Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý đấu thầu, áp dụng cho Ban quản lý dự án sông Tích Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 94 trang )

LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian thu thập tài liệu, nghiên cứu và thực hiện, đến nay luận
văn thạc sỹ quản lý xây dựng ”Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng
công tác quản lý đấu thầu, áp dụng cho Ban quản lý dự án sông Tích Hà Nội” đã
hoàn thành đúng thời hạn và đảm bảo các yêu cầu đề ra trong đề cương được
duyệt.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, tác giả đã nhận được sự
hướng dẫn tận tình của thầy giáo GS.TS. Vũ Thanh Te cùng các góp ý về chuyên
môn của các thầy cô trong khoa Công trình - Trường đại học thủy lợi và sự ủng hộ
của lãnh đạo và các đồng nghiệp tại Ban quản lý dự án sông Tích Hà Nội.
Tác giả bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Trường Đại học Thuỷ lợi đã đào
tạo và quan tâm tạo mọi điều kiện cho tác giả trong quá trình học tập và thực hiện
luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn thầy Vũ Thanh Te đã trực tiếp tận tình hướng
dẫn cũng như cung cấp tài liệu cần thiết cho tác giả hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo, Cán bộ công nhân viên Ban quản
lý dự án sông Tích Hà Nội đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tác giả trong
suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn này.
Do năng lực, kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu còn hạn chế, luận văn khó
tránh khỏi thiếu sót, tác giả mong nhận được những ý kiến góp ý của quý độc giả.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2014
Tác giả luận văn



Nguyễn Quang Thịnh

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan nội dung luận văn này là sản phẩm do tôi nghiên cứu và
thực hiện. Các số liệu và kết quả trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa
được ai công bố trước đây. Tất cả các trích dẫn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2014
Tác giả luận văn


Nguyễn Quang Thịnh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu 1
2. Mục đích nghiên cứu: 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài 3
4. Phương pháp nghiên cứu: 3
5. Nội dung nghiên cứu: 3
6. Kết quả dự kiến đạt được: 3
7. Nội dung của Luận văn: 4
CHƯƠNG I :TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC ĐẤU THẦU VÀ QUẢN LÝ ĐẤU
THẦU XÂY DỰNG 5
1.1. Công tác đấu thầu và quản lý đấu thầu trên thế giới. 5
1.1.1. Quản lý đấu thầu của Ba Lan 5
1.1.2. Quản lý đấu thầu của Hàn Quốc 6
1.1.3. Quản lý đấu thầu của Ngân hàng thế giới (WB). 7
1.1.4. Quản lý đấu thầu của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). 9
1.2. Công tác đấu thầu và quản lý đấu thầu tại Việt Nam. 10
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển công tác đấu thầu 10
1.2.2. Thực trạng công tác đấu thầu của Việt Nam trong những năm qua 13

1.3. Những tồn tại trong quản lý đấu thầu. 16
1.3.1. Tồn tại của hệ thống văn bản pháp lý về đấu thầu 16
1.3.2. Tồn tại trong quá trình thực hiện công tác đấu thầu 20
1.4. Kết luận chương 1 26
CHƯƠNG II :MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ ĐẤU THẦU
XÂY DỰNG 29
2.1. Khái niệm về đấu thầu, hình thức đấu thầu xây dựng 29
2.1.1. Khái niệm về đấu thầu 29
2.1.2. Các hình thức lựa chọn nhà thầu 31
2.2. Đặc điểm và yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng quản lý đấu thầu. 32

2.2.1. Khái niệm về quản lý đấu thầu 32
2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng quản lý đấu thầu 34
2.3. Phân tích các điểm mới của Luật đấu thầu 2013 37
2.4. Phân tích các ưu nhược điểm của các hình thức đấu thầu 39
2.5. Vai trò của Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án trong quản lý chất lượng đấu thầu 41
2.6. Kết luận chương 2 42
CHƯƠNG III : ĐỀ XUẤT MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẤU THẦU TẠI BAN QUẢN LÝ DỰ ÁN
SÔNG TÍCH HÀ NỘI 44
3.1. Giới thiệu về Dự án Tiếp nước, cải tạo khôi phục sông Tích từ Lương Phú, xã
Thuần Mỹ, huyện Ba Vì và Ban quản lý dự án sông Tích Hà Nội. 44
3.1.1. Giới thiệu về dự án. 44
3.1.2. Ban Quản lý dự án sông Tích Hà Nội 49
3.1.3. Tóm tắt quá trình triển khai dự án 50
3.2. Quá trình thực hiện công tác quản lý đấu thầu của dự án 53
3.2.1. Thực hiện công tác đấu thầu và quản lý đấu thầu của dự án. 53
3.2.2. Phân tích quá trình thực hiện một số gói thầu điển hình của dự án. 57
3.2.3. Quy trình thực hiện công tác đấu thầu tại Ban QLDA. 65
3.3. Những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý đấu

thầu của dự án 66
3.3.1. Những kết quả đạt được. 66
3.3.2. Một số hạn chế, tồn tại trong quá trình thực hiện công tác đấu thầu đối với các
gói thầu thuộc dự án sông Tích. 69
3.4. Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý đấu thầu
đối với dự án Tiếp nước, cải tạo khôi phục sông Tích 71
3.4.1. Đào tạo, cập nhật thường xuyên kiến thức về đấu thầu cho cán bộ Ban quản
lý dự án. 71
3.4.2. Ban QLDA thuê Tổ chuyên gia xét thầu chuyên nghiệp hoặc thêm chuyên gia
tham gia cùng Tổ chuyên gia xét thầu của ban QLDA 72

3.4.3. Tăng cường áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi 73
3.4.4. Sử dụng hình thức đấu thầu qua hệ thống mạng đấu thầu quốc gia 74
3.4.5. Tăng cường công tác quản lý sau đấu thầu 75
3.4.6. Tăng cường công tác quản lý vốn của nhà thầu sau đấu thầu 76
3.4.7. Quản lý nhân lực, máy móc thiết bị, biện pháp tổ chức thi công 77
3.4.8. Tập huấn, phổ biến triển khai Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 78
3.4.9. Đề xuất các bước xét thầu và lượng hóa chỉ tiêu xét thầu 78
3.4.10. Xây dựng quy trình cụ thể cho công tác đấu thầu gói thầu tư vấn và thi công
xây lắp 79
3.5. Kết luận chương 3 84
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 85
1. KẾT LUẬN 85
2. KIẾN NGHỊ 86



DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
HÌNH 3.1. PHỐI CẢNH CỤM CÔNG TRÌNH ĐẦU MỐI 49


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
BẢNG 1.1: KẾT QUẢ ĐẤU THẦU THEO ĐÁNH GIÁ CHUNG 14
Bảng 1.2: Kết quả đấu thầu theo hình thức đấu thầu 14
Bảng 3.1: Tổng hợp các chỉ tiêu kỹ thuật chủ yếu 45
Bảng 3.2: Tổng hợp khối lượng chính 52
Bảng 3.3: Bảng kế hoạch vốn và kết quả giải ngân 53
Bảng 3.4: Các gói thầu đã hoàn thành 54
Bảng 3.5: Các gói thầu đang triển khai thực hiện 56
Bảng 3.6: Các gói thầu chưa triển khai thực hiện 57
Bảng 3.7: Đánh giá điều kiện tiên quyết. 58
Bảng 3.8: Đánh giá hồ sơ đề xuất về mặt kỹ thuật. 58
Bảng 3.9: Đánh giá hồ sơ dự thầu thông qua giá bỏ thầu. 59
Bảng 3.10: Đánh giá điều kiện tiên quyết. 60
Bảng 3.11: Đánh giá hồ sơ đề xuất về mặt kỹ thuật. 61
Bảng 3.12: Đánh giá hồ sơ dự thầu thông qua giá bỏ thầu. 61
Bảng 3.13: Đánh giá điều kiện tiên quyết. 62
Bảng 3.14: Đánh giá hồ sơ đề xuất về mặt kỹ thuật. 62
Bảng 3.15: Đánh giá hồ sơ dự thầu thông qua giá bỏ thầu 62
Bảng 3.16: Tổng hợp đánh giá 63
Bảng 3.17: Đánh giá chi tiết các hồ sơ dự thầu 64
Bảng 3.18: Kết quả đánh giá các nhà thầu. 65
Bảng 4.1: Lượng hóa các chỉ tiêu xét thầu và công thức tính toán 79
Bảng 4.2: Các gia quyền tương đối của mục tiêu xét thầu 79
Bảng 4.3: Bảng tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật gói thầu tư vấn 81
Bảng 4.4: Bảng tiêu chuẩn đánh giá nhà thầu xây lắp. 82

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á
CP Chính Phủ

TTg Thủ tướng
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
Bộ KH-DT Bộ Kế hoạch-Đầu tư
EPC Gói thầu Thiết kế, Mua sắm và xây dựng
QĐ Quyết định
NĐ-CP Nghị định Chính phủ
TT-BKH Thông tư-Bộ Kế hoạch
TT-BXD Thông tư-Bộ Xây dựng
UBND Ủy ban Nhân dân
GPMB Giải phóng mặt bằng
HSMT Hồ sơ mời thầu
HSYC Hồ sơ yêu cầu
HSDT Hồ sơ dự thầu
HSĐX Hồ sơ đề xuất
NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
GS.TS Giáo sư, Tiến sỹ
QH11 Quốc hội khóa 11
QLDA Quản lý dự án
USD Đô la Mỹ
VAT Thuế Giá trị gia tăng
VNĐ Việt Nam đồng
NSNN Ngân sách nhà nước
WB Ngân hàng Thế giới

1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Sông Tích có chiều dài khoảng 110km, bắt nguồn từ huyện Ba Vì, chảy qua
các huyện, thị xã: Ba Vì, Sơn Tây, Phúc Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai và hợp lưu với
sông Bùi (từ Lương Sơn, Hòa Bình) tại ngã ba Tân Trượng thuộc huyện Chương

Mỹ. Sau đó tiếp tục chảy xuống hạ lưu và nhập vào sông Đáy tại ngã ba Ba Thá
thuộc ba huyện Chương Mỹ, Ứng Hòa và Mỹ Đức.
Do diện tích rừng đầu nguồn bị thu hẹp và trên lưu vực sông hình thành
nhiều hồ chứa nước để phục vụ sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt và làm du lịch như
hồ Đồng Mô, Suối Hai, Mèo Gù…, làm cho lòng sông cạn nước, nhất là vào mùa
khô nhiều đoạn trở thành dòng sông chết.
Thấy rõ tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của sông Tích đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương trong lưu vực, đồng thời để thay thế nhiệm vụ của hồ
Đồng Mô - Ngải Sơn, tưới cho 4.000ha đất canh tác (do hồ Đồng Mô – Ngải Sơn
thuộc đề án Quy hoạch tổng thể Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam tại quyết
định 667/QĐ-TTg ngày 21/8/1997). Bộ Nông nghiệp & PTNT đã báo cáo và được
Thủ tướng giao nghiên cứu lập dự án Tiếp nước cho sông Tích, dự án được nghiên
cứu từ những năm 2001-2002.
Trải qua quá trình khảo sát, nghiên cứu, đề xuất ý tưởng và tiếp thu ý kiến
của các chuyên gia và các cơ quan chuyên ngành đã thống nhất chọn phương án tiếp
nước cho sông Tích từ sông Đà tại Lương Phú thuộc xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì.
UBND Tỉnh Hà Tây (cũ) được giao chủ đầu tư trực tiếp nghiên cứu lập và phê
duyệt dự án.
Thực hiện nhiệm vụ được giao, UBND tỉnh Hà Tây đã chỉ đạo các cơ quan
chuyên môn phối hợp với tư vấn thiết kế khảo sát, lập dự án và tại quyết định số
1257/QĐ-UBND ngày 15/5/2008, UBND Tỉnh phê duyệt dự án tiếp nước, cải tạo
khôi phục sông Tích từ Lương Phú, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì.
Sau khi hợp nhất mở rộng địa giới hành chính thủ đô, trên cơ sở định hướng
quy hoạch chung xây dựng thủ đô; định hướng phát triển kinh tế khu vực phía Tây

2
Hà Nội; chiến lược phát triển thủy lợi Việt Nam; Kết luận của Thủ tướng chính phủ
tại buổi làm việc với lãnh đạo thành phố Hà Nội tại thông báo số 08/TB-VPCP ngày
06/01/2009. Để phù hợp với định hướng phát triển chung của thành phố và cơ chế
chính sách trong đầu tư XDCB. UBND Thành phố đã chỉ đạo các cơ quan chức

năng tổ chức thực hiện tính toán, kiểm tra, xác định cụ thể mục tiêu đầu tư, phạm vi,
nhiệm vụ, quy mô của dự án để báo cáo Thành phố phê duyệt. Tại quyết định số
4927/QĐ-UBND ngày 06/10/2010, UBND thành phố Hà Nội phê duyệt dự án đầu
tư Tiếp nước, cải tạo khôi phục sông Tích từ Lương Phú, xã Thuần Mỹ, huyện Ba
Vì với mục tiêu, quy mô chủ yếu như sau:
Mục tiêu: Cấp nước tưới cho 16.000ha đất sản xuất nông nghiệp; cấp nước
phục vụ nhu cầu sinh hoạt; cải tạo môi trường; phòng chống lũ cho lưu vực, phát
triển giao thông, kinh tế xã hội thủ đô Hà Nội.
Quy mô: Xây dựng cụm công trình đầu mối; Đào mới và nạo vét lòng sông, xây
mới đồng bộ hệ thống các công trình thủy lợi, giao thông trên tuyến.
Sở nông nghiệp và PTNT được giao nhiệm vụ chủ đầu tư, đại diện chủ đầu tư
là Ban quản lý dự án sông Tích Hà Nội được thành lập tại quyết định số 2774/QĐ-
UBND ngày 17/6/2011. Thực hiện nhiệm vụ được giao, Ban quản lý dự án sông Tích
Hà Nội đã triển khai các thủ tục đầu tư của dự án, lập kế hoạch đấu thầu và được
thành phố phê duyệt tại quyết định số 1995/QĐ-UBND ngày 29/4/2013 và 2043/QĐ-
UBND ngày 05/4/2013. Đoạn I của Dự án đang thực hiện gồm 27 gói thầu, đến nay
nhiều gói thầu đã hoàn thành. Quá trình thực hiện công tác đấu thầu đã thực hiện
đúng các quy định của nhà nước về đấu thầu xây dựng và đã lựa chọn được những
nhà thầu phù hợp với từng gói thầu của dự án. Tuy nhiên, trong công tác quản lý đấu
thầu tại Ban quản lý dự án vẫn còn nhiều tồn tại, thiếu sót dẫn đến một số nhà thầu
chưa đáp ứng được yêu cầu, làm chậm tiến độ chung của dự án và khó khăn cho công
tác quản lý chất lượng, tiến độ dự án. Để công tác quản lý đấu thầu được tốt hơn với
các gói thầu còn lại thuộc dự án, việc nghiên cứu đề xuất "Một số giải pháp nâng
cao chất lượng công tác quản lý đấu thầu, áp dụng cho Ban quản lý dự án sông
Tích Hà Nội" là hết sức quan trọng và cần thiết.

3
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận và thực trạng triển khai công tác đấu thầu để đề xuất một
số giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý đấu thầu tại Ban quản lý dự án

sông Tích Hà Nội.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đề tài phân tích, đánh giá thực trạng công tác đấu thầu xây dựng tại Ban
quản lý dự án sông Tích; những thành tựu đạt được, những tồn tại hạn chế và những
nhân tố ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động này.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: những quy định và thực trạng đấu thầu ở
Việt Nam, quá trình triển khai công tác quản lý đấu thầu của Ban quản lý dự án
sông Tích Hà Nội đối với dự án Tiếp nước, cải tạo khôi phục sông Tích từ Lương
Phú, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì, TP Hà Nội từ khi bắt đầu thực hiện dự án đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến quản lý đấu
thầu xây dựng.
- Phương pháp điều tra khảo sát; Phương pháp thống kê; Phương pháp phân
tích so sánh.
- Phương pháp phân tích tổng hợp, hệ thống hóa và một số phương pháp kết
hợp khác.
5. Nội dung nghiên cứu:
- Tổng quan về công tác đấu thầu.
- Cơ sở lý luận trong lĩnh vực đấu thầu.
- Thực trạng công tác quản lý đấu thầu tại Ban quản lý dự án sông Tích Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý đấu thầu tại
Ban quản lý dự án sông Tích Hà Nội.
6. Kết quả dự kiến đạt được:
- Đánh giá hiện trạng công tác quản lý đấu thầu tại Ban quản lý dự án sông
Tích Hà Nội đối với dự án Tiếp nước, cải tạo khôi phục sông Tích từ Lương Phú, xã
Thuần Mỹ, huyện Ba Vì, TP Hà Nội từ khi bắt đầu triển khai dự án đến nay.

4
- Một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao chất lượng trong công tác
đấu thầu tại Ban quản lý dự án sông Tích Hà Nội.

7. Nội dung của Luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Kiến nghị, Bố cục Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về công tác đấu thầu và quản lý đấu thầu xây dựng.
Chương 2: Một số vấn đề lý luận chung về đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng.
Chương 3: Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác quản
lý đấu thầu tại Ban quản lý dự án sông Tích Hà Nội.



5
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC ĐẤU THẦU VÀ QUẢN LÝ
ĐẤU THẦU XÂY DỰNG
1.1. Công tác đấu thầu và quản lý đấu thầu trên thế giới.
Công tác quản lý đấu thầu trên thế giới được nghiên cứu ở một số quốc gia,
tổ chức quốc tế thông qua các tài liệu thu thập được về công tác quản lý đấu thầu
đã triển khai thực hiện tại một số quốc gia trên thế giới có điều kiện kinh tế xã hội,
chính trị gần giống với Việt Nam và tại một số tổ chức quốc tế.
1.1.1.

Qu

n lý đ

u th

u c

a Ba Lan
Ba Lan có nền kinh tế và chính trị gần giống với Việt Nam, bởi vậy những
quy định về đấu thầu của Ba Lan rất đáng để xem xét. Tháng 7 năm 1997, Ba Lan

đã ban hành Luật mua sắm công, sửa đổi vào năm 1999 để đáp ứng các yêu cầu
thực tế, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.
- Về quản lý đấu thầu: Cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu cao nhất là
cục mua sắm công trực thuộc chính phủ. Cục mua sắm công có thẩm quyền nghiên
cứu soạn thảo các dự luật và các quy định pháp lý, chịu trách nhiệm xuất bản tờ
báo chuyên đăng tải các thông tin về đấu thầu trong nước có giá trị trên 30.000EU
số lượng xuất bản là 1000 bản/kỳ và có tới 70.000 thông báo mời thầu mỗi năm.
Đây là một trong những hình thức tạo ra sự công khai trong hoạt động đấu thầu của
Ba Lan giúp cho nhà thầu có cơ hội nắm bắt thông tin và cạnh tranh công bằng,
đồng thời cũng giúp hoạt động quản lý đấu thầu được chặt chẽ và hiệu quả.
- Về giải quyết khiếu nại trong đấu thầu: Các biện pháp giải quyết khiếu nại
được quy định trong Luật mua sắm công của Ba Lan. Việc xử lý khiếu nại như sau:
* Mỗi bên (nhà thầu, bên mua và cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu)
được quyền chỉ định 1 trọng tài đại diện cho mình. Trọng tài được chỉ định phải
thuộc danh sách trọng tài được Chính phủ cấp chứng chỉ hành nghề trọng tài.
* Người khiếu nại phải nộp một khoản tiền khoản 700 USD để chi cho hoạt
động của tổ trọng tài gồm 3 thành viên nêu trên.

6
* Trong vòng 2 tuần, tổ trọng tài sẽ quyết định phần thắng thuộc về ai. Nếu
nhà thầu khiếu nại đúng thì bên mua phải đền bù chi phí mà người này đã bỏ ra còn
nếu nhà thầu khiếu nại sai thì sẽ mất khoản tiền đã nộp đó.
Những trọng tài này bình thường là các cán bộ, công nhân viên, họ chỉ làm
trọng tài phân xử khi được chỉ định.
- Về đào tạo cán bộ làm công tác đấu thầu
Bên cạnh công tác đào tạo của cục mua sắm công, Ba Lan còn có một hệ
thống đào tạo về đấu thầu, đó là các trung tâm, các trường đào tạo về đấu thầu bao
gồm các cơ sở của khu vực tư nhân. Với sự quan tâm tới công tác đào tạo cán bộ
đấu thầu của Nhà nước, hầu hết các cán bộ làm công tác đấu thầu đều có kiến thức
sâu sắc về chuyên ngành. Chính điều này đã giúp cho việc quản lý hoạt động đấu

thầu ở Ba Lan đạt được những thành tựu đáng kể.
1.1.2.

Quản lý đấu thầu của Hàn Quốc
Những quy định về đấu thầu của Hàn Quốc được tập hợp, ban hành trong
Luật hợp đồng mà trong đó Nhà nước là một bên tham gia. Tổng thống, Thủ tướng
Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện, Bộ Kinh tế và Bộ Tài chính
có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện chi tiết.
Nội dung của Luật hợp đồng này - có thể coi là Luật quy định về đấu thầu
giống như các quốc gia khác - đưa ra những quy định về đấu thầu như: đề cao tính
cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Điều khác biệt trong Luật Đấu thầu ở Hàn Quốc là hệ thống mua sắm tập
trung. Cơ quan chuyên môn tổ chức các cuộc đấu thầu của Hàn Quốc là Supply
Administration of the Republic Of Korea (SAROK) có nhiệm vụ tổ chức các cuộc
mua sắm lớn đến hàng chục tỷ USD mỗi năm. SAROK là cơ quan chuyên nghiệp
trong mua sắm các dự án lớn của Chính phủ. Những cuộc mua sắm với giá trị nhỏ
được phân cấp cho các cơ quan có thẩm quyền ngoài SAROK.
Hàng năm, Chính phủ Hàn Quốc dành một khoản ngân sách nhất định cho
SAROK nhằm nâng cao năng lực tổ chức đấu thầu và hình thành một trung tâm
kiểm tra chất lượng các hợp đồng sau khi đấu thầu. Nhờ hoạt động này, chất lượng

7
hàng sau đấu thầu được đảm bảo tránh tình trạng nhà thầu không thực hiện đúng
cam kết đưa ra khi trúng thầu.
Nhìn chung, sự chuyên môn hoá là nhân tố quan trọng tạo nên hiệu quả của
hoạt động đấu thầu tại Hàn Quốc.
1.1.3.

Quản lý đấu thầu của Ngân hàng thế giới (WB).
Ngân hàng thế giới là một tổ chức tài trợ quốc tế rất có uy tín với 185 quốc

gia thành viên trong đó có Việt Nam. Trong việc sử dụng các khoản vay của WB,
các nước thành viên phải tuân theo quy định mua sắm chung do WB ban hành, quy
định này thường xuyên được sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp với điều kiện thực tế.
Sau đây là một số đặc điểm chính trong quy định đấu thầu của WB:
- Tạo sự cạnh tranh tối đa.
Theo quy định của WB, hình thức mua sắm chủ yếu được sử dụng là đấu
thầu cạnh tranh quốc tế (ICB). Các hình thức lựa chọn khác: đấu thầu hạn chế,
chào hàng cạnh tranh, mua sắm trực tiếp, chỉ định thầu, tự thực hiện… chỉ được
thực hiện trong những trường hợp đặc biệt.
Quy định về nội dung của hồ sơ mời thầu: không được có các yêu cầu mang
tính định hướng. Nội dung của hồ sơ phải đủ chi tiết, rõ ràng về địa điểm xây dựng
công trình, cung cấp hàng hoá, lịch thực hiện, thời gian hoàn thành các công việc,
yêu cầu về tính năng kỹ thuật tối thiểu, yêu cầu bảo hành, bảo dưỡng, thử nghiệm,
tiêu chuẩn, phương pháp kiểm tra chất lượng. Đồng thời, bên mời thầu cũng phải
nói rõ cách đánh giá hồ sơ dự thầu về tất cả các nội dung liên quan như thiết kế,
nguyên vật liệu, thời hạn hoàn thành, điều kiện thanh toán và phương pháp đánh
giá, xếp hạng nhà thầu.
Tất cả những yêu cầu trên nhằm mục đích tạo ra sự cạnh tranh công bằng
cho các nhà thầu, cũng là điều kiện giúp cho bên mời thầu tìm được người bán đáp
ứng nhiều nhất nhu cầu của mình.
- Đảm bảo công khai.
Ngân hàng thế giới luôn đưa ra những quy định nhằm đảm bảo tính công
khai của đấu thầu như: phải đăng tải thông báo mời thầu đối với các gói thầu lớn

8
thông qua một tờ báo của Liên hợp quốc. Nội dung của thông báo này phải bao
gồm thời điểm hết hạn nhận hồ sơ dự thầu, địa điểm nhận hồ sơ dự thầu và mở
thầu, các thông tin về bên vay, số tiền và mục đích sử dụng khoản vay, quy mô
mua sắm theo thể thức ICB, tên và địa chỉ của đơn vị mua sắm.
Thông báo mời thầu phải được đăng ít nhất trên một tờ báo phát hành trên

phạm vi toàn quốc của nước vay (hoặc trên công báo), khuyến khích gửi thông báo
mời thầu tới các sứ quán, đại diện thương mại của các nước có nhà thầu.
Mở thầu công khai cũng là một nguyên tắc cơ bản của WB, bên mở thầu
phải mời tất cả các nhà thầu tham gia tới dự lễ mở thầu. Những nội dung cơ bản
đối với từng hồ sơ dự thầu phải được đọc rõ, ghi vào biên bản mở thầu.
Tính công khai của hồ sơ mời thầu còn được thể hiện ở sự chi tiết, đầy đủ
của hồ sơ mời thầu bao gồm cả tiêu chuẩn đánh giá nhà thầu.
- Ưu đãi nhà thầu trong nước.
WB quy định chế độ ưu tiên trong xét thầu đối với các nhà thầu đủ điều kiện
ưu đãi thuộc nước vay nhằm mục tiêu tạo ra sự công bằng trong đấu thầu giữa các
nước thành viên.
- Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu.
Đặc điểm chung của phương pháp này của WB là vừa tiên tiến, linh hoạt lại
đảm bảo sự chặt chẽ.
* Đối với đấu thầu dịch vụ tư vấn, sử dụng 6 phương pháp đánh giá sau:
+ Đánh giá đánh giá tổng hợp (xem xét cả 2 yếu tố chất lượng và chi phí).
+ Đánh giá dựa trên cơ sở chất lượng.
+ Đánh giá dựa trên một nguồn ngân sách cố định.
+ Đánh giá trên cơ sở chi phí thấp nhất.
+ Đánh giá trên cơ sở năng lực.
+ Phương pháp chọn theo một nguồn duy nhất.
* Đấu thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp, các bước đánh giá như sau:
+ Bước đánh giá về kỹ thuật.
+ Đánh giá về tài chính, thương mại để xếp hạng nhà thầu.

9
- Các nguyên tắc cơ bản trong quy định mua sắm của WB.
+ Không phân biệt đối xử.
+ Không đàm phán về giá.
+ Đảm bảo sự cạnh tranh, công bằng, minh bạch trong quá trình đấu thầu.

+ Không được vi phạm quy định về đấu thầu.
+ Có điều chỉnh theo thời gian.
1.1.4.

Quản lý đấu thầu của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB).
Các quy định đấu thầu của ADB cũng tương tự như của WB, chỉ có một vài
khác biệt nhỏ trong tuyển chọn dịch vụ tư vấn. Nguyên tắc chính trong Quy chế
Đấu thầu của ADB là cạnh tranh.
- Các thông báo mời thầu phải được thực hiện trên tờ ADB’s business
opportunities (Cơ hội kinh doanh của ADB) chủ yếu dùng tiếng Anh.
- Hồ sơ mời thầu phải mô tả rõ ràng, chi tiết, chính xác về số lượng, chất
lượng, địa điểm, thời gian giao hàng hoặc lắp đặt, yêu cầu về bảo lãnh, bảo hành,
bảo trì và những yêu cầu cụ thể khác nhằm mục tiêu đảm bảo tính cạnh tranh. Các
tiêu chuẩn kỹ thuật, phương pháp và tiêu chuẩn đánh giá cũng phải được nêu rõ
trong hồ sơ mời thầu.
Ngoài ra, các báo cáo xét thầu và đề nghị hợp đồng đều phải do ADB xem xét
và phê duyệt theo đúng quy định nêu trong hướng dẫn mua sắm của ADB.
- Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu.
Tương tự như của WB, chỉ có một vài đặc điểm riêng biệt là:
- Coi trọng tính hợp lệ của nhà thầu: chỉ có những thành viên của ADB mới
đủ tư cách là nhà thầu hợp lệ. Quan điểm của ADB trong lựa chọn nhà thầu tư vấn
là ưu tiên đánh giá về kỹ thuật, nếu như WB quy định danh sách ngắn trong đấu
thầu lựa chọn tư vấn là từ 3 đến 6 nhà tư vấn thì của ADB là từ 5 đến 7.
- Quy trình thực hiện: Bên cạnh việc ban hành hướng dẫn mua sắm của
ADB với nội dung ngắn gọn, chặt chẽ, ADB còn ban hành sổ tay hướng dẫn chi
tiết. Trong đó, ADB đưa ra quy trình thực hiện chi tiết nhằm thực hiện quá trình
lựa chọn nhà thầu đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả mua sắm.

10
- Ưu đãi nhà thầu trong nước.

- Tính quốc tế cao: thể hiện ở các điểm.
+ Thông báo mời thầu sử dụng tờ báo tiếng Anh hoặc yêu cầu đăng tải trên
tờ báo có lưu lượng phát hành rộng rãi trong nước.
+ Ngôn ngữ: Hồ sơ mời thầu và các tài liệu liên quan phải sử dụng tiếng Anh.
1.2. Công tác đấu thầu và quản lý đấu thầu tại Việt Nam.
1.2.1.

Quá trình hình thành và phát triển công tác đấu thầu
Quá trình hình thành và phát triển đấu thầu ở nước ta gắn liền với quá trình
phát triển của nền kinh tế. Trước năm 1945, Việt Nam còn là nước thuộc địa, nền
kinh tế và các chính sách do chính phủ Pháp quản lý và chi phối. Từ năm 1945 sau
khi giành được độc lập và thành lập nước, nền kinh tế của Việt Nam đã hình thành và
bước đầu phát triển, tuy nhiên từ 1946-1954 đất nước trong giai đoạn kháng chiến
chống Pháp, thời kỳ này nền kinh tế còn ở trong giai đoạn sơ khai, chưa có cơ sở hạ
tầng cho nền kinh tế và chưa có hoạt động đấu thầu.
Giai đoạn 1954-1975: Trong giai đoạn này, kinh tế miền Bắc phát triển bình
quân năm là 6% (GDP đầu người bình quân năm tăng khoảng 3%). Do chiến tranh
lan rộng ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Kinh tế trong thời gian này tập trung phục
vụ cho chiến trường với nhiệm vụ giải phóng đất nước. Trong cơ chế kế hoạch hóa
tập trung của nhà nước theo các kế hoạch kinh tế 5 năm, Nhà nước chỉ định cho các
đơn vị thực hiện xây lắp tuỳ theo kế hoạch mà Nhà nước đề ra hoặc căn cứ vào mối
quan hệ giữa các đơn vị đó với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà không qua đấu
thầu. Với cơ chế này, không tồn tại khái niệm cạnh tranh trong tất cả các ngành, lĩnh
vực của nền kinh tế nói chung và trong hoạt động đầu tư xây dựng nói riêng, từ đó tạo
ra nhiều tiêu cực, sai lầm gây thất thoát lớn cho xã hội.
Giai đoạn 1976-1986: Đường lối kinh tế chủ đạo của thời kỳ này là công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của
nhân dân lao động. Thời kỳ này được nhắc đến với danh từ "bao cấp". Nền kinh tế
hoạt động theo cơ chế tập trung kế hoạch hóa. Nhà nước lên kế hoạch cho mọi hoạt
động kinh tế, các xí nghiệp nhà máy cứ theo kế hoạch nhà nước mà làm. Thành phần


11
kinh tế tư nhân bị cấm. Nông dân làm việc trong các hợp tác xã. Kinh tế giai đoạn
này rất khó khăn, trì trệ và rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Trong thời gian này
không có các hoạt động đấu thầu trong nền kinh tế.
Từ năm 1986 đến nay: Từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành
theo cơ chế thị trường, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh bắt đầu được tạo
điều kiện phát triển. Khái niệm cạnh tranh trở nên thông dụng, trong hoạt động đầu tư
xây dựng, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đều bình đẳng
trước pháp luật, đều có cơ hội tham gia xây dựng các công trình ngang nhau nên giữa
các doanh nghiệp luôn tồn tại sự cạnh tranh. Nền kinh tế càng phát triển thì mức độ
cạnh tranh càng gay gắt. Đứng trước thực tế đó, hoạt động đấu thầu đã xuất hiện và
tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp xây dựng có cơ hội được
thể hiện mình một cách tốt nhất. Ở các nước phát triển, đấu thầu đã được áp dụng từ
lâu và mang lại hiệu quả to lớn, còn ở Việt Nam hình thức này còn rất mới. Để tạo ra
môi trường pháp lý nhằm tăng cường hiệu quả của hình thức đấu thầu, cùng với việc
tổ chức thực hiện, các văn bản có tính quy chế được xây dựng, bổ sung và sửa đổi
ngày càng hoàn thiện.
Hệ thống các văn bản của nhà nước liên quan đến đấu thầu:
- Trước những năm 1990, trong các văn bản quản lý đầu tư xây dựng đã xuất
hiện “ Quy chế đấu thầu trong xây dựng” nhưng chưa rõ ràng.
- Năm 1990, Bộ xây dựng ban hành Quy chế đấu thầu trong xây dựng tại
Quyết định số 24/BXD-VKT ngày 12/ 2/1990. Văn bản này được coi là Quy chế đấu
thầu đầu tiên, trong đó quy định tất cả công trình xây dựng nguồn vốn ngân sách và
ngoài ngân sách và hợp tác xã đều phải thực hiện đấu thầu.
- Tháng 3/1994- Bộ Xây dựng ban hành “ Quy chế đấu thầu xây lắp” tại Quyết
định số 06/BXD-VKT thay cho Quyết định số 24/BXD-VKT. Theo đó quy định tất
cả công trình xây dựng thuộc sở hữu Nhà nước đều phải thực hiện đấu thầu.
- Ngày 16/4/1994, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 183/TTg về Thành
lập Hội đồng quốc gia xét chọn đơn vị trúng thầu các dự án đầu tư lớn. Theo quyết

định này, các dự án dùng vốn Nhà nước (bao gồm Ngân sách cấp, vốn vay, vốn viện

12
trợ, vốn Nhà nước ở các doanh nghiệp) đều phải qua đấu thầu, kết quả đấu thầu có
vốn đầu tư trên 10 triệu USD phải thông qua Hội đồng xét thầu quốc gia thẩm định để
trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và phê duyệt.
- Năm 1996, Chính phủ ban hành Quy chế đấu thầu kèm theo Nghị định số
43/NĐ-CP ngày 16/7/1996. Văn bản này mang tính pháp lý cao hơn và phạm vi điều
chỉnh rộng hơn, theo đó, “gói thầu” lần đầu tiên đã trở thành đối tượng quản lý của
công tác đấu thầu. Nghị định 43/NĐ-CP của Chính phủ đã được thay thế bằng Nghị
định số 88/NĐ-CP ngày 1/9/1999 và Nghị định này đã được bổ sung, sửa đổi bởi
Nghị định số 14/NĐ-CP ngày 5/5/2000. Từ năm 1999 đến năm 2003, công tác đấu
thầu được điều chỉnh chủ yếu bằng Nghị định số 88/NĐ-CP và Nghị định số 14/NĐ-
CP, so với cơ chế cũ thì nhiều vấn đề đã sáng tỏ hơn, phương pháp đánh giá để đấu
thầu đã khoa học hơn, chuẩn mực hơn.
- Năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 66/NĐ-CP ngày 12/6/2003 sửa
đổi bổ sung Nghị định số 88/NĐ-CP và Nghị định số 14/NĐ-CP. Với 45% số điều bổ
sung Nghị định 88/CP và 13% số điều sửa đổi bổ sung, Nghị định 14/NĐ-CP đã tăng
cường tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch trong đấu thầu, bảo đảm hiệu quả kinh
tế của dự án, tăng cường một bước công tác thanh tra quản lý hoạt động đấu thầu và
thực hiện hợp đồng, nâng cao công tác quản lý thông tin về đấu thầu và Nhà thầu.
- Với những quy chế, quy định về Đấu thầu trong xây dựng được nói ở trên,
vẫn chưa bao quát được hết được khối lượng công việc, tình huống xảy ra trong hoạt
động đấu thầu và trách nhiệm, biện pháp xử lý các tình huống xảy ra trong đấu thầu.
Ngày 29 tháng 11 năm 2005 tại kỳ họp Quốc hội khóa XI năm 2005 đã thống nhất
ban hành Luật đấu thầu là bước tiến quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về
đấu thầu, tạo tiền đề cho hoạt động đấu thầu ngày càng phù hợp với xu thế hội nhập
toàn cầu. Cùng với việc ban hành Luật đấu thầu, nhà nước cũng đã ban hành Nghị
định 111/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006, Nghị định 58/2008/NĐ-CP ngày 05/05/2008,
Nghị định 85/2009/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2009 về việc Hướng dẫn thi hành

Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng.

13
- Để phù hợp tình hình thực tế ngày 19 tháng 6 năm 2009 tại kỳ họp thứ 5
Quốc hội khóa XII đã thông qua sửa đổi bổ sung Luật đấu thầu năm 2005.
- Tại kỳ họp thứ 6 ngày 26/11/2013 Quốc hội khóa XIII đã thống nhất ban
hành Luật đấu thầu số 43/2013/QH13. Theo đó, Luật đấu thầu năm 2013 có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2014. Luật này gồm 13 chương với 96 điều được xây dựng
trên cơ sở sửa đổi toàn diện Luật đấu thầu năm 2005, Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009. Luật đấu thầu
năm 2013 có 10 điểm mới căn bản là: Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong đấu
thầu; Quy định phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu; Ưu tiên phát triển nguồn nhân
lực trong nước; Mua sắm tập trung; Mua thuốc, vật tư y tế; Lựa chọn nhà đầu tư;
Hợp đồng trong đấu thầu; Phân cấp trong đấu thầu; Giám sát về đấu thầu; Xử lý vi
phạm pháp luật về đấu thầu.
1.2.2.

Thực trạng công tác đấu thầu của Việt Nam trong những năm qua
Trong thập kỷ 80 của thế kỷ trước, nước ta chuyển từ nền kinh tế bao cấp
sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước. Đây là
một bước ngoặt trong quá trình phát triển kinh tế. Sự ra đời của nhiều doanh nghiệp
nhà nước và tư nhân đã tạo nên môi trường kinh doanh cạnh tranh của nền kinh tế.
Các doanh nghiệp trong và ngoài nhà nước cùng nỗ lực để phát triển, hoàn thiện,
nâng cao năng lực để khẳng định vị trí của mình trên thị trường nhằm tìm kiếm việc
làm cho mình. Các dự án không còn được nhà nước giao cho một đơn vị thực hiện
theo kế hoạch mà có nhiều sự lựa chọn các cơ quan, đơn vị đủ điều kiện, năng lực
thực hiện. Đáp ứng nhu cầu đó nhà nước đã cho ra đời các quy định về đấu thầu, từ
Quy chế đấu thầu trong xây dựng năm 1990 của Bộ xây dựng được xem là quy định
đầu tiên về đấu thầu, sau đó là các văn bản quy phạm pháp luật khác về đấu thầu
được ban hành để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, sự ra đời của Luật đấu

thầu năm 2005 là một bước tiến lớn về thống nhất và hoàn thiện các quy định rời
rạc, tản mát về đấu thầu thành một luật riêng quy định về đấu thầu. Trong thời gian
đó Công tác đấu thầu đã được triển khai và đã đem lại những kết quả đáng khích lệ.
Kết quả đấu thầu theo đánh giá chung như bảng 1.1

14
Bảng 1.1: Kết quả đấu thầu theo đánh giá chung
Chỉ tiêu
Đơn vị
1999
2000
2001
2002
2003
2004
Tổng số gói thầu
Gói
9.632
10.179
28.644
32.150
30.269
28.069
Tổng giá gói thầu
Triệu
USD
2.392,75 1.888,98 5.364,31 5.819,25 5.401,70 4.246,02
Tổng giá trúng
thầu
Triệu

USD
2.061,52 1.619,91 4.812,39 5.320,36 4.961,75 3.985,19
Tỉ lệ tiết kiệm
%
13,84
14,00
10,29
8,57
8,14
6,14
Nguồn: Báo cáo số liệu về hoạt động đấu thầu ở Việt Nam của Vụ Quản lý đấu thầu
– Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Nhận xét: Nhìn vào những số liệu tổng quát nhất về hoạt động đấu thầu của
cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu (Vụ quản lý đấu thầu trực thuộc Bộ Kế hoạch
và Đầu tư), ta thấy tổng số gói thầu được thực hiện có sự tăng liên tục và rất nhanh
từ năm 1994 đến năm 2002 nhưng lại có xu hướng giảm dần vào 2 năm tiếp theo
2003 và 2004. Trong khi đó tỉ lệ tiết kiệm thông qua đấu thầu qua các năm lại giảm
liên tục và đều đặn, đặc biệt là vào năm 2004. Những số liệu này giúp chúng ta thấy
sự giảm sút về cả số lượng và chất lượng của hoạt động đấu thầu ở Việt Nam trong
thời gian gần đây. Kết quả đấu thầu theo hình thức lựa chọn như bảng 1.2
Bảng 1.2: Kết quả đấu thầu theo hình thức đấu thầu
Năm
2001
2002
Chỉ tiêu
Số gói
thầu
Tổng
giá gói
thầu

(triệu
USD)
Tổng giá
trúng
thầu
(triệu
USD)
Tiết
kiệm
(%)
Số gói
thầu
Tổng
giá gói
thầu
(triệu
USD)
Tổng giá
trúng thầu
(triệu
USD)
Tiết
kiệm
(%)

ĐT rộng rãi
Tỷ trọng
4.345
(15,13%)
2221,32

1.824,92
(37,92%)
17,85
4.434
(13,79%)
3.255,35
2.919,03
(54,87%)
10,33
ĐT hạn chế
Tỷ trọng
6.081
(21,32%)
2041,58
1.935,49
(40,22%)
5,.20
6.951
(21,63%)
2.022,78
1922,29
(36,13%)
4,97
Chỉ định thầu
và tự thực
hiện
Tỷ trọng
14.855
(51,89%)
791,25

764,926
(15,89%)
3,33
16.430
(51,1%)
116,94
110,19
(2,07%)
5,77
Còn lại
Tỷ trọng
3.363
(11,75%)
310,16
287,05
(5,96%)
7,45
4.335
(13,48%)
424,18
368,85
(6,93%)
13,04


15
Năm 2003 2004
Chỉ tiêu
Số gói
thầu

Tổng
giá gói
thầu
(triệu
USD)
Tổng giá
trúng
thầu
(triệu
USD)
Tiết
kiệm
(%)
Số gói
thầu
Tổng
giá gói
thầu
(triệu
USD)
Tổng giá
trúng thầu
(triệu
USD)
Tiết
kiệm
(%)

ĐT rộng rãi
Tỷ trọng

4.053
(13,39%)
3.434.36
3.117,32
(62,83%)
9.23
4.209
(14,99%)
2.303.14
2.137,61
(53,64%)
7.19
ĐT hạn chế
Tỷ trọng
5.163
(17,06%)
1.450.83
1.372,56
(27,66%)
5.39
4.058
(14,45%)
1.096.57
1.040,34
(26,11%)
5.13
Chỉ định thầu
và tự thực
hiện
Tỷ trọng


15.346
(50,7%)
127.08

124,58
(2,51%)
1.97

14.531
(51,77%)
574.06

557,83
(14%)
2.83
còn lại
Tỷ trọng
5.707
(18,85%)
389.43
347,29
(7%)
10.82
5.271
(18,79%)
272.25
249,41
(6,26%)
8.39

Nguồn: Báo cáo số liệu về hoạt động đấu thầu ở Việt Nam của Vụ Quản lý đấu thầu
– Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Theo số liệu ở bảng trên, tỷ lệ tiết kiệm thu được ở hình thức đấu thầu rộng rãi
là lớn nhất rồi đến đấu thầu hạn chế sau đó mới là chỉ định thầu và tự thực hiện. Còn
với các hình thức còn lại có tỷ lệ tiết kiệm lớn chủ yếu là do tỷ lệ tiết kiệm cao ở hai
ngành Bưu chính viễn thông và Điện lực Việt Nam vì họ có khách hàng truyền thống
đã quan hệ mua bán với nhau từ lâu, còn lại các đơn vị khác tỷ lệ tiết kiệm đều thấp.
So với năm 2002, số lượng gói thầu được thực hiện ở các hình thức cũng như
tỷ lệ tiết kiệm ở các hình thức đấu thầu có sự giảm xuống rõ rệt.
Hình thức đấu thầu rộng rãi dù có nhiều ưu điểm và tạo tỷ lệ tiết kiệm lớn nhất
nhưng vẫn chưa được áp dụng nhiều. Tuy nhiên, cũng có một điểm đáng mừng là
càng ngày tỷ lệ các gói thầu áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi càng chiếm tỷ trọng
lớn hơn so với các hình thức còn lại. Nếu như vào các năm 2003 trở về trước, số
lượng các gói thầu áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế luôn lớn hơn so với đấu thầu
rộng rãi thì đến năm 2004, số lượng gói thầu áp dụng đấu thầu rộng rãi đã vượt qua
đấu thầu hạn chế. Nhưng số lượng các gói thầu áp dụng hình thức chỉ định thầu và tự
thực hiện còn lớn hơn rất nhiều (gấp khoảng 3 lần) so với các hình thức đấu thầu rộng

16
rãi và hạn chế, ngoài ra, tỷ lệ qua này qua các năm thay đổi không đáng kể. Điều này
là một hạn chế lớn cho Việt Nam trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới WTO
và cũng gây thất thoát rất lớn cho ngân sách quốc gia. Các hình thức đấu thầu khác
đấu thầu rộng rãi vẫn chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng số các gói thầu (khoảng
80%), đây là những hình thức không có tính cạnh tranh hoặc tính cạnh tranh không
cao trong đấu thầu. Đây là nguyên nhân làm giảm hiệu quả của hoạt động đấu thầu,
làm mất đi vai trò, chức năng của đấu thầu và là một nguy cơ cần được các nhà quản
lý quan tâm điều chỉnh.
Vài năm gần đây, những tiêu cực liên quan đến đấu thầu được biết đến nhiều
hơn. Liên tục xảy ra những sai phạm, tham nhũng, tiêu cực với số tiền thất thoát từ
ngân sách nhà nước lên đến hàng chục tỷ, hàng trăm tỷ đồng đã bị phanh phui và lên

án. Những tiêu cực này xảy ra ở hầu hết các ngành kinh tế mà tiêu biểu là ngành xây
dựng - một trong những ngành áp dụng đấu thầu rộng rãi nhất.
Những sai phạm nghiêm trọng này cũng là động lực thúc đẩy sự ra đời của
Luật Đấu thầu năm 2005 sau thời gian dài thảo luận tại Quốc hội. Trên thực tế, sự ra
đời của Luật này dù còn chậm nhưng cũng rất cần thiết trong việc điều chỉnh, thúc
đẩy sự phát triển đúng hướng, giảm thiểu những “chệch choạc” của hoạt động đấu
thầu. Nó giúp cho hoạt động này phát huy được những chức năng vốn có của mình
trong việc tiết kiệm ngân sách quốc gia, giảm thiểu hiện tượng lợi dụng sơ hở của
pháp luật và sự buông lỏng quản lý để trục lợi cá nhân từ ngân sách quốc gia.
1.3. Những tồn tại trong quản lý đấu thầu.
1.3.1.

Tồn tại của hệ thống văn bản pháp lý về đấu thầu
Qua tổng kết gần 7 năm thi hành Luật đấu thầu năm 2005, các hoạt động đấu
thầu mua sắm sử dụng vốn nhà nước đã dần đi vào nề nếp, ngày càng khách quan,
công bằng, hiệu quả, tiết kiệm. Tuy nhiên, cũng xuất hiện tình trạng lợi dụng sơ hở
một số quy định pháp luật để thông thầu, chỉ định thầu bất hợp lý, kéo dài thời gian
thực hiện gói thầu… gây lãng phí, thất thoát nguồn vốn nhà nước.
Trong quá trình thực hiện Luật đấu thầu 2005 cũng đã bộc lộ những tồn tại,
khó khăn, vướng mắc và hạn chế như:

17
- Phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu hiện hành chưa bao quát hết các hoạt
động mua sắm sử dụng nguồn lực của Nhà nước.
- Các quy định về đấu thầu còn tản mạn, không tập trung, không thống nhất.
Hiện nay ở Việt Nam, lĩnh vực đấu thầu đang được chia nhỏ và quản lý không
tập trung, các quy định về đấu thầu nằm rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp
luật gây nên tình trạng chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các văn bản và gây khó
khăn cho các đơn vị thực hiện trong việc tra cứu áp dụng, cụ thể:
* Đấu thầu lựa chọn nhà thầu: được quy định tại Luật Đấu thầu, Luật Xây

dựng và Luật số 38/2009/QH12
* Đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư dự án có sử dụng đất; thực hiện hợp đồng
BOT, BTO, BT: được quy định tại Luật Đầu tư.
* Đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án theo hình thức đối tác công –
tư (PPP) : được quy định tại Quyết định 71/2010/QĐ-TTg.
* Đấu thầu theo phương thức mua sắm tập trung: được quy định tại Quyết
định 179/2007/QĐ-TTg, Thông tư 22/2008/TT-BTC.
* Đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư xây dựng các cơ sở giáo dục, dạy nghề, y tế,
thể thao, môi trường: được quy định tại Nghị định 69/2008/NĐ-CP.
* Đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công: được quy định tại Quyết định
39/2008/QĐ-TTg.
* Đấu thầu cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích: được quy định tại Quyết
định 256/2006/QĐ-TTg.
- Khó khăn trong triển khai rộng rãi hoạt động đấu thầu qua mạng.
Đấu thầu qua mạng nhằm giảm thiểu thời gian, tiết kiệm chi phí, đồng thời
tăng cường tính minh bạch, cạnh tranh trong đấu thầu, góp phần phòng, chống tham
nhũng, lãng phí và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của Nhà nước.
Nhà nước đã có chủ trương hướng tới Chính phủ điện tử mà một trong những
nội dung quan trọng là ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm chính phủ. Luật
Đấu thầu hiện hành mới chỉ có một điều quy định về đấu thầu điện tử. Do đó không có
đủ khung pháp lý định hướng để triển khai rộng rãi hoạt động đấu thầu qua mạng.

18
- Thủ tục hành chính trong hoạt động đấu thầu còn phức tạp.
Các thủ tục hành chính theo quy định hiện hành trong hoạt động đấu thầu còn
khá phức tạp, rườm rà dẫn đến kéo dài thời gian lựa chọn nhà thầu và gây nhiều khó
khăn cho công tác quản lý đấu thầu. Đơn giản hóa thủ tục hành chính là chủ trương
của Chính phủ tại nghị quyết số 25/NQ-CP, số 70/NQ-CP của Chính phủ và chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 1024/TTg-TCCV ngày 16/02/2010. Đơn
giản hóa thủ tục hành chính nhằm khuyến khích đấu thầu cạnh tranh, khuyến khích

doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia đấu thầu, khuyến khích nhà thầu, lao động, sản
xuất và hàng hóa trong nước phát triển.
Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong đấu thầu cũng đồng thời hướng tới
việc thực hiện các cam kết của Việt Nam với tư cách thành viên Tổ chức thương mại
Thế giới (WTO) và để chuẩn bị đàm phán tham gia Hiệp định Đối tác kinh tế chiến
lược xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do với EU.
- Một số hoạt động đấu thầu nằm ngoài Lĩnh vực và hình thức lựa chọn của
luật hiện hành.
Trên thực tế, nhiều nội dung mua sắm hiện nay chưa được quy định rõ trong
Luật Đấu thầu là thuộc lĩnh vực hàng hóa hay dịch vụ tư vấn để từ đó áp dụng quy
trình mua sắm tương ứng đã gây lúng túng trong quá trình thực hiện Luật, chẳng hạn
các gói thầu về bảo hiểm, về truyền thông, quảng cáo hoặc gói thầu liên quan đến
công nghệ thông tin, các hoạt động dịch vụ ngày càng phát triển. Do vậy, cần thiết bổ
sung thêm lĩnh vực dịch vụ phi tư vấn, dịch vụ sự nghiệp công vào phạm vi điều
chỉnh của Luật Đấu thầu (sửa đổi).
- Hình thức chỉ định thầu được áp dụng nhiều do việc phân cấp phê duyệt chỉ
định thầu chưa nâng cao trách nhiệm của người ra quyết định.
Những năm gần đây tỷ lệ đấu thầu rộng rãi có tăng lên song số lượng gói thầu
áp dụng hình thức chỉ định thầu còn chiếm tỷ trọng rất lớn, đây là hình thức đấu thầu
cần được xem xét hạn chế áp dụng. Để hạn chế áp dụng chỉ định thầu cần nâng cao
trách nhiệm giải trình của người có thẩm quyền quyết định áp dụng chỉ định thầu. Do
đó, để phù hợp với chủ trương phân cấp triệt để gắn với trách nhiệm cụ thể, cần quy

×