lớn". Một cơ hội lớn
cho những nhà phát triển, một tiềm năng lớn cho Android về sau, những chiếc điện
thoại "lớn" được ra mắt và phân phối bởi các nhà mạng lớn. Eclair, tên gọi của
Android 2.0, lúc mới ra mắt chỉ được dùng độc nhất cho chiếc Motorola Droid của
nhà mạng Verizon, một trong những chiếc điện thoại đã kích hoạt cho một kỹ
nguyên Android lớn mạnh như ngày hôm nay. Motorola Droid còn được biết đến với
tên gọi Motorola Milestone khi nó xuất hiện ở Việt Nam. Đây là một sản phẩm rất
thành công của Motorola và cả Google khi mang đến cho người dùng những trải
nghiệm cực kì tốt với Android.
Hình 2.5: Điện thoại thông minh Motorola Droid
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
Vậy những gì làm cho Eclair quan trọng? Nó là bản nâng cấp và làm mới lớn
nhất mà Android từng có kể từ khi hệ điều hành này được giới thiệu, cả về ngoại
hình lẫn kiến trúc bên trong. Vào thời điểm Motorola Milestone ra mắt, độ phân giải
cao và lạ 854 x 480 cùng nhiều yếu tố phần cứng khác đã làm cho sản phẩm này
đứng đầu thế giới Android về cấu hình, nhưng quan trọng hơn là Android 2.0 có
những tính năng khiến cho nó dễ bán hơn, chẳng hạn như:
• Hỗ trợ nhiều tài khoản người dùng: lần đầu tiên, nhiều tài khoản Google có

thể được đăng nhập trên cùng một thiết bị chạy Android. Tài khoản Microsoft
Exchange cũng được hỗ trợ trong Eclair. Người dùng có thể duyệt qua danh
bạ, email của từng tài khoản. Google giờ đây cho phép những nhà phát triển
bên thứ ba tích hợp dịch vụ của họ vào trong mục Account này, đồng thời hỗ
trợ tự động đồng bộ hóa.
• Quick Contact: khi chạm vào một số liên lạc nào đó, có một menu nhỏ sẽ
xuất hiện để bạn tương tác theo nhiều cách: gửi email, gọi điện, nhắn tin và
hơn thế nữa. Miễn là nơi nào có biểu tượng contact xuất hiện là nơi đó có thể
dùng Quick Contact. Sau này có thêm Twitter, Facebook và nhiều dịch vụ
đồng bộ khác cũng tích hợp tính năng riêng của mình vào Quick Contact.
• Cải tiến bàn phím ảo: Giống với chiếc G1, Droid/Milestone có một bàn
phím QWERTY đầy đủ dạng trượt ngang nhưng Google cho phép người
dùng sử dụng thêm bàn phím ảo mà hãng đã thiết kế lại. Mặc dù tính năng
cảm ứng vẫn còn một điều xa vời với Android vào lúc đó (trình duyệt, bản đồ
và cả các phần mềm khác không hề dùng được tính năng hai ngón tay để
phóng to, thu nhỏ,…) nhưng Eclair lại sử dụng dữ liệu multitouch từ bàn
phím để xác định điểm chạm thứ hai trong lúc người dùng gõ nhanh. Độ
chính xác của bàn phím ảo trên Android 2.0 nhờ đó đã được cải tiến đáng kể.
• Trình duyệt mới: Mặc dù chưa hỗ trợ cảm ứng đa điểm nhưng trình duyệt
trên Android 2.0 cũng có nhiều điểm nâng cấp đáng khen. Google đã hỗ trợ
HTML5, bao gồm luôn khả năng phát video ở chế độ toàn màn hình. Hộp địa
chỉ kết hợp với thanh tìm kiếm (giống với trình duyệt Chrome) cũng lần đầu
xuất hiện trên Android. Để bù lại cho tính năng cảm ứng đa điểm, trình duyệt
mới hỗ trợ chạm hai lần để phóng to nội dung trên màn hình, kèm theo đó là
hai nút Zoom in, Zoom out.
• Giao diện mới: các biểu tượng giờ đây đã đẹp hơn, sang trọng hơn, gọn gàng
hơn nhiều so với trước. Widget cũng được thiết kế mới để tương thích với độ
phân giải cao trên Droid. Giao diện menu cũng đẹp hơn nữa.
Về phần Android 2.1, mặc dù không "lớn" như Android 2.0 vì nó chủ yếu ra
mắt để sửa lỗi và thêm hàm API để lập trình viên can thiệp sâu hơn vào hệ thống

GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
nhưng nó đã hỗ trợ thêm vài tính năng lý thú như Live Wallpaper, chuyển giọng nói
thành văn bản và một màn hình khóa mới.
Hình 2.6: Sự thay đổi màn hình khóa của Android
Android 2.1 có rất nhiều ý nghĩa về việc thay đổi chiến lược của Google.
Nhận thấy các hãng phần cứng thường thay đổi giao diện gốc của Android theo ý họ,
Google đã chọn HTC để làm việc trực tiếp và tạo ra Nexus One, chiếc điện thoại đầu
tiên của hãng. Nexus One mang trong mình một bản Android 2.1 thuần khiết nhất và
không hề bị chỉnh sửa gì cả. Không chỉ nổi bật về mặt phần mềm, Nexus One còn có
phần cứng mạnh mẽ thời bấy giờ. Nó là một trong những smartphone đầu tiên chạy
trên CPU Snapdragon 1GHz của Qualcomm, đồng thời sở hữu màn hình AMOLED
độ phân giải WVGA.
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
Hình 2.7: Điện thoại Nexus One
Android 2.2 Froyo
Android 2.2 được ra mắt trong năm 2010 và mục tiêu của chương trình Nexus
đã xuất hiện rõ hơn bao giờ hết: Nexus One là chiếc điện thoại đầu tiên được nâng
cấp lên Android 2.2, sớm hơn nhiều so với tất cả các hãng khác. Giao diện màn hình
chính đã được thay đổi, từ 3 màn hình chính tăng lên thành 5 màn hình. Dãy nút
kích hoạt nhanh chế độ gọi điện, web và App Drawer cũng đã xuất hiện. Những
chấm nhỏ ở góc trái, phải bên dưới của màn hình giúp người dùng biết mình đang
xem đến màn hình nào. Google đã có nhiều cố gắng để giao diện Android được vui
và đẹp hơn, dễ dùng hơn, bắt kịp phần nào với giao diện của bên thứ ba như HTC
Sense chẳng hạn.
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
Hình 2.8: Màn hình Android 2.3
FroYo còn có một trình xem ảnh mới với khả năng hiển thị hình ảnh 3D:
nghiêng máy thì dãy ảnh sẽ nghiên theo, đồng thời nó mang trong mình nhiều hiệu
ứng chuyển động đẹp mắt khác. Đây cũng là dấu mốc về việc Google đã đi thuê
ngoài nhằm phát triển Android mà Gallery trên FroYo là một ví dụ. Tính năng trạm

phát Wifi cũng xuất hiện, cách copy, paste mới tốt hơn. Nhiều tính năng bảo mật
mới cũng xuất hiện. Tuy nhiên, với người dùng thông thường thì việc Android 2.2
FroYo có hỗ trợ duyệt web với Flash là điểm đáng quan tâm nhất. Hầu như người ta
muốn lên FroYo là để tận hưởng được cảm giác duyệt web với Flash đầy đủ trên
thiết bị di động. Android 2.2 bổ sung thêm tính năng di chuyển một phần ứng dụng
GVHD: GS. TSKH. Hoàng Văn Kiếm HVTH: Nguyễn Văn Kiệt
từ bộ nhớ máy sang thẻ nhớ, giúp tiết kiệm dung lượng cho các điện thoại thời bấy
giờ.
Android 2.3 Gingerbread
Khoảng nửa năm sau khi FroYo xuất hiện, Google đã trở lại với bản Android
2.3. Google giới thiệu nó với nhiều tính năng mới, tập trung vào việc phát triển
game, đa phương tiện và phương thức truyền thông mới. Android 2.3 có tên mã là
Gingerbread, hiện bộ SDK Android 2.3 dành cho các nhà phát triển cũng đã được
Google phát hành. Bên cạnh đó, chiếc Nexus S do Samsung sản xuất cũng xuất hiện
với vai trò là người kế nhiệm cho Nexus One. Nexus S có vài thay đổi nhỏ so với
người anh em Galaxy S.
Hình 2.9: Điện thoại Nexus S
Android 2.3 thật ra không phải là một bản nâng cấp lớn nhưng những ảnh
hướng mà nó mang lại thì không nhỏ chút nào. Lần đầu tiên Android khoác lên mình
một giao diện đen, trông ngầu và chuyên nghiệp hơn. Các thành phần trên màn hình

×