Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận Phân tích cung cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.13 KB, 23 trang )

THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 3
LỜI MỞ ĐẦU
Yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế đang đặt ra
nhiệm vụ đổi mới chính sách kinh tế - xã hội, hoàn thiện hệ thống thị trường, trong đó
có thị trường lao động, tạo ra cơ sở thuận lợi cho sự vận hành hiệu quả nền kinh tế.
Cải cách kinh tế nhiều năm qua đã đem lại những thay đổi toàn diện sâu sắc, có
tính đột phá liên quan đến phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo việc làm và không
ngừng nâng cao thu nhập, mức sống cho người lao động. Thị trường lao động được
công nhận về mặt hợp pháp và đang trong quá trình hình thành, phát triển, sức lao
động trở thành một loại hàng hóa. Người lao động được tự do tìm việc làm và người
sức dụng lao động được quyền thuê mướn lao động. Thị trường lao động nước ta đang
từng bước có mối quan hệ hội nhập với thị trường lao động khu vực, quốc tế, tạo them
khả năng tăng cầu lao động và năng cao thu nhập của người lao động.
Trong xu thế hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi thị trường lao động ở
Việt Nam phát triển linh hoạt để hỗ trợ tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Thế nhưng, do mới hình thành và phát triển chưa đồng bộ, nên thị trường lao
động Việt Nam đang bộc lộ nhiều yếu điểm lẫn mâu thuẫn, trong đó nghiêm trọng
nhất là mất cân bằng giữa cung và cầu, năng suất lao động thấp. Trong khi chúng ta dư
thừa sức lao động ở nông thôn thì ở lĩnh vực phát triển công nghiệp, các ngành dịch vụ
trung cao cấp lại thiếu hụt lao động trầm trọng.
Thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh hiện nay cũng phát triển theo các
quy luật mới của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, hội nhập khu vực và quốc
tế: Thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có nhiều biến động về chênh
lệch cung - cầu, số lao động không ổn định việc làm, mất việc làm, tái bố trí lại việc
làm hàng năm cũng rất lớn.
Như vậy, vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay đối với thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng và đất nước ta nói chung là phải phân tích tận dụng cơ hội để phát triển thị
trường lao động và nghiên cứu, đề ra những giải pháp để vượt qua những khó khăn,
thách thức trong vấn đề thị trường lao động, tiến tới cân bằng cung cầu lao động. Từ
đó, tạo điều kiện cho chúng ta phát về mọi mặt, đặc biệt là giúp chúng ta phát triển đạt
đến một nền kinh tế hiện đại làm cho đại bộ phận cuộc sống của người dân trong xã


hội trở nên tươi đẹp hơn vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 4
PHẦN: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thị trường lao động là một trong những thị trường đầu vào cơ bản mà các doanh
nghiệp là người mua, khác với thị trường sản phẩm trong đó họ là người bán. Việc
nghiêm cứu thị trường lao động bắt đầu và kết thúc bằng sự phân tích cung cầu lao
động và các mối quan hệ của chúng. Những kết quả của thị trường lao động liên quan
chặt chẽ đến điều kiện lao động và mức độ làm việc. Với kinh tế thị trường hiện nay
thì vấn đề cung cầu lao động đang là một vấn đề bức xúc cấp thiết cần phải có những
biện pháp giải quyết một cách triệt để. Nước ta đang trong thời kỳ hội nhập, cộng với
tiến trình phát triển tất yếu của đất nước, điều này sẽ kích sự di chuyển lao động giữa
các vùng miền, địa phương, các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp thậm chí là giữa các
khu vực. Đó chính là một trong những lý do gây ra việc cung – cầu lao động giữa
những vùng miền, khu vực mất cân bằng. Đây là một vấn đề thực sự cần thiết phải có
những giải pháp hiệu quả và thiết thực để giải quyết. Và thực trạng ấy cũng chính là
thực trạng mà thành phố Hồ Chi Minh hiện đang mắc phải. Do đó, việc nắm vững và
điều tiết thị trường cung – cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới
một cách hiệu quả là hết sức khó khăn. Vì vậy, cần thiết phải có sự phối hợp hoạt
động và giải quyết của những cơ quan, đơn vị chuyên trách và những bộ phận có liên
quan. Tuy nhiên, việc phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp khắc phục tình
trạng này ở thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua dường như chưa hiệu quả và
thiết thực với thực tế. Vì thế mà em quyết định chọn đề tài: “Phân tích cung cầu lao
động tại thành phố Hồ Chí Minh” để phân tích và đưa ra giải pháp cho vấn đề cung
cầu lao động thành phố Hồ Chí Minh.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích hiểu và nắm được quy luật
cung - cầu lao động và những cơ hội thách thức về vấn đề lao động tại thành phố, biết
được sự tham gia và hoạt động của các đơn vị liên quan góp phần vào việc giải quyết

vấn đề này tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tình hình cung cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh
Phạm vi nghiên cứu: trên toàn địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2010.
4. Số liệu
Số liệu từ sở Lao Động Thương Binh - Xã Hội thành phố Hồ Chí Minh
Giáo trình thị trường lao động, giáo trình quản trị nhân lực, giáo trình quản trị
doanh nghiệp, giáo trình thị trường lao động.
Các trang thông tin liên quan tới thị trường trên các trang báo điện tử.
5. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào giáo trình, tìm kiếm và thu thập thông tin từ các website, báo chí;
Dựa vào sự hỗ trợ của các đơn vị cơ quan trong xã hội;
Được thực hiện dựa trên cơ sở sử dụng phương pháp thu thập số liệu, thống kê,
tổng hợp và phân tích số liệu và đưa ra nhận định.
6. Kết cấu
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CUNG CẦU LAO ĐỘNG
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CUNG CẦU LAO ĐỘNG TẠI THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 5
PHẦN: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CUNG CẦU LAO ĐỘNG
1. Một số khái niệm
1.1. Thị trường lao động
Thị trường là phạm trù thuộc kinh tế học, ra đời và phát triển gắn liền với sự phát
triển của sản xuất hàng hóa, khi chưa có nền sản xuất hàng hóa thì chưa có các loại thị
trường. Kinh tế hàng hóa là hình thái tổ chức kinh tế, trong đó diễn ra quá trình sản
xuất và trao đổi hàng hóa. Trong quá trình trao đổi đó, theo nghĩa thông thường thì “
thị trường là nơi mua bán hàng hóa, là nơi gặp gỡ để tiến hành mua bán giữa người
bán và người mua”. (Giáo trình thị trường lao động, 2008, tr 9)

Trong hệ thống thị trường (thị trường hàng hóa, thị trường lao động, thị trường
vốn, thị trường đất đai ) thì thị trường lao động là bật nhất, bởi vì: Lao động là nhu
cầu của con người; là nguồn gốc tạo ra phần lớn của cải vật chất trong xã hội; là nhân
tố quyết định tới sự hoạt động và phát triển của các loại thị trường.
Theo Adam Smith “Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hóa sức
lao động (hoặc dịch vụ lao động) giữa một bên sử dụng lao động và một bên là người
lao động ”.
Theo tiến sỹ Leo Maglen “Thị trường lao động là một hệ thống trao đổi giữa
những người có việc làm hoặc người đang tìm việc làm với những người đang sử dụng
lao động hoặc đang tìm kiếm lao động để sử dụng (cầu lao động)”
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) “Thị trường lao động là thị trường trong đó
các dịch vụ lao động được mua bán thông qua một quá trình thỏa thuận để xác định
mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền cộng”
Từ đó có thể nêu lên một định nghĩa khái quát về thị trường lao động như sau:
“Thị trường lao động là nơi ngưới có nhu cầu tìm việc làm và người có nhu cầu sử
dụng lao động trao đổi với nhau, mua bán dịch vụ lao động thông qua các hình thức
giá cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện thỏa thuận khác (thời gian làm việc,
điều kiện lao động, bảo hiểm xã hội…) trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn
bản hoặc bằng miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thỏa thuận khác”.(Giáo
trình thị trường lao động, 2008, tr 14)
1.2. Cung lao động
Cung lao động là số lượng lao động đang tham gia và sẵn sàng tham gia vào thị
trường lao động ở những thời điểm nhất định. Cung lao động phụ thuộc vào tốc độ
tăng nguồn lao động, sự biến động về cầu lao động, trình độ đào tạo hướng nghiệp –
dạy nghề và tiền lương (tiền công) trên thị trường lao động. (Giáo trình thị trường lao
động, 2008, tr 53)
Có thể hiểu rõ hơn cung về lao động là tổng nguồn sức lao động do người lao
động tự nguyện đem ra tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội. Tức là tổng số nhân
khẩu trong độ tuổi lao động, có năng lực lao động và cả số nhân lực không nằm trong
độ tuổi lao động, nhưng đã chính thức tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội. Xét

về mặt số lượng, khi nói đến cung trên thị trường lao động, người ta thường phân biệt
rõ thành hai phạm trù: cung thực tế và cung tiềm năng. Cung tiềm năng về lao động
bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc, những người thất nghiệp,
những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang đi học, đang
làm công việc nội trợ hoặc không có nhu cầu làm việc. Cung thực tế về lao động bao
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 6
gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và những người thất nghiệp,
hoặc thiếu việc làm.
Bên cạnh đó, cung về lao động còn được xem xét từ giác độ chất lượng lao động,
tức là các phẩm chất cá nhân của người lao động. Trong đó, trình độ học vấn, trình độ
đào tạo, các kỹ năng chuyên môn, kỷ luật lao động…là những yếu tố chính, quyết
định chất lượng của loại hàng hóa đặc biệt này.
Từ đó có thể thấy rằng các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến cung lao động là: quy
mô và tốc độ tăng dân số; quy định pháp lý về độ tuổi lao động; tỷ trọng cư dân trong
độ tuổi lao động và tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động; tỷ lệ tham gia của lực lượng
lao động vào thị trường lao động; tình trạng tự nhiên của người lao động; các phẩm
chất cá nhân về học vấn, trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người
lao động, và một số các chỉ số khác.
1.3. Cầu lao động
Cầu về lao động là số lượng lao động được thuê mướn trên thị trường lao động.
Hay nói cách khác, cầu lao động là toàn bộ cầu về sức lao động của một nền kinh tế
(hoặc của một ngành, địa phương, doanh nghiệp…) ở một thời kỳ nhất đinh, bao gồm
cả mặt số lượng, chất lượng, cơ cấu và thường được xác định thông qua chỉ tiêu việc
làm. (Giáo trình thị trường lao động, 2008, tr 76)
Nhu cầu về cầu lao động thể hiện qua khả năng thuê mướn lao động trên thị
trường lao động. Xét từ giác độ số lượng, trong điều kiện năng suất lao động không
biến đổi, cầu về lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ sản xuất. Nếu quy
mô sản xuất không đổi, cầu về lao động tỷ lệ nghịch với năng xuất lao động. Còn xét
từ giác độ chất lượng, việc nâng cao năng suất lao động, mở rộng quy mô, tiền vốn, tri
thức…của doanh nghiệp càng ngày càng đòi hỏi nâng cao cầu về chất lượng lao động.

Trong đó, các chỉ số quan trọng nhất thể hiện chất lượng lao động là: trình độ tinh
thông nghề nghiệp, mức độ phù hợp của nghề nghiệp được đào tạo với công việc được
giao, kỷ luật lao động…
1.4. Quan hệ cung cầu lao động
Việc nghiên cứu thị trường lao động bắt đầu và kêt thúc bằng sự phân tích cung
cầu lao động và mối quan hệ giữa chúng. Những kết quả của hoạt động thị trường lao
động liên quan chặt chẽ đến điều kiện lao động (suất lương, tổng mức lương, điều kiện
làm việc) và mức độ làm việc. Bất cứ kết quả hoạt động nào của thị trường lao động
cũng là kết quả hoạt động, tương tác của hai lực lượng cung và cầu lao động. (Giáo
trình thị trường lao động, 2008, tr 141)
Cung cầu lao động có quan hệ ràng buộc với nhau, dựa vào nhau để tồn tại. Sự
tác động lẫn nhau của hai chủ thề này quyết định tính cạnh tranh của thị trường: khi
bên cung sức lao động lớn hơn nhu cầu về loại hàng hoa này, thì bên mua ở vào địa vị
có lợi hơn trên thị trường lao động (thị trường của bên mua). Ngược lại, nếu cầu về
sức lao động trên thị trường lớn hơn cung thì người bán sẽ có lợi hơn, có nhiều cơ hội
hơn để lựa chọn công việc, giá cả sức lao động vì thế có thể được nâng cao (thị trường
của bên bán). Bên cạnh đó, cũng như bất kỳ mọi dạng thị trường khác, thị trường lao
động còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới
động thái phát triển của thị trường này.
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 7
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CUNG CẦU LAO ĐỘNG TẠI THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Thực Trạng Cung Cầu Lao Động Cả Nước
2.1.1. Cung lao động
- Lực lượng lao động cả nước năm 2008 có 48,34 triệu người (chiếm 70% dân
số), trong đó trong độ tuổi lao động là 44,17 triệu người (chiếm 91,4%); lực lượng lao
động Việt Nam có cơ cấu trẻ, nhóm tuổi 15-34 là 20,97 triệu người (chiếm 43,4%).
Tốc độ tăng lực lượng lao động hàng năm giảm dần (năm 2005: 2,26%, năm 2007:
2%, năm 2008: 1,65%), mỗi năm lực lượng lao động được bổ sung khoảng 1 triệu
người.

- Cả nước hiện có 47,25 triệu lao động có việc làm; tỷ lệ lao động làm việc
trong các ngành nông – lâm – ngư nghiệp, công nghiệp – xây dựng và thương mại –
dịch vụ lần lượt là 47,7%; 21,5% và 30,8%. Người lao động làm việc trong kinh tế gia
đình không hưởng lương (người làm việc trong các nông trại, hoặc công việc sản xuất
kinh doanh của gia đình mà không được trả lương) chiếm tỉ lệ cao nhất (42%), những
người làm công ăn lương chiếm gần 23% tổng số người có việc làm.
2.1.2. Cầu lao động
- Hiện nay, cả nước có trên 4,145 triệu cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp, thu
hút gần 17 triệu lao động vào làm việc, trong đó có gần 3,935 triệu cơ sở thuộc khu
vực sản xuất kinh doanh, chiếm tỷ trọng 94,9%. Số doanh nghiệp hiện đăng ký kinh
doanh có 300 nghìn (trong đó có trên 200 nghìn doanh nghiệp hiện đang hoạt động).
So với năm 2002, số lượng cơ sở tăng nhanh ở tất cả các loại hình, ngành kinh tế,
trong đó tăng nhiều nhất là ở các ngành, lĩnh vực như: kinh doanh bất động sản tăng
426,2%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng tăng 343%, thông tin truyền
thông tăng 318,6%; hoạt động tài chính và ngân hàng, bảo hiểm tăng 248,9%. Hàng
năm các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh thu hút thêm lao động vào làm việc
từ 1,2 đến 1,5 triệu người.
- Cả nước có khoảng 219 khu công nghiệp được thành lập, phân bố trên 54
tỉnh/thành phố, trong đó có 118 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động (chủ yếu ở các
thành phố lớn), 101 khu công nghiệp đang xây dựng cơ bản. Các doanh nghiệp trong
các khu công nghiệp thu hút trên 1 triệu lao động.
- Từ năm 2001 đến nay, bình quân hàng năm chúng ta đã đưa được khoảng trên
70.000 lao động đi làm việc có thời hạn theo hợp đồng ở nước ngoài. Từ năm 2003,
bình quân mỗi năm đưa được khoảng gần 75.000 lao động, chiếm gần 5% tổng số lao
động được giải quyết việc làm hàng năm. Cho đến nay, có khoảng gần 500 nghìn lao
động Việt Nam làm việc ở trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành
nghề khác nhau. Mỗi năm người lao động gửi về nước khoảng 1,7-2 tỉ đôla Mỹ.
- Tiền lương và thu nhập của người lao động có xu hướng tăng, khoảng 10% -
20%/năm, đời sống của người lao động được cải thiện. Theo số liệu điều tra doanh
nghiệp hàng năm của Tổng cục Thống kê, năm 2006, thu nhập bình quân một lao

động trong doanh nghiệp nhà nước là 2.633 nghìn đồng/tháng, doanh nghiệp dân
doanh là 1.488 nghìn đồng/tháng, doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài là 2.175 nghìn
đồng/tháng; năm 2007 thu nhập bình quân tăng lên tương ứng ở các loại hình doanh
nghiệp là 3.050 nghìn, 1.660 nghìn và 2.450 nghìn đồng/tháng; năm 2008 thu nhập
bình quân tăng lên tương ứng ở các loại hình doanh nghiệp là 3.530 nghìn, 1.860
nghìn và 2.750 nghìn đồng/tháng.
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 8
2.2. Khái Quát Về Thành Phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích
2.095,01 km². Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm 0 giờ ngày 1
tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.123.340 người (chiếm 8,30% dân số Việt
Nam), mật độ trung bình 3.401 người/km². Tuy nhiên nếu tính những người cư trú
không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố vượt trên 8 triệu người. Giữ vai trò
quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh chiếm 20,2% tổng sản
phẩm và 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp của cả quốc gia. Nhờ điều kiện tự nhiên
thuận lợi, nằm ở miền Nam Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km
theo đường bộ, trung tâm thành phố cách cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim
bay. Với vị trí tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, thành phố Hồ Chí Minh là một đầu
mối giao thông quan trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường không trở thành một
đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam và Đông Nam Á.Vào năm 2007, thành
phố đón khoảng 3 triệu khách du lịch quốc tế, tức 70% lượng khách vào Việt Nam.
Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, thể thao, giải trí, thành phố Hồ Chí Minh đều giữ
vai trò quan trọng bậc nhất.
Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu kinh tế của cả Việt Nam. Thành phố
chiếm 0,6% diện tích và 7,5% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,2% tổng sản
phẩm, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án nước ngoài. Vào năm 2005,
thành phố Hồ Chí Minh có 4.344.000 lao động, trong đó 139 nghìn người ngoài độ
tuổi lao động nhưng vẫn đang tham gia làm việc. Năm 2008, thu nhập bình quân đầu
người ở thành phố đạt 2.534 USD/năm, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước, 1024
USD/năm.

Nền kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai mỏ, thủy
sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính Cơ cấu kinh tế
của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm 44,6%, phần
còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ
trọng cao nhất: 51,1%. Phần còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,2%.
Tính đến giữa năm 2006, 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp thành phố Hồ
Chí Minh đã thu hút được 1.092 dự án đầu tư, trong đó có 452 dự án có vốn đầu tư
nước ngoài với tổng vốn đầu tư hơn 1,9 tỉ USD và 19,5 nghìn tỉ VND. Thành phố cũng
đứng đầu Việt Nam tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 2.530 dự án FDI,
tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối năm 2007. Riêng trong năm 2007, thành phố thu hút
hơn 400 dự án với gần 3 tỷ USD.
Về thương mại, Thành phố Hồ Chí Minh có một hệ thống trung tâm mua sắm,
siêu thị, chợ đa dạng. Chợ Bến Thành là biểu tượng về giao lưu thương mại từ xa xưa
của thành phố, hiện nay vẫn giữ một vai trò quan trọng. Những thập niên gần đây,
nhiều trung tâm thương mại hiện đại xuất hiện như Saigon Trade Centre, Diamond
Plaza Mức tiêu thụ của thành phố Hồ Chí Minh cũng cao hơn nhiều so với các tỉnh
khác của Việt Nam và gấp 1,5 lần thủ đô Hà Nội. Sở Giao dịch Chứng khoán Thành
phố Hồ Chí Minh, có mã giao dịch là VN-Index, được thành lập vào tháng 7 năm
1998. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007, toàn thị trường đã có 507 loại chứng
khoán được niêm yết, trong đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365 nghìn
tỷ đồng.
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 9
Tuy vậy, nền kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối mặt với nhiều khó
khăn. Toàn thành phố chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại.
Trong đó, có 21/212 cơ sở ngành dệt may, 4/40 cơ sở ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành
hóa chất, 14/144 cơ sở chế biến thực phẩm, 18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế
tạo máy có trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Cơ sở hạ tầng của thành
phố lạc hậu, quá tải, chỉ giá tiêu dùng cao, tệ nạn xã hội, hành chính phức tạp cũng
gây khó khăn cho nền kinh tế. Ngành công nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các

lĩnh vực cao, đem lại hiệu quả kinh tế hơn.
2.3. Thực Trạng Cung Cầu Lao Động Ở Thành Phố Hồ Chí Minh
Từ kết quả quá trình khảo sát liên tục về cung – cầu tại 18 lần tham gia sàn giao
dịch, ngày hội việc làm trên địa bàn thành phố, các nguồn thông tin của các trung tâm
giới thiệu việc làm, trường dạy nghề và các kênh thông tin của doanh nghiệp về tuyển
dụng lao động trong năm 2010. Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị
trường lao động thành phố Hồ Chí Minh đã tổng hợp cơ sở dữ liệu của 18.036 doanh
nghiệp với nhu cầu tuyển dụng 231.764 lượt tuyển dụng, 84.151 lượt người tìm việc
làm và khảo sát tại các sàn giao dịch việc làm 12.717 người tìm việc. Có thể nhận
định, phân tích tổng quan về thị trường lao động thành phố năm 2010 như sau:
2.3.1. Đặc Điểm Cung – Cầu Tại Thành Phố Hồ Chí Minh Năm 2010:
Tình hình chung thị trường lao động thành phố năm 2010 diễn ra nhiều biến
động về chênh lệch cung – cầu và với xu hướng phát triển tốt hơn năm 2009. Quý I
năm 2010, thị trường lao động diễn ra mất cân bằng giữa nhu cầu tuyển dụng theo cơ
cấu trình độ chuyên môn và ngành nghề, trong những tháng này nhu cầu lao động phổ
thông rất lớn; chiếm 71,16% so với tổng nhu cầu chỗ làm việc trống, trong khi đó nhu
cầu lao động có trình độ cao đẳng – đại học trở lên chỉ chiếm 30%. Các ngành nghề có
nhu cầu tuyển dụng cao trong quý này chủ yếu là những ngành nghề thâm dụng lao
động như Nhựa - Bao bì, Dệt may – Giày da, Chế biến, Dịch vụ - Phục vụ, Vệ sinh
công nghiệp, Mộc - Mỹ nghệ
Thời điểm quý II năm 2010, từ những tác động chính sách quản lý nhà nước và
chính sách sử dụng nhân lực của doanh nghiệp, đặc biệt việc cải tiến quy trình sản
xuất, tăng năng suất lao động, ổn định sản xuất – kinh doanh; nâng cao tiền lương –
thu nhập; chăm lo đời sống cho lao động được cải thiện tích cực; thị trường lao động
phát triển xu hướng tương đối cân bằng cung – cầu lao động, hạn chế sự mất cân bằng
cụ thể nhu cầu về lao động phổ thông chiếm ( nhu cầu từ 71,76% còn 56,42% so với
tổng nhu cầu). Thị trường lao động quý III/2010 có sự ổn định hơn so với 2 quý đầu
năm, nguồn cung và nguồn cầu đáp ứng được 80%; nhu cầu tuyển dụng lao động phổ
thông đã giảm hẳn so với các quý trước (40% so với tổng nhu cầu). Các doanh nghiệp
tăng cường việc tuyển dụng nhân sự có trình độ chuyên môn cao, lao động có tay nghề

và nhu cầu việc làm thời vụ, việc làm bán thời gian trong lĩnh vực gia công sản xuất,
chế biến và dịch vụ - phục vụ.
Đồng thời năm 2010 các hoạt động hỗ trợ thị trường lao động phát triển đa
dạng với nhiều hoạt động trực tiếp và truyền thông như sàn giao dịch việc làm, ngày
hội nghề nghiệp, thông tin thị trường lao động, dự báo nhu cầu nhân lực, tư vấn hướng
nghiệp; các trường dạy nghề tăng cường hoạt động đào tạo theo nhu cầu xã hội tạo
gắn kết nghề nghiệp – việc làm. Hình thức tuyển dụng lao động trên hệ thống điện tử,
trực tuyến phát triển mạnh cùng với các chính sách của doanh nghiệp về tuyển dụng
linh hoạt, cụ thể thông tin chính sách sử dụng lao động đã hỗ trợ sinh viên – học sinh,
người lao động tìm việc thuận lợi hơn
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 10
2.3.2. Phân Tích Cầu Lao Động
Những ngành nghề có nhu cầu tuyển dụng nhiều nhất trong năm 2010 là Dệt
may, Marketing - Nhân viên Kinh doanh (11,07%), Giày da (10,53%), Nhựa – Bao bì
(10,52%), Dịch vụ và phục vụ (9,04%), Điện tử - Viễn thông (5,96%), Bán hàng
(5,24%), Cơ khí - Luyện kim (5,00%), Giao thông – Vận tải (3,83%), Kế toán - Kiểm
toán (3,28%), Mộc - Mỹ nghệ - Trang trí nội thất (2,67%), Công nghệ thông tin
(2,44%)… Những ngành này đa số là những ngành thâm dụng lao động đặc biệt tập
trung tại các KCX - KCN.
Thực hiện chương trình việc làm thành phố, trong 11 tháng đã tổ chức giới
thiệu và giải quyết việc làm được 271.061 lao động 100,39% kế hoạch, trong đó
120.641 chỗ làm việc mới. Ước năm 2010 giải quyết việc làm được trên 275.000 lao
động.
Hình 2.1. Những ngành nghề có nhu cầu tuyển dụng nhiều nhất năm 2010
Trong tổng số người được giải quyết việc làm, tại các khu chế xuất – công
nghiệp thành phố Hồ Chí Minh đã thu hút lao động trong năm 2010 trên 30.000 lao
động, trong đó Dệt may 71.827 lao động (28%), Da giày 47.126 lao động (18,66%) ,
Điện – điện tử 44.200 lao động (10%), Cơ khí 20.535 lao động (9%), Dịch vụ 6.088
lao động (9%), Bao bì 6.126 lao động (8.5%), Chế biến thực phẩm 8.856 lao động
(8%), Nhựa 12.847 lao động (8%), Hóa chất 5.820 lao động (5%), Thủ công mỹ nghệ

12.513 lao động (1.5%), Khác 16.630 lao động (9%).
Bảng 2.1 Cơ cấu sử dụng lao động về trình độ tại KCX-KCN
Trình độ học vấn Năm 2010 (%)
Tiểu học 4,97%
THCS 44,15%
THPT 35,24%
Trung học CN 8,9%
Cao đẳng 2,84%
Đại học 3,87%
Trên đại học 0,03%
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 11
Cộng 100%
Diễn biến nhu cầu nhân lực tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy trong 06 tháng
đầu năm 2010 là thời điểm kinh tế phục hồi phát triển sau thời gian doanh nghiệp cắt
giảm nhiều lao động trong năm 2009, cũng là thời điểm vào dịp Lễ, Tết do đó sau Tết
nhu cầu của các doanh nghiệp tập trung nhiều vào nguồn lao động phổ thông cho các
hoạt động sản xuất, dịch vụ thời vụ rất lớn đặc biệt những ngành nghề như Dệt may –
Giày da (12,08%), Nhựa – Bao bì (19,49%) và đa số là tuyển lao động phổ thông.
Đồng thời các nhóm ngành nghề Marketing - Nhân viên Kinh doanh (7,81%), Điện tử
- viễn thông (7,90%), Dịch vụ - Phục vụ (7,74%), Cơ khí – Luyện kim (4,45%), Bán
hàng (4,69%), Giao thông – Vận tải – Thủy lợi (3,82%) là các nhóm ngành nghề cần
nhiều lao động có trình độ và tay nghề. Vì vậy sự thiếu hụt lao động phổ thông đã diễn
ra ở quý I. Mặt khác, nguồn lao động phổ thông phần lớn từ các địa phương khác đến,
nguồn lao động phổ thông của thành phố phụ thuộc lớn vào lực lượng lao động này,
sau những ngày lễ tết họ thường ở lại quê rất lâu và một số ở lại luôn cho nên tình
trạng thiếu hụt lao động vẫn tiếp tục diễn ra ở tháng đầu của quý II. Cùng với thực tế
chung thị trường lao động 06 tháng đầu năm, vấn đề tiền lương, thu nhập của người
lao động tại các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực gia công, sản
xuất thấp hơn nhiều so với nhu cầu cuộc sống của người lao động; dẫn đến sự thiếu
hụt lao động khá căng thẳng, tạo ra sự dịch chuyển lao động; thiếu hụt cao hơn các

năm trước
Trong 06 tháng cuối năm thị trường lao động thay đổi với chiều hướng tích
cực, các doanh nghiệp thiếu lao động phổ thông đã cải thiện chính sách tổ chức sản
xuất kinh doanh, tiền lương và nhiều chính sách phúc lợi vì vậy nhu cầu lao động phổ
thông giảm dần thay vào đó là nhu cầu về nguồn lao động có tay nghề và có trình độ
cao. Những ngành nghề có nhu cầu tuyển dụng cao vẫn là những ngành nghề của 06
tháng đầu năm nhưng với yêu cầu về tay nghề và trình độ chuyên môn cao hơn.
Hình 2.2 So sánh nhu cầu tuyển dụng năm 2010
Về cơ cấu trình độ chuyên môn, năm 2010 nhu cầu tuyển dụng lao động phổ
thông chiếm tỷ lệ cao (56,41%) trong tổng nhu cầu tuyển dụng, một số ngành nghề
như Dệt may, Nhựa, Bao bì, Mộc - Mỹ nghệ - Trang trí nội thất, Điện tử - viễn thông,
Điện tử - viễn thông, Cơ khí – Luyện Kim, Dịch vụ - phục vụ, Bán hàng, Marketing -
Nhân viên Kinh doanh… Lao động có trình độ cao đẳng - đại học chiếm (19,08%) chủ
yếu là những ngành nghề Công nghệ thông tin, Xây dựng – Kiến trúc, Quản lý kinh
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 12
doanh, Quản lý nhân sự, Kiểm toán, Kế toán, Marketing – Nhân viên kinh doanh, Bán
hàng. Còn lại lao động từ Sơ cấp nghề đến Trung cấp chiếm (24,51%) bao gồm những
ngành nghề Cơ khí - Luyện kim, Điện - Điện công nghiệp - Điện lạnh, Marketing -
Nhân viên Kinh doanh, Bán hàng, Dịch vụ và phục vụ, Tư vấn - Bảo hiểm, Giao
thông-Vận tải-Thủy lợi, Dệt - May - Giày da…
Hình 2.3 Chỉ số nhu cầu theo trình độ chuyên môn năm 2010:
2.3.3. Phân Tích Nguồn Cung Nhân Lực
Năm 2010, nguồn cung nhân lực cũng diễn biến những nghịch lý, khi nguồn lao
động phổ thông thiếu thì nguồn lao động có trình độ từ trung cấp, cao đẳng, đại học
trong một số ngành nghề lại chưa đáp ứng số lượng, chất lượng so với nguồn cầu như:
Quản lý điều hành, Tin học, Kế toán, Quản lý nhân sự - Hành chánh văn phòng, Tài
chính - Ngân hàng, Kho bãi - Vật tư - Xuất nhập khẩu. Do đó vẫn có hiện tượng thừa
lao động có trình độ nhưng chưa đáp ứng yêu cầu tuyển dụng và làm việc của doanh
nghiệp (chưa toàn diện về kỹ năng chuyên môn, kỹ năng nghề, kỹ năng mềm, kỹ năng
quản lý, ngoại ngữ).

Mặt khác những ngành nghề thường xuyên thiếu lao động kể cả lao động phổ
thông như Điện tử - Viễn thông, Cơ khí - Luyện kim, Giao thông - Vận tải - Thủy lợi,
Dệt - May - Giày da, Nhựa - Bao bì, Mộc - Mỹ nghệ - Trang trí nội thất.
Những vấn đề trên cho thấy thị trường lao động vẫn tiếp tục mất cân đối giữa đào
tạo và việc làm đặc biệt là kỹ năng nghề.
Năm 2010 là thời điểm diễn ra sự dịch chuyển lao động khá lớn (trên 30%),
phần lớn lao động có nhu cầu tìm việc tại các sàn giao dịch việc làm, các phương tiện
truyền thông, mạng việc làm, các trung tâm giới thiệu việc làm là những lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật và có tay nghề,trên 50% người tìm việc làm có kinh
nghiệm từ 1 năm trở lên và mức lương mong muốn trên 5 triệu đồng/tháng, vì vậy tạo
ra sự cạnh tranh gay gắt giữa những người tìm việc làm có trình độ chuyên môn. Đối
với lao động phổ thông, sơ cấp nghề nhu cầu tìm việc làm cũng mong muốn mức
lương trên 02 triệu/tháng – 03 triệu/tháng trở lên, trong khi nhu cầu tuyển dụng lao
động phổ thông, sơ cấp tuy có tăng hơn so với quý I ở mức bình quân chung 1,5 triệu
– 1,8 triệu và đa số vẫn ở mức lương dưới 02 triệu/tháng. Vấn đề nổi bật của thị
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 13
trường lao động là sự lựa chọn của người lao động về việc đi lại, cư trú trong quá trình
làm việc, đặc biệt đối với người từ các tỉnh thành phố khác đến.
Hình 2.4 Những ngành nghề có chỉ số cung cao nhất năm 2010



Hình 2.5 Chỉ số nguồn cung theo trình độ năm 2010
2.3.4. Dự Báo Nhu Cầu Nhân Lực Năm 2011
Theo định hướng phát triển kinh tế xã hội của thành phố giai đoạn 2011-2015,
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 14
kế hoạch GDP của thành phố tăng từ 12% trở lên vào năm 2011, cùng với sự phát triển
kinh tế - xã hội, tất nhiên nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp cũng tăng lên đáp
ứng cho nhu cầu phát triển, mở rộng sản xuất, kinh doanh.
Theo chương trình việc làm của thành phố, năm 2011 thành phố Hồ Chí Minh

có nhu cầu trên 265.000 lao động kể cả nhu cầu về lao động thay thế và lao động tuyển
mới (khoảng 120.000 chỗ làm việc mới). Trong đó lao động phổ thông chiếm trên
45%, trình độ đại học, cao đẳng khoảng 20%, lao động có trình độ từ sơ cấp nghề đến
trung cấp chiếm khoảng 35%.
Tổng hợp các nhu cầu tuyển dụng của trên 6.000 doanh nghiệp đã được khảo
sát cho thấy những ngành có nhu cầu tuyển dụng nhiều trong năm 2011 như Cơ khí,
Điện, Điện tử, Dệt may- Giày da, Tài chính – Ngân hàng, Kế toán – Kiểm toán, Chế
biến thực phẩm, Quản lý điều hành, nhân sự, Mộc – Mỹ nghệ, Trang trí nội thất, Xây
dựng – Kiến trúc Đồng thời những ngành có nhu cầu tuyển dụng nhiều nhân lực
trong năm 2010 như Marketing, dịch vụ, phục vụ, vệ sinh công nghiệp… cũng tiếp tục
phát triển, đặc biệt nhu cầu tăng mạnh đối với công việc giúp việc gia đình, chăm sóc
người già, vệ sinh công nghiệp, phục vụ, bán hàng tiếp tục tăng mạnh nhu cầu nhân
lực.
Những ngành nghề như Dệt may - Giày da, Nhựa – Bao bì, cơ khí, Mộc – Mỹ
nghệ, Trang trí nội thất, xây dựng, Chế biến thực phẩm, Bán hàng, Nhân viên kinh
doanh, Dịch vụ và phục vụ, Tư vấn - Bảo hiểm, sẽ thiếu nguồn lao động phổ thông
nhất là vào quý I năm 2011. Đến quý II trở đi có thể ổn định hơn nhưng vẫn chưa đáp
ứng đủ với nhu cầu chung của thị trường lao động. Mặt khác lao động có tay nghề
cũng mất cân đối nguyên nhân chính vẫn do cơ cấu đào tạo về số lượng, chất lượng
còn hạn chế và sự chênh lệch tiền lương – thu nhập giữa các ngành nghề, các khu vực
kinh tế chưa khắc phục được toàn diện
Một số ngành nghề nguồn cung nhân lực tiếp tục tăng nhanh so nguồn cầu nhân
lực trong năm 2011 như Quản lý điều hành, Kế toán, Hành chánh văn phòng, Kho bãi
- Vật tư - Xuất nhập khẩu, Tin học, Quản trị kinh doanh, sẽ là những ngành mất cân
đối về chất lượng nhân lực trong năm 2011
Trong tổng số nhu cầu tuyển dụng của thành phố, nhu cầu tuyển dụng của KCX
- CN năm 2011 trên 30.000 lao động. Với xu thế chuyển dịch cơ cấu đầu tư, chú trọng
các ngành nghề có hàm lượng chất xám, kỹ thuật công nghệ cao, gia tăng các ngành
dịch vụ, hạn chế ngành nghề thâm dụng lao động. Dự kiến nhu cầu lao động theo một
số ngành nghề như sau:

Bảng 2.2: Dự kiếm nhu cầu lao động theo ngành nghế năm 2011
STT Ngành nghề Tỷ lệ (%)
01 Điện, điện tử 18%
02 Dệt may 18%
03 Dịch vụ 16%
04 Cơ khí 13%
05 Chế biến thực phẩm, Hải sản 8%
06 Công nghệ thông tin 5%
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 15
07 Mộc, Bao bì 4%
08 Hóa, Dược 3%
09 Khác 15%
Tổng cộng 100.000
Bảng 2.3: Xu hướng nhu cầu ngành nghề năm 2011
Ngành thu hút nhiều lao động Cơ cấu nhu cầu (%)
SX - Chế biến lương thực, thực phẩm 2,86
Hóa - Hóa chất 1,19
Công nghệ thông tin 2,44
Điện tử - viễn thông 5,96
Cơ khí - Luyện kim 5,50
Xây dựng - Kiến trúc 1,86
Điện - Điện công nghiệp - Điện lạnh 2,27
Công nghệ ô tô, xe máy 1,78
Quản lý điều hành 1,35
Tài chính - Ngân hàng 1,51
Đầu tư - Bất động sản - Chứng khoán 1,60
Kế toán - Kiểm toán 3,28
Marketing - Nhân viên Kinh doanh 11,07
Bán hàng 5,24
Du lịch - Giải trí 1,20

Nhà hàng - Khách sạn 1,50
Dịch vụ và phục vụ 9,04
Tư vấn - Bảo hiểm 1,16
Luật - Pháp lý 0,72
Quản lý nhân sự - Hành chánh văn phòng 2,00
Giáo dục – Đào tạo - Thư viện 1,08
Đồ họa - In ấn - Xuất bản 1,70
Giao thông - Vận tải - Thủy lợi 3,83
Dầu khí - Địa chất 0,51
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 16
Môi trường - Xử lý chất thải 1,30
Kho bãi – Vật tư - Xuất nhập khẩu 1,74
Nông nghiệp - Lâm nghiệp - Thủy sản 1,75
Y tế - Chăm sóc sức khỏe 1,96
Dược - Công nghệ sinh học 1,01
Dệt - May - Giày da 10,50
Nhựa - Bao bì 4,00
Mộc - Mỹ nghệ - Trang trí nội thất 2,67
Ngành nghề khác 6,00
Tổng nhu cầu tuyển dụng : ~ 265.000 lượt. Trong đó 120.000 chỗ làm việc mới
Với nhu cầu trên, có thể nhận định 10 nhóm ngành nghề sẽ có nhu cầu cao
trong năm 2011 tại thành phố:

Bảng 2.4 Dự báo nhóm ngành nghề có nhu cầu cao trong năm 2011
STT Ngành thu hút nhiều lao động
Cơ cấu nhu
cầu (%)
Số chỗ làm việc
(người)
01 Marketing – Nhân viên kinh doanh – Bán hàng 16,31 43.221

02 Dệt may – Giày da - Nhựa – bao bì 14,50 38.425
03
Dịch vụ - Phục vụ - Du lịch – Khách sạn, Nhà
hàng
11,74 31.111
04 Điện tử - Viễn thông – Công nghệ thông tin 8,40 22.260
05 Cơ khí – Luyện kim – Điện 7,77 20.591
06
Tài chính kế toán – Ngân hàng – Bảo hiểm –
Đầu tư chứng khoán
7,55 20.008
07
Giao thông vận tải – Thủy lợi – Kho bãi – Vật
tư - Xuất nhập khẩu
5,57 14.760
08 Xây dựng – Kiến trúc – Mộc – Mỹ nghệ 5,06 13.409
09 Hóa – Hóa chất – Dược, Công nghệ sinh học 4,53 12.005
10
Quản lý điều hành – Nhân sự - Hành chánh
văn phòng
3,35 8.877
11 Khác 15.22 40.333
2.4 Đánh Giá Khái Quát Về Cung Cầu Lao Động Tại Thành Phố Hồ Chí Minh.
2.4.1 Mặt Được:
Lực lượng lao động vẫn tăng hàng năm, nhưng tốc độ đã dần chậm lại, làm
giảm sức ép về việc làm. Trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của người lao động
đã được nâng lên qua các năm, tạo điều kiện cho sự chuyển dịch cơ cấu lao động, là
chìa khóa để tiếp thu, thích ứng với khoa học, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, là yếu tố
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 17
quan trọng nâng cao năng suất lao động. Sự phát triển mạnh của kinh tế - xã hội và mở

cửa, hội nhập quốc tế cũng tạo điều kiện cho lao động tại TP. Hồ Chí Minh tiếp cận
khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới và khoa học quản lý tiên tiến của thế giới, ứng
dụng vào sản xuất, kinh doanh trong nước.
Tăng trưởng kinh tế cao đã tạo được nhiều việc làm và thu hút thêm hàng triệu
lao động mỗi năm, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt, các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh, nhất là doanh
nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh,
2.4.2. Tồn Tại:
2.4.2.1. Về cung lao động:
Năm 2010, nguồn cung nhân lực cũng diễn biến những nghịch lý, khi nguồn lao
động phổ thông thiếu thì nguồn lao động có trình độ từ trung cấp, cao đẳng, đại học
trong một số ngành nghề lại chưa đáp ứng số lượng, chất lượng so với nguồn cầu như:
Quản lý điều hành, Tin học, Kế toán, Quản lý nhân sự - Hành chánh văn phòng, Tài
chính - Ngân hàng, Kho bãi - Vật tư - Xuất nhập khẩu. Do đó vẫn có hiện tượng thừa
lao động có trình độ nhưng chưa đáp ứng yêu cầu tuyển dụng và làm việc của doanh
nghiệp (chưa toàn diện về kỹ năng chuyên môn, kỹ năng nghề, kỹ năng mềm, kỹ năng
quản lý, ngoại ngữ).
Mặt khác những ngành nghề thường xuyên thiếu lao động kể cả lao động phổ thông
như Điện tử - Viễn thông, Cơ khí - Luyện kim, Giao thông - Vận tải - Thủy lợi, Dệt -
May - Giày da, Nhựa - Bao bì, Mộc - Mỹ nghệ - Trang trí nội thất.
Những vấn đề trên cho thấy thị trường lao động vẫn tiếp tục mất cân đối giữa
đào tạo và việc làm đặc biệt là kỹ năng nghề.
2.4.2.2. Về cầu lao động:
- Phân bố doanh nghiệp, cơ sở sản xuất không đều giữa các vùng, chủ yếu tập
trung ở những khu đô thị lớn, mật độ dân số đông:
- Số doanh nghiệp có quy mô nhỏ là chủ yếu, phân tán và trình độ kỹ thuật công
nghệ thấp .
- Nhiều ngành có khả năng tạo ra giá trị sản xuất cao nhưng tỉ lệ lao động lại ít
như Điện – điện tử 44.200 lao động (10%), Cơ khí 20.535 lao động (9%), Dịch vụ
6.088 lao động (9%), Bao bì 6.126 lao động (8.5%), Chế biến thực phẩm 8.856 lao

động (8%), Nhựa 12.847 lao động (8%), Hóa chất 5.820 lao động (5%), Thủ công mỹ
nghệ 12.513 lao động (1.5%).
2.4.2.3. Cân đối cung – cầu lao động
Nhìn tổng thể thị trường lao động TP Hồ Chí Minh vẫn là một thị trường dư
thừa lao động và phát triển không đồng đều; đặc biệt quan hệ cung – cầu lao động giữa
các vùng, khu vực, ngành nghề kinh tế đang diễn ra tình trạng mất cân đối nghiêm
trọng. Trong khi dư thừa lao động không có kỹ năng và thiếu nhiều lao động kỹ thuật
thì hiện nay nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động,
không chỉ là lao động qua đào tạo mà còn khó tuyển cả lao động phổ thông.
Ngoài ra, một khảo sát mới đây cho thấy mức lương của nhà tuyển dụng hiện
nay trả thấp hơn từ 30 – 40% so với yêu cầu người lao động. Thực tế trên 50% số
người lao động có trình độ đại học, có một năm kinh nghiệm trở lên, có chuyên môn,
tay nghề đều yêu cầu mức lương là 5 triệu đồng/tháng, nhưng phần lớn các doanh
nghiệp chỉ trả bình quân 3 triệu đồng/tháng.
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 18
Đối với lao động phổ thông, sơ cấp nghề, mức lương mong muốn tìm việc làm
từ 2 - 3 triệu đồng/tháng, trong khi mức lương rao tuyển mà doanh nghiệp đưa ra chỉ
từ 1,5 – 1,8 triệu đồng/tháng. Điều này càng làm cho tình trạng thiếu hụt nhân lực và tỉ
lệ thất nghiệp gia tăng do cung và cầu lao động không thoả mãn được điều kiện của
nhau.
Do đó mới xuất hiện hiện tượng DN kêu thiếu lao động cũng phần vì họ trả
lương cho người lao động quá thấp nên không thể nào tuyển đủ lao động. Ông Trần
Thanh Hải, Phó Chủ tịch Thường trực Liên đoàn Lao động TP, nhìn nhận: “Thị trường
lao động ở TP. HCM đã hình thành từ lâu nhưng vẫn còn tồn tại tình trạng bất bình
đẳng: DN áp đặt “giá mua”, người lao động thụ động chấp nhận “giá bán”. Trong một
thời gian rất dài như thế, giới hạn sức chịu đựng của người lao động bị phá vỡ. Họ
phản ứng bằng cách rời bỏ nhà máy”.
2.4.3. Nguyên nhân mất cân đối cung cầu lao động
- Chuyển dịch cơ cấu lao động chậm: Mặc dù trong những năm qua đã giảm
được tỷ trọng lao động trong nông nghiệp và tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp

và thương mại nhưng tốc độ chuyển dịch còn chậm, chưa tương xứng với sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
- Lao động vừa thiếu vừa thừa: Thiếu những ứng viên thích hợp cho những vị trí
quan trọng dù nguồn nhân lực có nhu cầu tìm việc làm lúc nào cũng thừa, còn nhiều
người phải thất nghiệp luôn tìm kiếm việc làm hoặc mất việc làm do ngành nghề thu
hẹp, doanh nghiệp giải thể, chuyển sang hoạt động sản xuất – kinh doanh khác.
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp. Tỷ lệ lực lượng lao động trong khu
công nghiệp – khu chế xuất TP Hồ Chí Minh có trình độ từ trung học nghề đến đại học
chỉ chiếm chưa tới 30%,…
- Tác phong, kỹ năng lao động còn bất cập. Đa số lao động của Việt Nam xuất
phát từ nông nghiệp, do vậy chưa có sự chuyển đổi tác phong lao động nông nghiệp
sang công nghiệp, chưa được trang bị kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, trách
nhiệm trong công việc. Đồng thời, người lao động xuất thân từ nông thôn thường có
tâm lý làng xã lớn, bị ràng buộc nhiều bởi lệ làng, phong tục tập quán nên ảnh hưởng
không nhỏ đến kỷ luật, tác phong lao động. Điều này được thể hiện rõ nhất tại thời
điểm sau Tết nguyên đán, hàng loạt người lao động không quay trở lại làm việc theo
đúng quy định.
- Tâm lý người lao động: Do điều kiện xã hội phát triển, việc làm phong phú, có
nhiều điều kiện tiếp cận và lựa chọn nên người lao động kén việc, tư tưởng tìm việc
làm không đúng. Bên cạnh đó, không ít tâm lý người lao động “đứng núi này trông núi
nọ” làm cho sự biến động lao động ở các công ty lớn. Do vậy dẫn đến hiện tượng các
doanh nghiệp treo biển đăng tuyển lao động thường xuyên để phòng ngừa sự dịch
chuyển lao động. Đồng thời, hiện nay những công việc ở khu vực phi chính thức như:
xe ôm, hàng rong, buôn bán nhỏ, đang thu hút được rất nhiều lao động phổ thông.
Người lao động rất dễ kiếm việc ở khu vực phi chính thức, vừa có thu nhập tương
đương với ở khu vực chính thức.
- Hiểu biết pháp luật lao động còn hạn chế: 9,5% công nhân lao động chưa biết
về pháp luật lao động, chỉ có 6,3% biết rõ, còn lại là biết qua loa, do đó họ không hiểu
rõ về quyền và trách nhiệm lao động, nên người lao động thường có tác phong, kỷ luật
lao động tự do.

- Doanh nghiệp, cơ sở sản xuất – kinh doanh phát triển nhanh trong những năm
gần đây, nhưng chủ yếu là quy mô nhỏ và siêu nhỏ (dưới 10 lao động và dưới 1 tỷ
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 19
đồng vốn), tập trung vào các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và trong các ngành
thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng, kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn, hoạt động
giáo dục, y tế nên ít quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
- Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh hiện nay chưa chủ động tham
gia vào đào tạo, dạy nghề, chưa đứng ở vai trò là người đặt hàng, đưa ra yêu cầu với
các nhà đào tạo. Do vậy, doanh nghiệp thường bị động trong việc sử dụng lao động đã
qua đào tạo và chủ yếu sử dụng kết quả đào tạo nhân lực của Nhà nước.
- Đa số các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt ở trong các khu
công nghiệp, khu chế xuất, sử dụng số lượng lớn lao động trẻ tuổi từ 18 đến 35 tuổi và
lao động nhập cư. Đây là một khó khăn dẫn đến mất cân đối cung – cầu, vì xã hội càng
phát triển thì nhu cầu học tập càng nhiều, tuổi tham gia hoạt động kinh tế càng cao.
Trong khi đó, tỉ lệ lao động từ độ tuổi trẻ bước vào lực lượng lao động ngày cảng
giảm, do vậy tạo ra sự thiếu hụt lao động trẻ, đặc biệt là lao động phổ thông. Lực
lượng lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất ở thành phố Hồ Chí Minh có tuổi
trung bình từ 18 - 25 tuổi, lao động ngoại tỉnh chiếm trên 60%.
- Áp dụng chính sách tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp cứng nhắc và
chưa phản ánh đúng thực tế của thị trường lao động:
- Cung cấp thông tin về thị trường lao động cho các nhà đầu tư, nhà đào tạo,
người lao động hiện đang là khâu yếu và thiếu, khiến cho các nhà đầu tư, nhà đào tạo
lớn trong và ngoài nước rất khó khăn trong việc lựa chọn ra quyết định đầu tư, cũng
như điều hành phát triển sản xuất.
- Các doanh nghiệp tăng cường sử dụng lao động không thường xuyên: nhân lực
sẽ luôn được đào tạo và tuyển mới để thay thế các vị trí không còn phù hợp; yêu cầu
chính là nguồn nhân lực năng động và đã qua đào tạo.
- Đối với người lao động sự cạnh tranh chỗ làm việc gay gắt hơn, công bằng hơn
và trong môi trường mở rộng toàn xã hội. yêu cầu người lao động phải tự đào tạo nghề
và các kỹ năng để thích nghi với công việc.

- Vấn đề quan tâm nhất của người lao động đặc biệt lực lượng sinh viên, học sinh
là năng lực về ngoại ngữ, khả năng hợp tác, khả năng làm việc trong môi trường đa
văn hóa và tác phong làm việc công nghiệp.
- Hạn chế về công tác quản lý nguồn nhân lực và thành phố vẫn chưa tổ chức
được hệ thống dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động một cách
chính xác. Chính từ việc chưa thực hiện tốt công tác dự báo cụ thể về số lượng ngành
nghề, trình độ, kỹ năng của lực lượng lao động và chưa thực hiện được việc thống kê,
phân tích nhu cầu nhân lực của nhà tuyển dụng nên đào tạo chưa định hướng và chưa
gắn với nhu cầu của thị trường lao động; người lao động tìm việc làm thiếu thông tin
về việc làm, người sử dụng lao động thiếu thông tin về cung – cầu lao động ảnh hưởng
đến đầu tư sản xuất – kinh doanh và phát triển nguồn nhân lực thành phố.
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 20
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
3.1. Giải pháp
Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động là trách nhiệm của
Đảng, các ngành, các địa phương, của xã hội và của bản thân người lao động. Để khắc
phục thực trạng mất cân đối cung – cầu lao động nêu trên là một quá trình và cần có sự
phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, tập trung vào thực hiện một số giải pháp
chủ yếu sau:
3.1.1. Giải pháp về cung lao động
Trong kinh tế thị trường, phát triển cung lao động phải hướng vào đáp ứng cầu
của thị trường lao động, của xã hội và nhu cầu việc làm, tăng thu nhập của người lao
động. Giải pháp có tính chất chiến lược là phát triển mạnh nguồn nhân lực thông qua
giáo dục và đào tạo nghề nghiệp, nhất là hướng nghiệp, dạy nghề, chăm sóc sức
khỏe, cụ thể là:
- Phát triển mạnh nguồn nhân lực có trình độ cao, đủ về số lượng, hợp lý về cơ
cấu ngành nghề, cấp trình độ và có chất lượng để cung cấp cho các ngành kinh tế, đặc
biệt là các ngành kinh tế mũi nhọn, phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập.
- Phát triển nguồn nhân lực thích ứng với thị trường, nhất là phổ cập nghề cho

lao động nông thôn nhằm đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông
nghiệp theo hướng hiện đại và công nghiệp hóa nông thôn, tạo nhiều việc làm, tăng
thu nhập, giảm nghèo vững chắc, đảm bảo an sinh xã hội.
- Tiếp tục giải phóng triệt để sức lao động nhằm phát huy cao nhất tiềm năng và
nguồn vốn nhân lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế; tạo việc làm theo hướng bền
vững và có thu nhập cao; phát triển thị trường lao động đồng đều trên phạm vi cả nước
để gắn kết cung – cầu lao động; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến
bộ; thực hiện công bằng trong quan hệ phân phối tiền lương và thu nhập, phụ thuộc
vào kết quả lao động, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế;
- Khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào chương trình đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực với vai trò là người sử dụng cuối cùng. Kết hợp hài hòa giữa nhà đào
tạo và người sử dụng lao động để hài hòa lợi ích các bên, tránh lãng phí. Tăng cường
liên kết với các doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực với các hình thức đa dạng
như đào tạo nhân lực theo địa chỉ, doanh nghiệp tham gia giảng dạy, tổ chức cho sinh
viên thực tập tại doanh nghiệp Xây dựng chính sách để các doanh nghiệp đóng góp
vào sự nghiệp giáo dục đào tạo, đồng thời tăng cường đầu tư cho giáo dục đại học và
học nghề về đội ngũ giảng viên, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất để nâng cao chất
lượng đào tạo.
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 21
3.1.2. Giải pháp về cầu lao động
- Phát triển cầu lao động là hướng quan trọng, quyết định nhất bảo đảm cân đối
cung – cầu lao động, trong đó biện pháp cơ bản là phát triển doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh, đẩy mạnh cổ phần hóa và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước, đa dạng hóa các loại hình sản xuất kinh doanh trong các
thành phần kinh tế … Nhà nước cần tiếp tục tạo thuận lợi cho thu hút đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài; thúc đẩy quá trình đô thị hóa, tích tụ ruộng đất gắn với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, đặc biệt là trong nông nghiệp, nông
thôn, giảm dần tỷ trọng giá trị nông nghiệp trong GDP và lao động nông nghiệp. Việc
lập quy hoạch phát triển các vùng lãnh thổ phải quan tâm đến phát triển các khu vực
kinh tế trọng điểm, tập trung, các khu công nghiệp, khu chế xuất nhưng trước mắt

cần quan tâm đúng mức đến phát triển tiểu thủ công nghiệp, phát triển các ngành nghề
truyền thống, nghề phụ để sử dụng hợp lý lao động tại chỗ, lao động nông nhàn, lao
động phổ thông
- Để điều tiết thị trường lao động, cải thiện sự mất cân đối cung – cầu lao động
hiện nay cần phải tiếp tục cải cách chính sách tiền lương, tiền công theo định hướng
thị trường, thực hiện chính sách tiền lương gắn với năng suất lao động và thống nhất,
không phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp, thực hiện cơ chế thương
lượng, thỏa thuận về tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp theo đúng nguyên tắc
của thị trường… Đồng thời, cần nghiên cứu chính sách hỗ trợ tiền lương cho đối tượng
yếu thế với sự tham gia tích cực của doanh nghiệp, nhất là khi chỉ số giá sinh hoạt tăng
cao.
3.1.3. Giải pháp kết nối cung – cầu lao động
- Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, dự báo xu hướng việc làm,
nhu cầu của người sử dụng lao động, chi phí đào tạo, tỷ lệ hoàn trả của đào tạo, …
Đồng thời cung cấp đầy đủ các thông tin về dự báo kinh tế, triển vọng đầu tư, các dự
án phát triển, trên cơ sở đó các doanh nghiệp sẽ dự báo dự kiến phát triển kinh tế, nhu
cầu nguồn nhân lực và chủ động xây dựng các kế hoạch nhân lực của mình. Đặc biệt
cần đầu tư công tác thống kê, phân tích dữ liệu thông tin thị trường lao động ở các
tỉnh, thành phố và thiết lập hệ thống thông tin giữa các tỉnh nhằm cung cấp, điều phối
lao động.
- Đưa các chương trình, ví dụ như “Chương trình thị trường lao động” tới gần
với người dân, giúp đỡ để người lao động có được những thông tin, kỹ năng cần thiết
về nghề nghiệp và những hiểu biết cần thiết khi tìm việc làm. Kết hợp với doanh
nghiệp tổ chức tuyển và đào tạo cấp tốc những kiến thức cơ bản cho người lao động
nông thôn để cung cấp kịp thời cho các doanh nghiệp cần tuyển lao động.
3.2. Kiến nghị
- Hoàn chỉnh các quy định của pháp luật để quy định các doanh nghiệp, nhất là
các tập đoàn, tổng công ty lớn khi đầu tư các dự án lớn phải báo cáo về công nghệ, quy
mô, thời điểm đầu tư, đi vào sản xuất và dự kiến về nhu cầu nhân lực, kế hoạch chuẩn
bị nguồn nhân lực với địa phương trước khi đầu tư. Đồng thời có trách nhiệm trong

đào tạo chuẩn bị nguồn nhân lực.
- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật lao động, khuyến
khích các địa phương, doanh nghiệp có chính sách thu hút, sử dụng lao động phù hợp
(ví dụ: nhà ở cho công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất; hỗ trợ lao động ngoại tỉnh
hòa nhập môi trường sống mới…) để người lao động yên tâm gắn bó làm việc trong
tỉnh và doanh nghiệp.
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 22
- Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu xã hội, gắn đào tạo nghề
với việc làm. Đặc biệt, đẩy nhanh việc xã hội hóa công tác dạy nghề, tạo điều kiện
khuyến khích doanh nghiệp tuyển dụng và đào tạo nghề cho người lao động. Cần rà
soát, quy hoạch hệ thống các trung tâm giới thiệu việc làm, nâng cao tính chuyên
nghiệp, phát triển mạng lưới giới thiệu việc làm xuống tận thôn bản, có thể áp dụng
theo 4 cấp hành chính từ trung ương đến phường, xã. Tăng cường kết nối để tuyển lao
động qua các kênh khác nhau như qua các website về việc làm, báo chí, truyền hình…
− Thực hiện chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
với chính sách ưu đãi như vay vốn với lãi suất thấp, miễn thuế nhằm tạo ra việc làm.
− Cải cách hệ thống trả công lao động theo hướng thị trường. Các doanh nghiệp
cần phải thay đổi nhận thức để thích nghi với môi trường lao động và xu thế phát triển
của xã hội. Để thu hút nguồn nhân lực, các DN cần cải thiện chế độ lương, thưởng,
hậu đãi nơi ăn, ở, vui chơi giải trí, du lịch… cho phù hợp hơn với tình hình hiện nay.
Giải pháp nữa là dùng biện pháp kinh tế kết hợp với xây dựng văn hóa doanh nghiệp
để giữ chân lao động, chế độ nâng lương, phụ cấp ăn, ở, nhiều doanh nghiệp đã hướng
đến cải thiện điều kiện làm việc, đặc biệt là không khí làm việc, để người lao động
nhận thấy họ được trọng dụng.
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 23
PHẦN: KẾT LUẬN
Thị trường lao động là nơi lao động có nhu cầu tìm việc làm và người có nhu cầu
sử dụng lao động trao đổi với nhau, mua bán dịch vụ lao động thông qua các hình thức
giá cả và các điều kiện thỏa thuận khác trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn
bản hoặc bằng miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thỏa thuận khác

Thị trường lao động được công nhận về mặt pháp luật và đang trong quá trình
hình thành, phát triển, sức lao động trở thành một loại hàng hóa. Người lao động được
tự do tìm việc làm và người sử dụng lao động được quyền thuê mướn lao động. Thị
trường lao động nước ta đang từng bước có mối liên hệ hội nhập với thị trường lao
động khu vực và quốc tế, tạo thêm khả năng tăng cầu về lao động và nâng cao thu
nhập cho người lao động.
Với kinh tế thị trường hiện nay thì vấn đề cung cầu lao động đang là một vấn đề
bức xúc cấp thiết cần phải có những biện pháp giải quyết một cách triệt để. Nước ta
đang trong thời kỳ hội nhập, cộng với tiến trình phát triển tất yếu của đất nước, điều
này sẽ kích sự di chuyển lao động giữa các vùng miền, địa phương, các cơ sở sản xuất,
các doanh nghiệp thậm chí là giữa các khu vực. Đó chính là một trong những lý do
gây ra việc cung – cầu lao động giữa những vùng miền, khu vực mất cân bằng. Đây là
một vấn đề thực sự cần thiết phải có những giải pháp hiệu quả và thiết thực để giải
quyết. Và thực trạng ấy cũng chính là thực trạng mà thành phố Hồ Chi Minh hiện
đang mắc phải. Do đó, việc phân tích thực trạng cung cầu và đưa ra giải pháp khắc
phục sự mất cân đối cung cầu và giải pháp phát triển thị trường lao động của thành
phố Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết hiện nay, đặc biệt là trong bối cảnh thị trường
lao động nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào thị trường lao động quốc tế.
Qua tìm hiểu tình hình dựa trên kết quả nghiên cứu phân tích thị trường lao
động của thành phố Hố Chí Minh cho thấy trong mấy năm gần nhìn chung thực trạng
thị trường lao động nhìn chung đã có nhiều đổi mới theo hướng tích cực, thu nhập của
người lao động đã đáp ứng được phần lớn các mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, ta thấy được
thực trạng cung cầu lao động thành phố hiện nay đang mất cân đối nghiêm trọng, cung
không đủ cầu. Các giải pháp em đưa ra đứng trên quan điểm kinh tế - xã hội nhằm
giúp thị trường lao động thành phố phát triển hoàn thiện hơn. Do kiến thức vẫn còn
hạn chế nên đây cũng chỉ là những góp ý của cá nhân em nên chắc chắn còn nhiều
thiếu sót. Vì thế chúng em rất mong được thầy và các bạn đóng góp ý kiến, để bài Tiểu
luận được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 24

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS, TS. Nguyễn Tiệp (2008), Giáo trình Thị Trường lao động, Nhà xuất bản Lao
động - Xã hội, Hà Nội.
2. TS. Văn Bưu, (2002), Giáo trình hiệu quả quản lý dự án Nhà nước - Chủ biên, Nhà
xuất bản khoa học kỹ thuật – Hà Nội.
3. PGS.TS Nguyễn Ngọc Tuân và TH.S Nguyễn Vân Điềm, (2004), Giáo trình quản
trị nhân lực - Chủ biên, Nhà xuất bản lao động xã hội – Hà Nội.
4. Trung Tâm Dự Báo Nhu Cầu Nhân Lực và Thông Tin Thị Trường Lao Động
TPHCM, Báo cáo Phân tích thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh Năm 2010
và dự báo nhu cầu nhân lực năm 2011, ngày 12/12/2010
5. Trang Web:
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 25

×