Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Tiểu luận môn phươnghương pháp nghiên cứu khoa học PHÂN TÍCH SỰ PHÁT TRIỂN HỆ ĐIỀU HÀNH ANDROID QUA PHƯƠNG PHÁP SCAMPER

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 46 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TPHCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Báo Cáo Môn Học: Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
Đề Tài
NGHIÊN CỨU QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA HỆ ĐIỀU HÀNH ANDROID
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm
Học Viên: Nguyễn Thành Quân
MSHV: CH1301032
MỤC LỤC
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 2
LỜI CÁM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn GS – TSKH Hoàng Kiếm, về tất những bài giảng bổ
ích của Thầy, cám ơn Thầy đã tận tâm chia sẻ những kinh nghiệm quý báu và truyền đạt
những kiến thức qua những bài học từ thực tế một cách sâu sắc cho em thông qua môn
học “Phương pháp nghiên cứu khoa học”.
Nhờ những kiến thức quí báu mà thầy đã chia sẻ đó nó em có trong quá trình học
và nghiên cứu khoa học, em có thể nhìn nhận ra nhiều vấn đề về khoa học và tiếp cận
nghiên cứu khoa học nói chung và trong chuyên ngành công nghệ thông tin .
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 3
LỜI MỞ ĐẦU
Từ xa xưa mọi hoạt động của con người đều mang trong mình những ý thức, đó
là sự khởi đầu của mọi tư duy sáng tạo. Sáng tạo không thể tách rời khỏi tư duy - hoạt
động bộ não của con người. Chính quá trình tư duy sáng tạo với chủ thể là con người
đã tạo các giá trị vật chất, tinh thần, các thành tựu vĩ đại về mọi mặt trong cuộc sống
và tạo ra nền văn minh nhân loại.
Tư duy sáng tạo nhằm tìm ra các phương án, biện pháp thích hợp để kích hoạt
khả năng sáng tạo và để tăng cường khả năng tư duy của một cá nhân hay một tập thể
cộng đồng làm việc chung về một vấn đề hay lĩnh vực. Việc thực hành tư duy sáng
tạo tìm ra các phương án, các lời giải từ một phần đến toàn bộ cho các vấn đề nan
giải. Các vấn đề này không chỉ giới hạn trong các ngành nghiên cứu về khoa học kỹ
thuật mà nó có thể thuộc lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, xã hội, nghệ thuật


hoặc trong các phát minh, sáng chế.
Việc áp dụng những trí tuệ của tư duy sáng tạo giúp con người ngày càng sáng
chế ra các thiết bị ngày càng thông minh và tiện dụng mà hiện nay được sử dụng
nhiều nhất là điện thoại. Để tạo ra 1 chiếc điện thoại thông minh yêu cầu tích hợp
nhiều bộ phận lại với nhau, trong đó quan trọng nhất có thể kể đến là hệ điều hành, nó
là nền tảng và là một phần không thể thiếu của một thiết bị di động. Sau đây e xin
trình bày về quá trình phát triển của hệ điều hành Android thông qua việc áp dụng 7
nguyên lý sáng tạo SCAMPER.
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 4
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 7 NGUYÊN LÝ SÁNG TẠO
SCAMPER
I.1 Khái niệm.
Hiện nay, có khá nhiều phương pháp sáng tạo khác nhau nhưng không có phương
pháp nào vượt trội trong mọi tình huống, trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, phương pháp
sáng tạo SCAMPER tỏ ra có nhiều ưu điểm trong việc phát triển hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp. Hai trọng tâm sáng tạo trong doanh nghiệp là sáng tạo trong phát
triển đổi mới sản phẩm và sáng tạo trong tiếp thị kinh doanh sản phẩm.
Phương pháp sáng tạo SCAMPER được giáo sư Michael Mikalko phát triển. Đó là
1 công cụ tư duy khá hiệu quả, trợ giúp đắc lực trong quá trình tìm ra các phát kiến nhằm
thay đổi sản phẩm hoặc tiến trình công việc. Kết quả mà phương pháp này mang lại có
thể áp dụng trực tiếp hoặc như điểm khởi đầu theo cách tư duy bên lề vấn đề.
SCAMPER là ghép các chữ cái đầu của nhóm từ sau: Substitute (thay thế), Combine (kết
hợp), Adapt (thích nghi), Modify (hiệu chỉnh), Put (thêm vào), Eliminate (loại bỏ) và
Reverse (đảo ngược). Phương pháp sáng tạo SCAMPER dễ lĩnh hội, dễ vận dụng nhưng
khá hữu hiệu nên ngày càng được sử dụng phổ biến rộng rãi, nhất là trong các doanh
nghiệp.
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 5
Hình 1.1: Phương pháp sáng tạo Scamper
1.2 Phân Tích Scamper
1.2.1 Substitute (thay thế).

Với 1 sản phẩm, bạn hãy quan sát thành phần tạo nên chúng và thử suy nghĩ xem
liệu các thành phẩm này có thể được thay thế bằng nguyên vật liệu nào khác? Trong một
quá trình làm việc, liệu vấn đề nhân lực thay thế sẽ là ai? Có nên thay địa điểm? Đối
tượng? Các câu hỏi có thể đặt ra: Thay đổi cái gì để nâng cao chất lượng? Chuyện gì
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 6
xảy ra nếu tôi thay cái này bằng cái khác? Làm cách nào để đổi địa điểm, thời gian,
nguyên vật liệu, vấn đề nhân lực?
Ví dụ: Trước đây ta không có món xúc xích hotdog chay nhưng giờ đã có, nó làm bằng
chất liệu ra củ quả.
1.2.2 Combine (kết hợp).
Bạn hãy quan sát xem có thể biến tấu thêm gì, kết hợp thêm được gì để tạo ra 1
sản phẩm mới, đề cao khả năng hợp lực của từng tính năng. Các câu hỏi có thể đặt ra:
Nguyên vật liệu cần là gì? Các tính năng? Quy trình? Nhân lực? Cái gì có thể kết hợp
lại? Sẽ kết hợp khâu nào? Ở đâu?
Ví dụ: Chúng ta cho ra loại bưu thiếp có nhạc, TV với đầu máy video.
1.2.3 Adapt (thích nghi).
Nghĩ xem khi thay đổi, các tính năng này có phù hợp không? Các câu hỏi có thể
đặt ra: chúng ta có thể bắt chước cái gì? Mô phỏng cái gì?
Ví dụ: giường cho trẻ em cấu tạo như 1 chiếc xe đua.
1.2.4 Modify (điều chỉnh).
Tăng và giảm kích cỡ, thay đổi hình dáng, thuộc tính ( ví dụ như màu sắc, âm
thanh, hương vị, hình thức mẫu mã,…). Nó có thể mạnh lên, cao lên, to lên hoặc ngược
lại: nhẹ hơn, nhỏ hơn,…
1.2.5 Put (thêm vào).
Có thể áp dụng cho cách dùng khác? Mục đích khác? Lĩnh vực khác? Các câu hỏi
đặt ra: Tôi có thể lấn sân sang thị trường nào? Thị trường nào có thể tiêu thụ hàng của
tôi?
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 7
Ví dụ: lốp xe có thể dùng làm hàng rào.
1.2.6 Eliminate (loại bỏ/đơn giản hóa).

Loại bỏ và đơn giản hoá các thành phần, nghĩ xem chuyện gì xảy ra nếu bạn loại
đi hàng loạt các quy trình, sản phẩm, vấn đề và cơ hội(probortunity ), nghĩ xem bạn sẽ
làm gì với tình huống này? Câu hỏi có thể đặt ra: : chuyện gì xảy ra nếu tôi loại bỏ 1 số
thành phần của sản phẩm? Hướng giải quyết không theo cách thông thường?
Ví dụ: điện thoại không dây cố định ra đời◊ điện thoại di động.
1.2.7 Reverse (đảo ngược).
Bạn có thể lật ngược vấn đề? Cách suy nghĩ này sẽ giúp bạn nhìn rõ mọi góc cạnh
của vấn đề cũng như như cơ hội thấy điểm mới cho vấn đề. (tham khảo thêm nguyên tắc
tư duy Reversal) Câu hỏi có thể đặt ra: Chuyện gì xảy ra nếu tôi làm theo theo hướng
khác? Nếu tôi lật ngược trât tự cách làm cũng như cách sử dụng?
Ví dụ: Cho ra loại vải không phân biệt mặt phải hay trái.
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 8
CHƯƠNG II. ỨNG DỤNG CỦA SCAMPER VÀO SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA HỆ ĐIỀU HÀNH ANDROID
2.1 Quá trình phát triển của hệ điều hành Android
2.1.1 Điểm khởi đầu của Android
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 9
Hình 2.1: Android 1.0
Kỉ nguyên Android chính thức khởi động vào ngày 22/10/2008, khi mà chiếc điện
thoại T-Mobile G1 chính thức được bán ra ở Mỹ. Ở giai đoạn này, rất nhiều những tính
năng cơ bản cho một smartphone bị thiếu sót, chẳng hạn như bàn phím ảo, cảm ứng đa
điểm hay khả năng mua ứng dụng. Tuy nhiên, vai trò của phiên bản đầu tiên này vô cùng
quan trọng. Nó đã đặt nền móng cho các tính năng có thể xem là đặc điểm nhận dạng của
Android ngày nay.
- Thanh thông báo kéo từ trên xuống: Ngay từ ngày đầu tiên trình làng, Android đã
được tích hợp một hệ thống cảnh báo vô cùng hữu dụng so với những đối thủ cạnh
tranh thời bấy giờ mặc dù nó không được tốt như Notification Bar trên các thế hệ
Android mới
- Màn hình chính và widget: Nếu bạn muốn so sánh Android, iOS và Windows
Phone, điểm khác biệt lớn nhất đó là một màn hình chính. Màn hình chính của

Android thật sự rất phong phú. Bạn có thể thay đổi hình nền (Windows Phone
không làm được điều này), đặt icon ra màn hình chính, sử dụng widget và hơn hết
là thay luôn cả cái màn hình chính nếu muốn. Độ tùy biến của màn hình chính trên
Android có thể xem là cao nhất trong các hệ điều hành di động hiện nay.
- Tích hợp chặt chẽ với Gmail: Lúc chiếc G1 ra mắt, Gmail đã hỗ trợ giao thức POP
và IMAP để dùng được với các trình gửi nhận email trên thiết bị di động, nhưng
vấn đề nằm ở chỗ không có giao thức nào được tận dụng tối đa để phục vụ những
tính năng độc đáo của Gmail (ví dụ như lưu trữ, đánh nhãn cho email). Android
1.0 ra mắt đã khắc phục được vấn đề này và có thể nói chiếc G1 đã mang lại trải
nghiệm Gmail tốt nhất trên thị trường vào thời điểm đó.
- Về mặt giao diện: Google xây dựng giao diện của Android 1.0 với sự hợp tác của
một công ty thiết kế đến từ Thụy Điển với tên gọi The Astonishing Tribe (TAT).
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 10
Từ Android 1.0 đến 2.2, bạn có thể thấy sự xuất hiện của một widget đồng hồ
quen thuộc, tuy đơn giản nhưng khá đẹp mắt, đó chính là dấu ấn của TAT. Một
thời gian sau, TAT bị RIM mua lại để tập trung phát triển cho nền tảng
BlackBerry OS cũng như BBX. Mối quan hệ của TAT với Google Android cũng
chấm dứt ở đây.
2.1.2 Android 1.1
Tháng 2/2009, bản nâng cấp đầu tiên của Android được trình làng, khoảng ba
tháng sau khi G1 được bán ra. Phiên bản 1.1 không phải là một cuộc cách mạng gì to lớn
bởi tính năng chính của nó là sửa một danh sách lỗi khá dài. Tuy nhiên, nó đã cho thấy
khả năng nâng cấp thiết bị di động qua phương pháp Over-The-Air (tức tải về và cài đặt
bản cập nhật ngay trên thiết bị, không cần kết nối với máy tính). Ở thời điểm đó, rất ít hệ
điều hành di động có thể làm được việc này, hầu hết đều phải nhờ đến một phần mềm
chuyên dùng nào đó trên PC. Trước đó, ở Mỹ có dòng máy Danger Hiptop (được biết
nhiều hơn với tên Sidekick) đã có cập nhật dạng gần giống over the air theo từng giai
đoạn, và chính Andy Rubin, người sáng lập công ty Android Inc. (sau đó Google mua lại)
cũng chính là nhà đồng sáng lập hãng Danger.
Hình 2.2: Android 1.1

GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 11
2.1.3 Android 1.5 Cupcake
Android 1.5 có lẽ có vai trò cực kì quan trọng trong quá trình trưởng thành của
Android khi nó bổ sung cho hệ điều hành này những tính năng nổi bật giúp nó cạnh tranh
với các nền tảng đối thủ khác. Đây cũng là bản Android đầu tiên được Google gọi tên
theo các món đồ ăn với chữ cái bắt đầu được xếp theo thứ tự alphabet. Cupcake là một
loại bánh nhỏ, hơi giống bánh bông lan và có kem bên trên. Sau này ta có
thêm Donut, Eclair (bánh su kem nhưng dài, nhân chocolate), FroYo (ya-ua
đá), Gingerbread (bánh gừng), Honeycomb (một loại bánh có hình tổ ong), Ice Cream
Sandwich (bánh sandwich kem) và mới đây nhất là Jelly Bean (một loại kẹo dẻo viên
nhỏ, hình hạt đậu).
Hình 2.3: Android 1.2
Quay trở lại vấn đề chính nào các bạn. Về mặt giao diện, Android 1.5 không có
nhiều điểm thay đổi so với người tiền nhiệm của mình. Google chỉ điểm thêm vài điểm
để làm giao diện trông bóng bẩy, mượt mà hơn một tí, chẳng hạn như widget tìm kiếm có
độ trong suốt nhẹ, biểu tượng app drawer có một số hoa văn nhỏ mới, v.v. Nói chung,
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 12
giao diện không phải là một điểm nhấn của Android 1.5 mà người ta quan tâm nhiều hơn
đến các tính năng mới mà nó mang lại, chẳng hạn như:
- Bàn phím ảo: Nhiều bạn sẽ ngạc nhiên vì tại sao Google không cho những bản
Android đầu tiên bàn phím mềm? Đâu phải là họ không có khả năng làm đâu?
Thực chất, mục tiêu ban đầu của Android là cạnh tranh với BlackBerry. Vâng, thời
đó BlackBerry đang rất nổi và được nhiều người dùng quan tâm, nhất là ở Mỹ, bởi
chính bàn phím vật lí của nó. Bởi vậy mà G1 có một bàn phím QWERTY trượt
ngang. Mãi đến bản Cupcake này mới có một chiếc điện thoại Android thuần cảm
ứng là HTC Magic được giới thiệu (vào tháng 4/2009, xấp xỉ nửa năm sau khi G1
được công bố).
- Cùng với đó, Google tích hợp vào Cupcake những "cái móc", dân lập trình gọi
là hook, để họ có thể tự do viết phần mềm bàn phím của riêng mình cho Android.
Lại thêm một điểm nữa khiến cho Android trở nên khác biệt với các hệ điều hành

đối thủ khác. Lúc Cupcake xuất hiện, bàn phím ảo mặc định rất chậm và không
chính xác khi so sánh với iOS, chính vì thế mà những hãng sản xuất phần cứng
như HTC đã phát triển riêng một biện pháp khắc phục, cũng may là có hook do
Google mở ra.
- Mở rộng khả năng cho widget: Android 1.0 và 1.1 có tích hợp widget, nhưng tiềm
năng của nó chưa được khai thác hết vì Google chưa đưa bộ phát triển phần mềm
cho lập trình viên. từ Android 1.5 trở đi thì chuyện đã thay đổi, và đến thời điểm
hiện tại, kho widget của Android đã rất phong phú, đó là chưa kể đến những ứng
dụng của bên thứ ba cũng mang sẵn trong mình widget nữa. Nhờ có khả năng này
mà việc tùy biến giao diện của Android càng được đẩy mạnh hơn nữa.
- Cải tiến clipboard: Thật ra Android đã hỗ trợ việc copy và paste ngay từ những
ngày đầu tiên rồi, nhưng nó bị giới hạn lại ở textbox (là những chỗ nào chúng ta
có thể gõ chữ được) và sao chép các đường link mà thôi. Ví dụ bạn đang đọc mail
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 13
hay đang duyệt web thì chịu, chúng ta không cách gì sao chép được. Với Cupcake
thì Google cho phép sao chép nội dung của web, một cải tiến được đánh giá là tốt.
Còn với Gmail thì phải đến vài bản nâng cấp sau mới có được tính năng này.
- Khả năng quay phim: Thật khó mà tưởng tượng được chiếc smartphone xịn lại bán
ra mà không hề có tính năng quay phim, nhưng đó là những gì mà chiếc T-Mobile
G1 phải "hứng chịu" (cũng hơi giống iPhone những đời đầu). Mãi đến Android 1.5
thì Android mới quay phim được. Nhưng cũng giống với bàn phím, trình camera
mặc định của Android không tốt nên các hãng phần cứng phải nhanh chóng thay
nó với ứng dụng của riêng mình với các chế độ quay theo cảnh, chạm để lấy nét,
tùy chỉnh thông số video.
2.1.4 Android 1.6 Donut
Phiên bản bánh Donut này, mặc dù chỉ thêm có 0.1 vào mã số của Android 1.5
nhưng nó cũng mang lại nhiều cải tiến đáng giá. Một vài điểm trong giao diện được cải
thiện, vài tính năng nhỏ được thêm vào, cuối cùng là hỗ trợ cho mạng CDMA. Động thái
này cho phép nhiều nhà mạng hơn có thể sử dụng với Android, giúp cho Android có thêm
một số lượng lớn người dùng ở Mỹ và ở cả Châu Á nữa. Nhưng có lẽ điểm thú vị nhất

của Donut đó là hỗ trợ các thành phần đồ họa độc lập với độ phân giải. Lần đầu tiên,
Android có thể chạy trên nhiều độ phân giải và tỉ lệ màn hình khá nhau, cho phép những
thiết bị có nhiều độ phân giải hơn là 320 x 480. Hiện nay, chúng ta có những chiếc
smartphone Android chạy ở độ phân giải QVGA, HVGA, WVGA, FWVGA, qHD, và
720p. Vài chiếc máy tính bảng còn đạt mức 1920 x 1080 nữa.
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 14
Hình 2.4: Android 1.6
Tính năng Quick Search Box, được biết nhiều hơn trong thế giới điện thoại với cái
tên Universal Search, cũng là một điểm mà Android nhận được nhiều lời khen. Bạn có
thể tìm kiếm danh bạ, ứng dụng, nhạc, tin nhắn,…, tất cả đều chỉ thao tác trong một hộp
tìm kiếm mà thôi. Trước Donut, khi nhấn nút Search trên máy Android thì bạn chỉ có thể
tìm kiếm thông qua google.com mà thôi. Google cũng cho phép những lập trình viên tích
hợp tính năng tìm kiếm mới này vào ứng dụng của mình để mở rộng thêm khả năng của
Quick Search Box.
Android 1.6 còn có gì mới? Đó là một Android Market với thiết kế mang tông
màu xanh trắng đặc trưng của Android, có thể hiển thị các ứng dụng free và trả phí hàng
đầu. Những ứng dụng bên thứ ba cũng bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Giao diện camera
mới, tíhc hợp với trình xem ảnh tốt hơn, giảm thời gian chờ giữa hai lần chụp ảnh. Nhưng
cũng thường thì các nhà sản xuất cũng thay thế bằng ứng dụng của riêng mình.
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 15
2.1.5 Android 2.0 và Android 2.1 Éclair
Đầu tháng 9 năm 2009, một năm sau khi G1 chào đời, Android 2.0 đã được ra
mắt. Thật sự không ngoa khi mô tả Android 2.1 bằng một chữ "lớn". Một cơ hội lớn cho
những nhà phát triển, một tiềm năng lớn cho Android về sau, những chiếc điện thoại
"lớn" được ra mắt và phân phối bởi các nhà mạng lớn. Eclair, tên gọi của Android 2.0,
lúc mới ra mắt chỉ được dùng độc nhất cho chiếc Motorola Droid của nhà mạng Verizon,
một trong những chiếc điện thoại đã kích hoạt cho một kỉ nguyên Android lớn mạnh như
ngày hôm nay. Motorola Droid còn được biết đến với tên gọi Motorola Milestone khi nó
xuất hiện ở Việt Nam. Đây là một sản phẩm rất thành công của Motorola và cả Google
khi mang đến cho người dùng những trải nghiệm cực kì tốt với Android.

GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 16
Hình 2.5: Android 2.0
Vậy những gì làm cho Eclair quan trọng? Nó là bản nâng cấp và làm mới lớn nhất
mà Android từng có kể từ khi hệ điều hành này được giới thiệu, cả về ngoại hình lẫn kiến
trúc bên trong. Vào thời điểm Motorola Milestone ra mắt, độ phân giải cao và lạ 854 x
480 cùng nhiều yếu tố phần cứng khác đã làm cho sản phẩm này đứng đầu thế giới
Android về cấu hình, nhưng quan trọng hơn là Android 2.0 có những tính năng khiến cho
nó dễ bán hơn, chẳng hạn như:
• Hỗ trợ nhiều tài khoản người dùng: lần đầu tiên, nhiều tài khoản Google có thể
được đăng nhập trên cùng một thiết bị chạy Android. Tài khoản Microsoft
Exchange cũng được hỗ trợ trong Eclair. Người dùng có thể duyệt qua danh bạ,
email của từng tài khoản. Google giờ đây cho phép những nhà phát triển bên thứ
ba tích hợp dịch vụ của họ vào trong mục Account này, đồng thời hỗ trợ tự động
đồng bộ hóa.
• Quick Contact: khi chạm vào một số liên lạc nào đó, có một menu nhỏ sẽ xuất
hiện để bạn tương tác theo nhiều cách: gửi email, gọi điện, nhắn tin và hơn thế
nữa. Miễn là nơi nào có biểu tượng contact xuất hiện là nơi đó có thể dùng Quick
Contact. Sau này có thêm Twitter, Facebook và nhiều dịch vụ đồng bộ khác cũng
tích hợp tính năng riêng của mình vào Quick Contact.
• Cải tiến bàn phím ảo: Giống với chiếc G1, Droid/Milestone có một bàn phím
QWERTY đầy đủ dạng trượt ngang nhưng Google cho phép người dùng sử dụng
thêm bàn phím ảo mà hãng đã thiết kế lại. Mặc dù tính năng cảm ứng vẫn còn một
điều xa vời với Android vào lúc đó (trình duyệt, bản đồ và cả các phần mềm khác
không hề dùng được tính năng hai ngón tay để phóng to, thu nhỏ,…) nhưng Eclair
lại sử dụng dữ liệu multitouch từ bàn phím để xác định điểm chạm thứ hai trong
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 17
lúc người dùng gõ nhanh. Độ chính xác của bàn phím ảo trên Android 2.0 nhờ đó
đã được cải tiến đáng kể.
• Trình duyệt mới: Mặc dù chưa hỗ trợ cảm ứng đa điểm nhưng trình duyệt trên
Android 2.0 cũng có nhiều điểm nâng cấp đáng khen. Google đã hỗ trợ HTML5,

bao gồm luôn khả năng phát video ở chế độ toàn màn hình. Hộp địa chỉ kết hợp
với thanh tìm kiếm (giống với trình duyệt Chrome) cũng lần đầu xuất hiện trên
Android. Để bù lại cho tính năng cảm ứng đa điểm, trình duyệt mới hỗ trợ chạm
hai lần để phóng to nội dung trên màn hình, kèm theo đó là hai nút Zoom in, Zoom
out.
• Giao diện mới: các biểu tượng giờ đây đã đẹp hơn, sang trọng hơn, gọn gàng hơn
nhiều so với trước. Widget cũng được thiết kế mới để tương thích với độ phân giải
cao trên Droid. Giao diện menu cũng đẹp hơn nữa.
Về phần Android 2.1, mặc dù không "lớn" như Android 2.0 vì nó chủ yếu ra mắt
để sửa lỗi và thêm hàm API để lập trình viên can thiệp sâu hơn vào hệ thống nhưng nó đã
hỗ trợ thêm vài tính năng lý thú như Live Wallpaper, chuyển giọng nói thành văn bản và
một màn hình khóa mới.
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 18

Hình 2.6: Sự khác biệt giữa các phiên bản Android
Android 2.1 cũng có rất nhiều ý nghĩa về việc thay đổi chiến lược của Google.
Nhận thấy rằng các hãng phần cứng thường thay đổi giao diện gốc của Android theo ý
họ, Google đã chọn HTC để làm việc trực tiếp và tạo ra Nexus One, chiếc điện thoại đầu
tiên của hãng. Nexus One mang trong mình một bản Android 2.1 thuần khiết nhất và
không hề bị chỉnh sửa gì cả. Không chỉ nổi bật về mặt phần mềm, Nexus One còn có
phần cứng mạnh mẽ thời bấy giờ. Nó là một trong những smartphone đầu tiên chạy trên
CPU Snapdragon 1GHZ của Qualcomm, đồng thời sở hữu màn hình AMOLED độ phân
giải WVGA. Thực ra, Google đã tiến hành việc này kể từ chiếc Droid với Android 2.0.
Google và Motorola đã làm việc chặt chẽ để cùng phát triển một mẫu điện thoại tốt,
nhưng Eclair trong Droid vẫn có vài sự tinh chỉnh. Và tất nhiên là Google chưa bao giờ
trực tiếp bán Droid cả.
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 19
Hình 2.7: Android 2.1
2.1.6 Android 2.2 Froyo
Android 2.2 được ra mắt trong năm 2010 và mục tiêu của chương trình Nexus đã

xuất hiện rõ hơn bao giờ hết: Nexus One là chiếc điện thoại đầu tiên được nâng cấp lên
Android 2.2, sớm hơn nhiều so với tất cả các hãng khác. Giao diện màn hình chính đã
được thay đổi, từ 3 màn hình chính tăng lên thành 5 màn hình. Dãy nút kích hoạt nhanh
chế độ gọi điện, web và App Drawer cũng đã xuất hiện. Những chấm nhỏ ở góc trái, phải
bên dưới của màn hình giúp người dùng biết mình đang xem đến màn hình nào. Google
đã có nhiều cố gắng để giao diện Android được vui và đẹp hơn, dễ dùng hơn, bắt kịp
phần nào với giao diện của bên thứ ba như HTC Sense chẳng hạn.
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 20
Hình 2.8: Android 2.2
FroYo còn có một trình xem ảnh mới với khả năng hiển thị hình ảnh 3D: nghiêng
máy thì dãy ảnh sẽ nghiên theo, đồng thời nó mang trong mình nhiều hiệu ứng chuyển
động đẹp mắt khác. Đây cũng là dấu mốc về việc Google đã đi thuê ngoài nhằm phát
triển Android mà Gallery trên FroYo là một ví dụ. Tính năng trạm phát Wifi cũng xuất
hiện, cách copy, paste mới tốt hơn. Nhiều tính năng bảo mật mới cũng xuất hiện. Tuy
nhiên, với người dùng thông thường thì việc Android 2.2 FroYo có hỗ trợ duyệt web với
Flash là điểm đáng quan tâm nhất. Hầu như người ta muốn lên FroYo là để tận hưởng
được cảm giác duyệt web với Flash đầy đủ trên thiết bị di động. Android 2.2 bổ sung
thêm tính năng di chuyển một phần ứng dụng từ bộ nhớ máy sang thẻ nhớ, giúp tiết kiệm
dung lượng cho các điện thoại thời bấy giờ.
2.1.7 Android 2.3 Gingerbread
Khoảng nửa năm sau khi FroYo xuất hiện, Google đã trở lại với bản Android 2.3.
Google giới thiệu nó với nhiều tính năng mới, tập trung vào việc phát triển game, đa
phương tiện và phương thức truyền thông mới. Android 2.3 có tên mã là Gingerbread,
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 21
hiện bộ SDK Android 2.3 dành cho các nhà phát triển cũng đã được Google phát hành.
Bên cạnh đó, chiếc Nexus S do Samsung sản xuất cũng xuất hiện với vai trò là người kế
nhiệm cho Nexus One. Nexus S có vài thay đổi nhỏ so với người anh em Galaxy S.
Hình 2.9: Android 2.3
Android 2.3 thật ra không phải là một bản nâng cấp lớn nhưng những ảnh hướng
mà nó mang lại thì không nhỏ chút nào. Lần đầu tiên Android khoác lên mình một giao

diện đen, trông ngầu và chuyên nghiệp hơn. Các thành phần trên màn hình chính có thêm
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 22
tông màu xanh lá đậm. Bên cạnh đó, việc sử dụng màu đen còn là ý định của Google để
giúp các máy dùng màn hình AMOLED tiết kiệm pin hơn. Vài tính năng mới trên
Android 2.3:
- Hai thanh chặn khi chọn văn bản: Hồi Android 2.2, việc chọn văn bản khi đang
soạn thảo hoặc khi đang duyệt web rất cực khổ. Nhờ có thanh chặn này mà người
dùng có thể chọn từng kí tự một, tiện lợi hơn rất nhiều.
Hình 2.10: Bàn phím Andoird 2.3
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 23
- Bàn phím được cải tiến: Google một lần nữa đầu tư cho bàn phím ảo, lần này có
sự thay đổi lớn về tông màu của bàn phím. Nhìn các phím đẹp hơn, đen hơn và cả
kí tự cũng được thay đổi so với hồi Android Cupcake. Nhờ có khả năng nhận biết
đa điểm trên bàn phím mà việc việc soạn thảo đã dễ chịu hơn, cho phép người
dùng nhấn cùng lúc nhiều phím để chuyển sang bàn phím dạng kí tự.
- Công cụ quản lí pin và ứng dụng: vì Android cho phép các ứng dụng chạy nền
thực thụ chứ không bị ngắt lại, vấn đề pin bị người dùng phàn nàn rất nhiều (đúng
là được cái này mất cái kia, các bạn nhỉ?), đặc biệt là các phần mềm không được
viết để thoát khỏi bộ nhớ sau khi đã hoàn tất công việc của mình. Một công cụ mới
đã ra mắt với biểu đồ nhằm theo dõi mức độ tiêu thụ pin cùng việc quản lí ứng
dụng đang chạy sẽ giúp đỡ người dùng phần nào.
• Hỗ trợ máy ảnh trước: Lần đầu tiên một phiên bản của hệ điều hành Android hỗ
trợ việc sử dụng máy ảnh phụ phía trước của thiết bị. Trên chiếc Nexus S có một
máy ảnh trước, nhưng lúc thiết bị này mới ra mắt thì chúng ta không làm được gì
nhiều ngoài việc chụp ảnh "tự sướng".
Nhiều tính năng mới của Gingerbread chủ yếu nhắm đến lập trình viên hơn là
người dùng cuối, ví dụ như NFC chẳng hạn. Nhiều tháng trôi qua, NFC không có nhiều
ứng dụng thực tế ngoài việc đến một vài thành phố ở nước ngoài và dùng NFC để lấy
thông tin về địa điểm. Khi Nexus S dành cho nhà mạng Sprint, Mỹ, ra đời, Google giới
thiệu Google Wallet, dịch vụ thanh toán di động sử dụng NFC của mình. Đến bây giờ,

nhiều thứ hơn đã hỗ trợ NFC, NFC tag cũng xuất hiện ở nhiều nơi hơn. Thậm chí người
ta còn dự đoán rằng NFC sẽ thay thế được mã QR trong tương lai và Android 2.3 đã góp
một phần quan trọng nhằm thúc đẩy việc sử dụng phổ biến kết nối tầm ngắn này.
Với Gingerbread, Google muốn xâm nhập vào thị trường game di động vốn đang
bị chiếm lĩnh bởi iOS bằng việc cung cấp cho lập trình viên quyền truy cập cấp thấp nhất,
tức là gần sát nhất, đến các phần cứng về âm thanh, đồ họa, lưu trữ,… Nhờ đó, nhiều
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 24
game/ứng dụng native ra đời với tốc độ hoạt động nhanh hơn, hình ảnh, âm thanh phong
phú, chân thật và đẹp hơn nhiều.
2.1.8 Android 3.x Honeycomb
Hình 2.11: Android phiên bản 3.x
GVHD : GS.TSKH Hoàng Kiếm HV: Nguyễn Thành Quân Page 25

×